Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kệ Ca Ngợi Pháp Giới

27 Tháng Chín 201620:20(Xem: 12034)
Kệ Ca Ngợi Pháp Giới

KỆ CA NGỢI PHÁP GIỚI



   Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển 32, thuộc Luận Tập Bộ toàn, Kinh văn số 1675.

Thánh Long Thọ Bồ Tát tạo, Tây Thiên, nước Điểu Điền, chùa Đế-Thích Cung, Tam Tạng Truyền Pháp Đại Sư Sắc Tử Sa môn Thần Thí Hộ dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán.

Sa-môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Đức quốc dịch Hán- Việt, mùa An cư kiết hạ, Phật lịch 2551, nhằm ngày 09/08/2007 tại thư phòng chùa Viên Giác.

Tỳ Kheo Thích Hạnh Nhẫn góp phần hiệu đính xong lần thứ nhất ngày 22/9/2016



Quy mạng mười phương Phật

Pháp, Báo và Hóa Thân

Nguyện cùng các chúng sinh

Chóng thành Pháp giới tính.


Luân hồi ba đường ác

Lý pháp giới không động,

Xưa nay thường thanh tịnh

Các tướng chẳng thể đổi.


Tịch tĩnh như hư không

Trọn khắp  ở mọi chỗ

Thể đều lìa đây, kia

Không sâu cũng chẳng cạn.


Khi sữa chưa chuyển đổi

Chẳng thấy tô, đề-hồ,

Phiền não chưa hàng phục

Pháp giới do đâu hiển?


Như tô ở trong sữa

Tô vốn diệu quang minh,

Phiền não che pháp giới

Thể thanh tịnh viên mãn.


Như đèn bị ngăn che

Không thể chiếu vật khác,

Vô minh hằng che tâm

Pháp giới không sáng tỏ.


Như đèn lìa chướng ngại

Chiếu được vật khắp nơi,

Khi phá tan phiền não

Chân như thường hiển hiện.


Đầu, giữa và cuối cùng

Hai chướng không thể nhiễm,

Như châu lưu ly sạch

Ánh sáng thường tỏa chiếu.


Ánh sáng bị vật ngăn

Bị chướng chẳng thấy sáng,

Phiền não che pháp giới

Chân như khó hiện.


Thể viên tịch sáng sạch

Luân hồi không thể nhiễm,

Cần cầu đến pháp giới

Luân hồi chẳng thể che.


Như gạo trong vỏ trấu

Thể của gạo chẳng không,

Phiền não che Chân như

Phiền nãoChân như.


Như lột bỏ vỏ kia

Thể gạo tự nhiên hiện,

Nếu lìa vỏ phiền não

Lý pháp giới mới hiển.


Vọng chấpthế gian

Vỏ chuối rốt chẳng thật,

Pháp giới không thế gian

Hư vọng cũng không thấy.


Như người uống Cam-lộ

Nhiệt não trọn đều dứt,

Nếu chứng pháp giới tính

Nóng phiền não đều hết.


Diệt trừ diễm phiền não

Cam-lộ pháp giới hiện

Trong tất cả hữu tình

Cao, thấp đều bình đẳng.


Thể thật quả không sinh

Quả loại chấp không có,

Khi trí huệ sinh ra

Hữu vi không pháp giới.


Pháp giới vốn không nơi

Rốt ráo mới chứng được,

Thanh tịnh hằng sáng sạch

Nhật nguyệt đều sáng sạch.


Pháp giới không cấu nhiễm

Như bụi, đêm rồng mưa

Sánh tợ mặt La-hầu

Quang minh hằng xán lạn.


Ví như lửa tẩy vải

Chỗ lửa lìa được nhiễm,

Trừ bẩn chỉ còn vải

Quang minh chuyển sáng sạch.


Tham ái khiến tâm nhiễm,

Hư vọngluân hồi

Cũng như lửa tẩy vải

Chân không không có vọng.


Ba độc gốc sinh tử

Lửa trí tuệ thiêu được

Thể pháp giới thường có

Sáng trong thường chiếu diệu.


Nhiễm phiền não gọi nhơ

Thường được Thế Tôn nói,

Diệt nhơ, Chân như hiện

Như suối dẫn từ đất.


Nếu trừ sạch phiền não

Sáng sạch lớn khó lường,

Pháp giới vốn vô ngã,

Không nhị hình, nam, nữ.


Thể không, chấp hư vọng

Chỗ nào thêm nghĩ suy?

Pháp giới lìa yêu, ghét

Căn, trần, cảnh vốn không.


Chấp hư vọng làm nhân

Khác nhau sinh từ đây,

Chân không không khổ não

Tham ái – nhân khổ não.


Đắm nhiễm do vọng tưởng

Bèn luân hồi ba cõi,

Hoài thai ở trong bụng

Hài nhi chưa thể thấy


Hai chướng che Chân như

Không thể chứng pháp giới,

Sinh đủ loại nghi ngờ

Kiến, mạn và sân, si


Vọng chấpchân thật,

Chân thật - chấp không có,

Thể sừng thỏ không có

Vọng chấp khiến thành thật.


Pháp giới lìa vọng chấp,

Vọng chấp thực chẳngcó,

Như sắc ắt phá hoại

Vi trần khá biết được.


Pháp giới không phá hoại

Trong ba thời chẳng được,

Có sinh ắt có diệt,

Vinh nhục cũng đều theo.


Pháp giới không sinh diệt

Làm sao nói: Được biết?

Sừng thỏ vốn không có

Nghĩ được trong ba thời?


Chân không không sừng thỏ

Tư lự chẳng thể biết

Chân không gọi Thiện Thệ

Sắc tướng trọn đều mất.


Đáng độ, tùy duyên có

Tu nhân lìa chấp không,

Viên thông như nhật nguyệt

Nước hiện ảnh đều đồng.


Sắc, thanh cùng dứt sạch

Khác nhau có thế nào?

Ba thời khá tìm nghĩ

Khi sinh duyên quyết định.


Nếu ngộ pháp tự thân

Tự thân làm sao có?

Như nước ở chỗ nóng

Chỗ nóng giác ngộ không.


Chỗ lạnh cũng như thế

Viên thông đều như vậy

Phiền não hằng che tâm

Mê hoặc chẳng thể rõ.


Nếu lìa trói phiền não

Giác ngộ thời không có,

Như mắt quán các sắc

Lìa chướng được chiếu diệu.


chân không cũng thế

Chiếu diệu lìa sinh diệt,

Nhĩ thức nghe âm thanh

Lìa vọng và phân biệt.


Tính pháp giới cũng vậy

Vọng phân biệt không có,

Mũi ngửi được các hương

Tính vọng chấp không có.


Sắc tướng cả hai mất

Chân không cũng như thế

Tự tính thiệt căn không,

Vị giới hằng viễn ly.


Thể thức không cũng vậy

Lý pháp giới như thế,

Tự tính thân căn tịnh

Xúc lạnh, nóng không có.


Lý pháp giới cũng thế

Xúc xứ thường viễn ly,

Ý duyên pháp gọi nhất

Tự tính thường viễn ly.


Tính chư pháp vốn không

viên thông như vậy,

Thấy nghe và giác biết

Pháp tương ưng cũng không.


Liễu tuyệt các vọng tưởng

Lý: Thấy nghe cũng không,

Căn- trần, khởi vọng chấp

Thể thanh tịnh vốn không.


Mê chấp, có căn – trần

Lý: Căn trần không có,

Thế gianxuất thế

Tính không vốn chẳng khác.


Ngã, pháp do mê khởi

Chấp khắp, tự luân hồi,

Lý pháp giới thanh tịnh

Tham, sân, si vốn không.


Mê, ngộ từ tâm khởi

Pháp tam độc giả danh,

Mê chấp tự trói buộc

Trí- liễu đạt giả danh.


Bồ-đề chẳng xa gần

Lý: Ba thời không có,

Lồng phiền não mê chấp

Kinh Thế Tôn đã nói.


Trí sinh- hoặc nhiễm diệt

Vọng chấp- vật trói buộc,

Đi lại chấp tối thắng

Thể không còn khá nghĩ


Bồ-đề không vọng chấp

Chứng chính cũng biết không,

Nước, sữa cùng một chỗ

Ngỗng uống sữa không nước.


Sinh không lìa phiền não

Hai chướng cũng không tạp

Vọng chấp ngã chẳng không,

Liễu đạt vốn không có.


Niết-bàn thanh tịnh

Hai ngã cùng không lập

Tam đàn trai tu thí

Trì giới lìa lỗi lầm.


Nhân Nhẫn – quả đoan chính

Nương tinh tấn, dũng cần,

Tĩnh lự khiến tâm định,

Bát-nhã dụng vô ngại


Nguyện kèm lực phương tiện

An trụ thắng Bồ-đề,

Bồ-đề khó vọng chấp

Chân không chẳng sinh diệt.


Liễu đạt bản tính không

Hai tướng cùng không có,

Sữa đường lìa cây mía,

Lìa mía, không có đường.


Giữ gìn hạt lúa mạch

Mầm nhánh ắt được sinh,

Gìn giữ giống Bồ-đ

Bồ-đề từ đây sinh.


Ví như trăng trong ám

Còn chưa thấy ánh sáng,

Phiền não trói hữu tình

Chân như chưa thể thấy.


Trăng non tuy có sáng

Từ từ mà tăng trưởng,

Sơ địa chứng Bồ-đề

Bồ-đề chưa viên mãn;


Mười lăm trăng tròn đầy

Nơi nơi ánh sáng chiếu,

Giải thoát hiển pháp thân

Lý Pháp thân không khuyết.


Ý tương ưng nhiễm ô

Trói buộc cùng sinh diệt,

Giải thoát tất cả chướng

Ngộ ba thời không có.


Đủ a-tăng- kỳ đầu

Tam đàn tu khắp cả

Đoạn trừ chướng phân biệt

Trí Hoan h khó sánh.


Ba nghiệp lầm kiêm phạm

Phòng lỗi nặng và nhẹ

Thi-la giới viên mãn,

Ly- cấu độc nêu danh.


Hai chướng hằng thời nhiễm

Đao tuệ trừ, đều không,

Phát Quang được chiếu diệu

Phá diệt lần không sót;


Lìa xa căn tùy nhiễm

Dần tăng uy Diễm Tuệ

Bồ- đề xưng tối thắng

Thiêu chiếu chuyển sáng chói.


Hai đế gọi Chân, Tục

Tương ưng, nếu mâu thuẫn

Hợp lại khiến không ngại

Nan Thắng sự hằng thời


Mười hai duyên sinh trí

Đường về lý tuần hoàn,

Tối thắng thâm sâu nhất

Bát-nhã hiện ở trước.


Hành thế gian, Nhị thừa

Đạo tu lâu đã tỏ

Đủ tướng Vô công dụng

Sau rốt gọi Viễn Hành.


Dụng trí vô phân biệt

Tùy duyên tự nhiên thành,

Hàng chúng ma thối tán
Bất Động danh rực rỡ.


Thiện Tuệ gọi vô ngại

Mười phương diễn pháp hiếm

Thân trút mưa Cam lộ,

Hiện chỗ nương tối thắng.


Các đức giống như nước,

Thân dụ như hư không,

Thô nặng đều che lấp

Đại Pháp Trí-gọi Mây.


Xét kỹ việc luân hồi

Ai tránh được nghiệp dẫn?

Phải biết không khổ não

Tịnh độ chớ nghĩ: Phiền.


Quy mạng chân Phật tử

Lên vị Mây Trí Tuệ

Tế vi đều đoạn sạch

Vượt khổ, lìa các trần.


Quán đỉnh các quang chiếu

Thân khắp các căn, trần

Đại định Kim Cang tịch

Các khổ chẳng theo thân;


Tòa Đại Bảo Hoa Vương

Thành bởi vô lượng diệu

Khắp phổ biến trang nghiêm

Công đức thật khó nghĩ;


Mười phương đều vô úy

Đủ ba thân, bốn trí,

Sáu thông luôn tự tại

Ứng vật độ cơ duyên;


Chiếu diệu như trăng tròn

Lửa hừng hực cháy luôn

Mười phương đâu chẳng khắp

Xán lạn chuyển rực rỡ.


Vĩnh viễn dứt duyên nhiễm

Nơi chỗ luôn Niết-bàn

Gọi Bồ-đề tối thắng

Hóa vật lợi tình vui.


Dụng trí sâu như biển

Theo cơ hiện Ứng thân

Nước trong trăng ảnh hiện

Khắp chốn độ mê tân.


Giống như báu Pha-chi

Tùy duyên hiện ảnh đồng

Căn tình vật có cảm

Biến khắp sự vô cùng.


Ngạ quỷ luôn đói khát

Chẳng thấy được suối nước,

Chúng sinh không chút tín

Nghiệp xưa tự trói buộc.


Hóa hiện các tướng thân

Ánh sáng đều rực rỡ,

Phật tuy luôn tại thế

Không gặp vì không duyên;


Biết rõ trần sa giới

Căn theo nhiễm chưa lâu,

Hai Không trí thù thắng

Diệu dụng độ ngu mông.


Thanh tịch sạch các nhơ

Thân tự, tha thọ dụng

Thường ở Sắc Cứu Cánh

Lợi ích người năm thừa.


Cứu vớt khổ chúng sinh

Thọ mạng dài vô lượng

Hai nghiêm không cùng tận

Công đức lớn khó lường.


Phật diễn pháp Nhất thừa

Tùy cơ hiểu nông sâu

Hoa sen không nhiễm dơ

Ngọc vốn sạch vết khuyết.


Ngợi ca một phần nhỏ

Nói rộng lý mầu nhiệm

Nguyện đem các công đức

Khắp thí lợi Trời, Người.



KỆ XƯNG TÁN PHÁP GIỚI.



Phật Tử Thanh Phi sửa lại lỗi chính tả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16466)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11927)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12103)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12798)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12745)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10241)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13978)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10244)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13712)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16276)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11979)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12989)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11664)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12692)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10808)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11014)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10955)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11908)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12775)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11075)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12632)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11342)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12530)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14116)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10859)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10530)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11204)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12012)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13168)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12360)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15355)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12119)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15379)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12012)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12424)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11194)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12096)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10626)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12566)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13179)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14849)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12698)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16587)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19678)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12274)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13544)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11963)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11645)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12776)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14529)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12626)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15670)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13634)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12912)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18025)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11176)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12189)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13063)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10321)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant