Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giảng Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại

03 Tháng Chín 201609:57(Xem: 12775)
Giảng Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại

Giảng Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại

Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna). Trong bản dịch, chúng ta có chữ trời phương ngoại. Trời phương ngoại là cái không gian vượt ra ngoài không gian, chữ Hán gọi là thiên ngoại thiên hay phương ngoại phương. Phươngkhông gian, phương ngoại là ngoài không gian, nghĩa là không gian nằm ngoài không gian. Chúng ta sống trong không gian này, tuy bao la nhưng vẫn còn tù túng, tại vì không gianthời gian ở đây được kết hợp với nhau. Đây là không gian của sinh, của diệt, của còn, của mất, của trên, của dưới, của trước, của sau. Trong không gian đó chúng ta vẫn chưa cảm thấy thật sự thoải mái. Chúng ta học được trong đạo Bụt rằng không gianthời gian mà trong đó chúng ta sống không hẳn là một thực tại khách quan nằm ngoài tâm thức mà là một sáng tạo phẩm của tâm thức. Phương ngoại là một không gian khác vượt thoát không gianthời gian của tâm thức. Không gian này bao la hơn. Trong đó không có sinh, không có diệt, không có tới, không có đi, không có còn, không có mất. Ở trong không gian ấy chúng ta thấy thoải mái hơn nhiều. Ngoại là ngoài, phương ngoại là vượt thoát không gian. Ngoài trời còn có trời, ngoài không gian còn có không gian. Rong chơi trời phương ngoại là đi chơi trong thế giới không gian ngoài không gian. Trong thế giới đó không có ta và không có người, không có sự phân biệt kỳ thị. Không gian đó bao la vô cùng, gọi là Niết bàn. Thường thì chúng ta nói Niết bàn là một cái gì không thể diễn tả được bằng ngôn ngữý niệm. Chúng ta không thể nói gì về Niết bàn, không thể có khái niệm về Niết bàn. Nó nằm ngoài tư duyngôn ngữ của mình. Nói về Niết bàn là nói chỉ để mà chơi, tại vì Niết bàn không thể diễn tả được bằng ngôn từ và khái niệm. Thế nhưng Bụt đã có nói về Niết bàn và chư Tổ cũng đã từng nói về Niết bàn. Các ngài đã làm một chuyện tưởng chừng như không thể nào làm được. Vì thương nên các ngài đã ráng nói một chút về niết bàn và biết rằng trong khi nói, người nói phải rất cẩn thận vì người nghe có thể nắm lấy và kẹt vào những gì mà mình nói. Người nói phải có nghệ thuật nói để giúp cho người nghe đừng kẹt vào những điều mà mình nói. Các Tổ đã tìm cách nói cho khéo. Là người nghe mình cũng phải nghe cho khéo, nếu không thì mình sẽ bị kẹt ngay vào những điều Bụt và các Tổ nói. Người nói và người nghe đều phải có cố gắng. Khi học Kinh Niết Bàn, chúng ta phải có thái độ như vậy. Đó là điều rất quan trọng!

Rong chơi có nghĩa là đi chơi, là không còn vướng bận gì nữa, tiếng Anh dịch là enjoy your time, enjoy yourself. Trời phương ngoại tiếng Anh là the ultimate. Rong chơi trời phương ngoại là enjoy the sky (hay là space) of the ultimate. Hãy thích thú rong chơi trong bản môn, tại vì trong đó không có sinh, không có diệt, không có lo lắng sầu khổ, không có có, cũng không có không.

Trong thần học Cơ Đốc giáo người ta cũng đã bàn rất nhiều về Thưọng đế. Thượng đế là một cái gì không thể diễn tả được bằng lời nói, không thể khái niệm được bằng tâm thức. Tất cả những gì mình nói và nghĩ về Thượng đế đều sai, tại vì Thượng đế là cái tuyệt đối vượt thoát ra ngoài suy tư và ngôn ngữ. Nếu nghiên cứu Cơ Đốc giáo với một tinh thần thật cởi mở thì chúng ta thấy trong Cơ Đốc giáo cũng có cái tương đương với Niết bàn, đó là Thượng đế. Thượng đế không phải là tạo hóa sinh ra vạn vật mà là bản thể, là nền tảng của tất cả. Hiểu như vậy thì God (Thượng đế) là bản thể. Trong Cơ Đốc giáo người ta có dùng danh từ “resting in God” nghĩa là nghỉ ngơi, nương tựa nơi Thượng Đế. Nếu dịch theo ngôn ngữ Thiên Chúa giáo, chúng ta có thể gọi kinh này là kinh “Resting in God”. God là bản môn, resting là quay về nương tựa. “Resting in God” cũng là “The sutra on enjoyment of the ultimate” (Rong chơi trời phương ngoại).

Chúng ta có thể học kinh này bằng thái độ của một nhà khoa học hay thái độ của một tín đồ. Nhà khoa học cho rằng học với thái độ của một tín đồ thì không thể nào khách quan được tại vì hễ Thượng Đế, chúa Jésus hay Bụt nói gì thì chúng ta phải nhất luật tin theo mà không cần đặt câu hỏi. Như vậy là trái với tinh thần khoa học. Học với tư cách một tín đồ, một đệ tử là không hay! Nhưng xét cho kỹ, học với tư cách một tín đồ cũng có cái hay của nó. Trước hết mình có niềm tin nơi thầy của mình. Khi có niềm tin thì mình không hời hợt bác bỏ ngay cái mình chưa hiểu. Nếu nhìn bằng con mắt dò xét, nghi ngờ, đặt câu hỏi thì có thể mình không thiết lập được liên hệ tốt với thầy, với người nói. Do đó sự tiếp thu có thể yếu kém. Sự liên hệ thầy trò, liên hệ tín đồ có thể là một điều tốt. Cái hiểu không phải chỉ do trí năng mà thôi, đôi khi mình có thể hiểu bằng con tim của mình. Tâm của mình không chỉ là đầu óc, tâm của mình còn là trái tim nữa. Nhiều khi con tim có những tuệ giác, những lý luận của nó.

Trong đạo Bụt có nói đến khả năng quyết trạch, so sánh, đối chiếu gọi là tỷ lượng, trong đó có quy nạp (induction) và diễn dịch (deduction). Khoa học dùng tâm mình để quy nạp, diễn dịch. Ví dụ chúng ta nói: Tất cả loài sinh vật đều phải chết. Con người là một loài sinh vật, vì vậy con người cũng phải chết. Đó là lý luận, là tỷ lượng.

Ngoài ra chúng ta có một khả năng nhận thức khác, không cần phải đi ngang qua lý luận, gọi là hiện lượng tức là nhận thức trực tiếp (direct perception), không cần đi qua lý luận. Đây là một khả năng tuyệt vời, nhiều khi tự nhiên mình đạt tới sự thật mà không cần phân tích, suy nghĩlý luận. Trong sự giác ngộ phần hiện lượng rất quan trọng, giác ngộ mà không cần phải đi ngang qua môi giới của suy luận. Đó là một loại trực giác (intuition).

Trong đạo Bụt cũng có nói tới một khả năng thứ ba gọi là thánh giáo lượng. Các bậc giác ngộ đã đi ngang qua những kinh nghiệm, họ đã thấy nên họ tìm cách chỉ lại cho chúng ta. Chúng ta chỉ cần nương trên tuệ giác của họ để tới cho mau mà khỏi phải lần mò đi tìm một mình. Đó gọi là thánh giáo lượng. Kinh là thánh giáo lượng, là những gì mà người đi trước đã đạt tới và tìm cách nói lại cho chúng ta. Nếu khéo léo, chúng ta có thể nương theo đó mà đạt được. Nhưng các ngài không đạt giúp cho mình mà các ngài chỉ có thể hướng dẫn để mình phải tự đạt lấy. Ví dụ, chúng ta chưa bao giờ ăn trái kiwi. Những người đã ăn nói với chúng ta rằng trái kiwi không giống trái cam, trái quít, nó nhỏ bằng quả trứng, vỏ có lông, vị của nó chua chua, ngọt ngọt,… Người kia có ngồi nói như vậy cả ngày thì mình cũng không có được nhận thức trực tiếp về trái kiwi. Nhưng dù vậy, những gì người ấy nói cũng giúp cho mình rất nhiều. Mình biết trái  kiwi không phải là trái cam hay trái quít và mình đỡ mất rất nhiều thì giờ. Khi thấy trái kiwi mình không ngồi lý luận nữa, mình lấy dao cắt ra ăn và đạt tới nhận thức trực tiếp. Trong khoa học cũng có thánh giáo lượng. Có những nhà khoa học đi trước đã tìm ra và người đi sau chỉ cần kiểm chứng không cần phải mất công tìm tòi. Thánh giáo lượng ở đây là rất cần thiết. Khoa học mà kỳ thị tôn giáo là một điều không đúng. Là một đệ tử, một tín đồ, chúng ta thừa hưởng thánh giáo lượng nhưng chúng ta cũng có thể lợi dụng được phương pháp của khoa học. Khoa học có thể giúp cho chúng ta rất nhiều. Ví dụ như trong kinh “Rong chơi trời phương ngoại”, nếu có phương pháp khoa học chúng ta sẽ tìm ra được ý nào là ý của Bụt và ý nào là của chư Tổ thêm vào. Bụt nói, chư Tổ ghi lại bằng cái hiểu của mình nên những câu ghi chép lại đó phản ảnh cái thấy của chư Tổ nhiều hơn là cái thấy của Bụt. Nếu có thái độ khoa học, mình có thể lọc ra ý của chư Tổ để nắm lấy ý của Bụt. Hơn nữa có thể có sự vụng về hay có khuyết điểm trong khi trao truyền. Thí dụ “Đường xưa mây trắng” mà ta nghe hấp tấp thành ra “Áo sơ mi trắng”.

Nhờ có phương pháp của khoa học nên chúng ta có thể lượm ra những sai lầmphục hồi lại cái nghĩa cũ. Bây giờ ngành khảo cổ học và văn bản học có thể giúp được rất nhiều cho việc đó. Trong khi học chúng ta phải áp dụng thêm thái độ của nhà khoa học chứ không chỉ có thái độ của một tín đồ. Có thể trong kinh có những điều không ăn khớp với nhau. Không ăn khớp với nhau không hẳn là trái chống nhau.

Trong đạo Bụt có hai loại sự thật: sự thật tuyệt đối (chân đế) và sự thật tương đối (tục đế). Sự thật tuyệt đối còn được gọi là chân đế hay đệ nhất nghĩa đế. Những kinh diễn tả được sự thật tuyệt đối gọi là liễu nghĩa kinh. Còn sự thật nửa vời thì được gọi là sự thật tương đối. Những kinh Bụt dạy cho người sơ cơ (người mới học) diễn tả sự thật tương đối gọi là bất liễu nghĩa kinh, để giúp cho những người ấy dễ dàng hiểu được, rồi từ đó mới đi sâu hơn vào để tìm về sự thật tuyệt đối. Trong tục đế có sinh, có diệt, có có, có không; nhưng trong chân đế thì không có sinh, không có diệt, không có có, không có không. Đứng về phương diện hình thức thì hai cái chống đối nhau, nhưng trên phương diện nội dung thì cái này giúp đưa tới cái kia. Đôi khi thấy có sự mâu thuẫn trong kinh, chúng ta đừng ngạc nhiên, đừng cho là kinh nói không thống nhất.

Khi dựng lên Kinh Niết Bàn, các Tổ đã lấy những lời Bụt nói về Niết Bàn ở các kinh khác rồi tóm tắt lại. Có thể trong kinh có vài câu còn mang hương vị tục đế nên chúng ta phải hiểu rằng cái này không chống đối cái kia mà là bước thứ nhất để đưa tới bước thứ hai. Đó là tất cả những điều chư Tổ dặn dò, là người học Phật chúng ta phải rất cẩn thận.

Trong Phật học chúng ta có bốn nguyên tắc để căn cứ gọi là tứ y:

1. Y liễu nghĩa kinh bất y bất liễu nghĩa kinh: Chỉ căn cứ vào kinh liễu nghĩa và không căn cứ vào kinh không liễu nghĩa. Chúng ta có thể dùng kinh bất liễu nhưng đừng nên cho nó là kinh liễu nghĩa

2. Y pháp bất y nhân: Căn cứ vào pháp, đừng nên căn cứ vào người. Đôi khi có một người tuy đã là giáo thọ nhưng sự thực tập của vị ấy không biểu lộ được Pháp một cách hoàn mỹ. Có thể vị ấy giảng về uy nghi rất hay nhưng chính vị ấy lại thực tập uy nghi chưa hay gì mấy, thậm chí vị ấy còn hơi khó chịu, nhưng vì vị ấy nắm vững được giáo lý nên mình phải chịu khó nhẫn nại để học cho được giáo pháp mà vị ấy đang có. Nương vào pháp mà đừng nương vào người, nếu chê người thì mình sẽ mất pháp. Khi giảng về “y pháp bất y nhân” các Tổ dùng một hình ảnh rất vui: Trong một thùng rác có một viên ngọc. Nếu muốn có viên ngọc thì mình phải chịu, thọc hai bàn tay vào thùng rác bẩn để lấy viên ngọc ra. Hồi còn là sa di tôi đã được học y pháp mà không y nhân, y vào kinh liễu nghĩa mà không y vào những kinh bất liễu nghĩa.

3. Y nghĩa bất y ngữ: Nương vào nghĩa lý của kinh mà đừng bị kẹt vào danh từ. Phải nghe và hiểu được ý nghĩa tiềm tàng trong lời nói.

4. Y trí bất y thức: Thức là nhận thức, là tâm thức của mình. Tâm thức đó có thể bị màn phiền não vô minh che lấp nên nó không thật trong sáng. Khi đã lấy đi được sự giận hờn, si mê, ganh tị thì mình có trí, mình sáng suốt hơn nhiều. Học hay nghiên cứu  kinh bằng tâm thức còn mang nặng đam mê, giận hờn thì sẽ không đạt được. Vì vậy trong khi học kinh chúng ta phải dùng trí nhiều hơn dùng thức.

Đó là bốn nguyên tắc nương tựa trong khi học kinh gọi là tứ y. Chúng ta đã nghe nói về phương pháp học hỏi, nghiên cứu. Người đời gọi là phương pháp học. Nắm vững được phương pháp chúng ta mới có thể đi sâu và đi xa. Bây giờ chúng ta hãy đi vào bài kệ đầu:

 

Bài kệ 1
Nhẫn vi tối tự thủ
Nê hoàn Phật xưng thượng
Xả gia bất phạm giới
Tức tâm vô sở  hại

忍 為 最 自 守
泥 洹 佛 稱 上
捨 家 不 犯 戒
息 心 無 所 害

Nhẫn là biện pháp hay nhất để tự bảo hộ.
Niết bàn là cái mà Bụt khen ngợi là cao đẹp nhất.
Buông bỏ nếp sống trần tục,
sống đời phạm hạnh, không phạm giới,
Làm lắng dịu được tâm ý,
thì không có gì có thể xâm phạm được đến mình.

 

Trong chúng ta có sự sợ hãi; chúng ta sợ những tai nạn, những mưu mô ác độc xâm phạm tới mình. Sống trong sự sợ hãi, chúng ta không thể nào có hạnh phúc. Ngay trong câu đầu Bụt đã dạy cho chúng ta sống như thế nào để đừng sợ hãi và cảm thấy an toàn. Đó là bước đầu đi vào Niết bàn. Bởi vì Niết bàn trước hết là sự an ổn.

Nhẫn là biện pháp hay nhất để tự bảo hộ. Nhẫn là sự chấp nhận. Chấp nhận được rồi thì mình sẽ có sức mạnh để đi tới và vượt thắng. Niết bàn là cái mà Bụt khen ngợi là cao đẹp nhất. Buông bỏ nếp sống trần tục, sống đời sống phạm hạnh, đừng phạm giới. Biết cách làm lắng dịu tâm ý. Lúc đó an ninh của mình sẽ lớn lên và mình bắt đầu nếm được cái an ổn của Niết bàn.

Ngoài đời, muốn làm giàu người ta đua nhau quảng cáo: “Có được chiếc xe hơi này quý vị sẽ là người hạnh phúc nhất”; “Máy tính của chúng tôi là loại máy tối tân, nó chứa đựng cả một thiên đường trong đó, nó sẽ giúp quý vị biến cái không thể thành cái có thể,...”

Niết bàn không phải là một hóa phẩm mà chúng ta đem đi bán. Chủ nghĩa xã hội Mác- Xít cũng hứa hẹn một thiên đường cộng sản. Nếu muốn mình có thể mua và trở thành đảng viên. Mỗi tôn giáo có thể bán một Thiên đường hay một Tịnh độ, một Niết bàn. Nhưng Niết bàn có phải là một món hàng mà Bụt và chư Tổ muốn đem bán cho chúng ta hay không? Nó có phải là một cái giống như cái thiên đường của Xã hội chủ nghĩa hay như một túp lều tranh có một trái tim vàng mà người ta tìm cách bán cho mình hay không? “ Nếu ông theo đạo của tôi, nếu ông trở thành một thành phần trong tổ chức giáo hội của tôi, thì sau khi chết ông sẽ có Niết bàn, sẽ có Thiên quốc.” Niết bàn có phải là một món hàng như vậy hay không? Chúng ta thấy ngay một cách rõ ràng là không phải. Theo Kinh Niết Bàn thì Niết bàn là cái đã có sẵn rồi, mình không phải mua: Tôi không bán gì cho anh cả. Cái đó đã có sẵn. Nếu biết tiếp xúc thì tự nhiên anh sẽ được hưởng cái đó. Nó như không khí tươi mát của buổi ban mai đã có sẵn, anh chỉ cần mở cửa sổ hoặc đi ra ngoài là anh có thể hưởng được. Chư Bụt, chư Tổ chỉ tìm cách chỉ giúp cho mình thấy mà thôi. Nếu khéo léo một chút thì mình có thể bước rarong chơi trong trời phương ngoại.

Thiên quốc hay thiên đường xã hội chủ nghĩa là những cái thuộc về tương lai. Mình phải mua tự bây giờ nhưng trong tương lai hàng mới được giao. Niết bàn thì không như vậy. Niết bàn có liền ngay bây giờ, không cần đợi tương lai và cũng không cần phải quảng cáo.

Nhẫn là biện pháp hay nhất để tự bảo hộ. Bài kệ thứ nhất bắt đầu bằng chữ nhẫn. Chúng ta ngạc nhiên, tại sao Kinh Niết Bàn lại bắt đầu bằng nhẫn nhục ba la mật? Nhẫn, tiếng Phạn là ksanti, tiếng Việt là chịu đựng. Chữ chịu đựng rất hay! Chịu có nghĩa là có thể đồng ý được, có thể chấp nhận được mà không có khó khăn nhiều. Đựng có nghĩa là mang theo được, dung chứa được, đủ sức để tiếp nhận và dung chứa. Ví dụ chúng ta có một cái thùng có thể chịu đựng được hai mươi lăm gói mì. Tâm của mình cũng vậy. Tùy tâm của mình nhỏ hay lớn mà nó có thể chịu đựng được nhiều hay ít. Chịu đựng được thì không có đau khổ. Khi nghe chữ chịu đựng, có nhiều người hiểu theo nghĩa tiêu cực là cắn răng chịu đựng, nghĩa là trong sự chịu đựng này có khổ đau. Nhưng kỳ thực, hiểu theo đúng nghĩa của nó thì chữ chịu đựng có nghĩa là có khả năng chứa đựng được mà không cần phải cố gắng. Theo nguyên ngữ của chữ chịu đựng: chịuđồng ý, đựng là có khả năng chứa đựng được. Tôi có thể mang anh, bỏ trọn anh vào trái tim của tôi mà không có vấn đề.

Nhẫn là một trong sáu sự thực tập đưa chúng ta đến bờ giải thoát gọi là lục ba la mật. Trong kinh có một ví dụ rất hay về “chịu đựng”. Một hôm Bụt cầm một nắm muối thả vào một bát nước, khuấy lên và nói: “Tôi vừa bỏ một nắm muối vào bát nước, bát nước này rất mặn không sao uống được. Nhưng nếu đem nắm muối ấy thả vào một dòng sông thì nó không đủ sức làm cho dòng sông mặn.” Dòng sông bao la, một nắm muối thả vào lòng nó không có nghĩa gì cả, nó có thể chịu và đựng được nắm muối  mà không có khổ đau gì. Kinh nói: Nước chịu và đựng rất giỏi. Nhưng đất, lửa và gió cũng có khả năng chịu và đựng rất giỏi. Đó là những lời Bụt đã dạy Rahula: “Con hãy tập được như đất. Con hãy tập được như gió. Con hãy tập được như nước. Con hãy tập được như lửa.” Đó là những lời Bụt dạy Rahula về nhẫn nhục ba la mật mà không cần sử dụng danh từ nhẫn.

Khi trái tim của ta lớn thì dù có những khó khăn tới với ta, ta vẫn có thể chấp nhận được và chúng không đủ sức làm cho ta khổ. Còn nếu trái tim ta nhỏ xíu như hạt đậu phụng thì chuyện gì cũng có thể làm cho ta phiền lòng.

Nhẫn ở đây có nghĩa là làm cho trái tim ngày càng rộng lớn. Trái tim càng lớn thì sức dung chứa của nó càng nhiều và khổ đau càng nhỏ. Trái tim của Bụt là một trái tim không biên giới, gọi là vô lượng tâm. Khi trái tim của mình lớn bằng trái tim của Bụt thì không gì có thể làm cho mình bực tức, khổ đau được. Ai mình cũng có thể ôm được vào lòng. Đó gọi là nhẫn, là một cánh cửa mở ra để mình đi vào Niết bàn.

Nhẫn vi tối tự thủ: Thủbảo hộ. Tự thủ là tự mình bảo hộ cho mình. Tối là hay nhất. Câu này nghĩa là: Nhẫn là phương pháp hay nhất để mình tự bảo hộ cho mình. Là học trò của Bụt, là người bạn đồng hành của Ngài, mình thử nhìn vào trái tim của mình để xem nó đã lớn chưa hay là nó còn nhỏ xíu. Nếu trái tim còn nhỏ xíu thì mình sẽ còn nhiều đau khổ. Trái tim mở lớn chừng nào thì mình có nhiều an lạc chừng đó.

Giữa hai câu này có sự so sánh: nếu nhẫn là phương pháp hay nhất để tự bào hộ mình thì:

Nê hoàn Phật xưng thượng: Niết bànmục tiêu cao quí nhất đáng để cho mình đeo đuổi, là cái cao đẹp nhất mà mình có thể đạt tới được. Trong mình phải có cái ước muốn. Không muốn thì thôi mà hễ muốn thì phải muốn cho nhiều mới được. Mới bốn giờ sáng, trời bên ngoài sao trăng rất đẹp, cây cối thức dậy rì rào, hương đêm rất thơm. Nếu muốn, mình có thể tung mền, mặc áo đi ra ngoài là có thể hưởng được hương đêm tinh khiết. Niết bàn cũng vậy, nó là một cái rất dễ chịu. Hạnh phúc mà nó đem lại rất lớn. Muốn hưởng được Niết bàn thì mình phải buông bỏ những hệ lụy tầm thường của cuộc đời. Một khi buông bỏ được những hệ lụy thì tự nhiên Niết bàn có mặt. Cũng như khi buông bỏ cái mền ấm và sự lười biếng, mình mở tung cánh cửa bước ra ngoài thì trăng sao, gió mát liền có đó cho mình. Đừng muốn cái ít hơn. Đã muốn thì phải muốn cái gì thật đẹp, thật lớn. Cái đẹp nhất, lớn nhất đó là Niết bàn.

Ngay bài kệ mở đầu kinh đã rất hay:  Nhẫn là biện pháp hay nhất để tự bảo hộ. Tự do là đối tượng cao đẹp nhất để mình theo đuổi. Niết bàn chính là tự do.

Xả gia bất phạm giới: Những người xuất gia không phạm giới.

Tức tâm vô sở hại: Nếu biết làm lắng dịu tâm ý thì không có gì có thể làm hại được mình.

Tức có nghĩa là làm cho lắng dịu, làm ngưng lại; chữ tức tương đương với chữ chỉ. Tâm mình có thể đang chạy theo những đam mê, hận thù, tâm mình có thể đang còn lo lắng sợ hãi; mình làm tâm êm dịu lại gọi là tức tâm.

Samatha-vipassanâ là thiền. Thiền trước hết là làm ngưng lại, làm lắng dịu lại (thiền chỉ) để từ từ thấy rõ và đạt tới sự thật (thiền quán). Trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở Đức Thế Tôn đã dạy nhiều phương pháp để giúp mình dừng lại và làm lắng dịu tâm. Tâm đã lắng dịu thì không có gì có thể làm hại hay xâm phạm tới mình được.


Bài kệ 2
Vô bệnh tối lợi
Tri túc tối phú
Hậu vi tối hữu
Nê hoàn tối khoái

無 病 最 利
知 足 最 富
厚 為 最 友
泥 洹 最 快

Không bệnh là cái lợi tức lớn nhất
Tri túc là cái giàu có to nhất
Trung thực là người bạn tốt nhất
Niết bàn là cái hạnh phúc cao nhất.

 

 

Vô bệnh tối lợi: Không bệnh là cái lợi tức lớn nhất.

Đây là để đối trị cái tư duy của những nhà doanh thương, lúc nào cũng lo nghĩ tới lợi nhuận. Câu kinh này Bụt nói cho những nhà doanh thương nhưng cũng nói cho tất cả mọi người – những ai muốn có đồng ra đồng vào - một điều rất đơn giản: Sức khỏe là lợi tức lớn nhất. Đừng làm điều gì để hư hao sức khoẻ của mình. Và phải học những phương pháp để giữ gìn sức khỏe.

Tri túc tối phú: Tri túc là cái giàu có to nhất.

Ai là người giàu nhất? Người đó không phải là người có nhiều cổ phần trong thị trường chứng khoán. Khi giá trị chứng khoán xuống thì người đó cũng trở nên nghèo. Nhất là trong thời đại khủng hoảng kinh tế, hôm nay mình có thể giàu nhưng ngày mai mình có thể không giàu nữa. Trong cái nhìn của người giác ngộ thì tri túc là cái giàu có lớn nhất. Tri túc (samtusta) cũng là một yếu tố của Niết bàn. Mình biết từng đó đã là đủ cho mình. Mình đã có đủ điều kiện để có hạnh phúc, mình không cần thêm gì nữa. Tự nhiên mình trở thành người giàu nhất trên đời. Nếu muốn mình có thể làm người giàu nhất trên đời, với điều kiện là phải biết thực tập tri túc. “Tôi có ba y và một bình bát, vậy là giàu quá rồi! Tôi có gốc cây, có cái võng, tôi giàu quá!”  Kinh dạy những điều rất thực tế, không mơ tưởng tới một thiên đường tương lai.

Hậu vi tối hữu: Trung thực là người bạn tốt nhất.

Hậu là dày. Người có hậu là người có tình, cái tình và cái nghĩa của người đó rất dày. Người đó rất trung thực, những người khác có thể nương tựa được.

Người bạn tốt nhất không phải là người có quyền hành để mình có thể dựa vào trong lúc khó khăn. Khi mình gặp tai nạn, có khi người đó không dám lên tiếng bênh vực tại vì người đó sợ mất quyền. Người bạn thân thiết nhất không phải là người bạn có quyền hành, có giàu sang. Trung thực chính là người bạn tốt nhất. Đây là một bài học rất thực tế.

Nê hoàn tối khoái: Niết bànhạnh phúc cao nhất. Khoái được dịch ra tiếng Anh là delight, happiness. Đây là một kinh nghiệm. Người nói lên câu này đã được hưởng Niết bàn. Nếu những cái khác người đó đã nói đúng thì cái này người đó cũng nói đúng.

 

Bài kệ 3
Cơ vi đại bệnh
Hành vi tối khổ
Dĩ đế tri thử
Nê hoàn tối lạc

飢 為 大 病
行 為 最 苦
已 諦 知 此
泥 洹 最 樂

Đói là cái bệnh khó chịu đựng nhất.
Các pháp hữu vi là cái gây khổ đau nhiều nhất.
Cứ nhìn vào sự thực mà tìm hiểu
Thì Niết bàn là cái lạc thú lớn nhất.

 

 

Cơ vi đại bệnh: Đói là cái bệnh khó chịu đựng nhất.

Ở đây chưa có vị nào đã từng trải qua một cơn đói thực sự đâu. Bảy tám giờ tối chưa được ăn chưa phải là đói. Nhịn ăn mười, mười lăm ngày để thanh lọc cơ thể chưa gọi là đói. Phải đói cả mấy tháng trời không có ăn, đó mới thật là đói. Khi ấy mới thấm thía được nỗi thống khổ của cái đói.

Hành vi tối khổ: Các pháp hữu vi (các hành) là cái gây khổ đau nhiều nhất.

Hành tiếng Phạn là samskāra. Trước hết hành có nghĩa là tất cả các pháp, các hiện tượng, tất cả pháp hữu vi như núi, sông, cây cỏ, đất đá, con người, thú vật, đều là hành. Các pháp nương vào nhau mà biểu hiện ra thì gọi là hành. Các hành đều vô thườngvô ngã. Các pháp hữu vimặt trái của Niết bàn. Niết bànvô vi. Các pháp hữu vi vì có sinh, có diệt, có qua có lại, có còn, có mất nên gây nên nhiều khổ đau. Nhưng khi tiếp xúc thật sâu với các pháp hữu vi thì chúng ta chạm tới Niết bàn. Chạm vào Niết bàn thì chạm vào pháp vô vi (asaṃskṛta). Chạm vào cái vô vi thì không còn lên xuống, sinh diệt nữa.

Sóng là một pháp hữu vi có lên, có xuống, có có, có không. Nhưng khi sóng biết trở vềtìm ra được mình là nước, biết rõ mình là một pháp vô vi rồi thì nó hết sợ, lên cũng vui mà xuống nó cũng vui. Hành là các pháp hữu vi ngược lại với Niết bàn, là một pháp vô vi. Thật ra các hành không phải là nguyên do chính của khổ đau. Nguyên do chính của khổ đau là nhận thức sai lầm của chúng ta về các hành: chúng vô thườngvô ngãchúng ta cứ tưởng chúng là thường và là ngã, cho nên chúng ta khổ. Nếu nhìn sâu vào bản chất của chúng và thấy được tự tánh Niết bàn vô vi trong chúng thì chúng không còn làm cho chúng ta đau khổ nữa.

Mình tiếp xúc với Niết bàn bằng cách tiếp xúc với các pháp hữu vi cũng như mình tiếp xúc với nước bằng cách tiếp xúc với sóng.

Dĩ đế tri thử: Lấy sự thật mà xét thì

Nê hoàn tối lạc: Niết bànhạnh phúc lớn nhất.

Còn tám ngày nữa chúng ta sẽ mở cửa cho thiền sinh các nước tới. Chúng ta hãy sửa soạn trái tim của mình cho lớn để có đủ không gian thênh thang cho những người đến với chúng ta. Có thể có đến 4000 người tới rải rác trong vòng bốn tuần lễ. Chúng ta có bổn phận đem niềm vui và hạnh phúc cho họ. Muốn được như vậy chúng ta phải đem lại hạnh phúc cho chúng ta trước. Anh chị em trong nhà phải nương tựa vào nhau. Nắm tay nhau trong tình huynh đệ, như thế thì chúng ta có thể làm hạnh phúc cho rất nhiều người trong vòng một tháng của khóa tu mùa hè. Các sư anh, sư chị lớn nên kể chuyện cho các sư em nghe, nhất là những sư em nào chưa từng được tham dự khóa tu mùa hè về những kinh nghiệm, những niềm vui, những công việc, những phương pháp làm hạnh phúc cho các bạn thiền sinh tới với mình. Khi có sự hòa thuận, có tình anh chị em, có hạnh phúc và niềm vui trong tăng thân thì chúng ta làm hạnh phúc cho người khác rất dễ.

Đọc kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại quí vị có cảm tưởng là mình đang đọc một bài thơ. Khi dịch kinh xong, tôi thấy rất biết ơn chư Tổ đã ngồi đọc hết các kinh rồi lấy những lời Bụt dạy rải rác trong tất cả các kinh về chủ đề Niết bàn để gom lại thành một kinh. Trong Kinh Pháp Cú bằng tiếng Pali không có Phẩm Niết Bàn. Phẩm Niết Bàn này chỉ có trong Kinh Pháp Cú Hán tạng.

_________________
Phiên tả : Chân Giác Lưu

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 37216)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28251)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28862)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 27126)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 34551)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27773)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 33199)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28518)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30027)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25457)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 51235)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26664)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28575)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 24316)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27417)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31876)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30137)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27656)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35382)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27399)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 31695)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 24132)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22976)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26608)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28205)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29324)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33208)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21723)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 20580)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22209)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23942)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22820)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23165)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30367)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 21752)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 19227)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20124)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 32667)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33968)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27720)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 23793)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 23163)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 28102)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 19179)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24539)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21391)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23797)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 29355)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 30971)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25280)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 20091)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 19016)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20099)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20005)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 19379)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22533)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 31093)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 19666)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 19652)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23937)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant