Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giác Ngộ Trong Kinh Bát Đại Nhân Giác

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 15860)
Giác Ngộ Trong Kinh Bát Đại Nhân Giác

GIÁC NGỘ TRONG KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC

Thích Viên Giác

Kinh Tám Điều Giác Ngộ có hai mục đích: một là trang bị cho mình khả năng giải thoát khỏi sự trói buộc của sanh tử; hai là sử dụng khả năng ấy để giúp cho chúng sanh cũng được lợi ích giải thoát như mình. Thực ra, bản chất của giáo phápĐức Phật dạy luôn bao hàm hai khả năng ấy.

I. NỘI DUNG CỦA TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ 

Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy; Phần ba là phần khuyến khích tu tập theo tám điều giác ngộ ấy, phần này coi như là phần kết thúc của kinh.

1. Lời mở đầu của kinh Bát Đại Nhân Giác rất ngắn gọn và đơn giản, có tính cách giới thiệu chủ đề, không như phần mở đầu của các kinh khác thường có. Điều nầy chứng tỏ khi trích lục, soạn thảo tám điều giác ngộ, Ngài An Thế Cao đã chủ động giới thiệu để người đọc có thể đi thẳng vào nội dung. 

Mặc dù ngắn gọn nhưng tha thiết, vừa nói lên trách nhiệm và bổn phận của người Phật tử vừa chỉ dẫn những điều cụ thể phải thực hành. Trách nhiệm của người Phật tử là gì? Ở đây không nói là người xuất gia, vậy từ Phật tử chỉ chung cho tại giaxuất gia. Mang danh con của Phật thì phải thể hiện tính của Phật, đấy là chỗ khác biệt giữa người Phật tử và không là Phật tử; đấy là trách nhiệm của người Phật tử, những biểu hiện ở hành vingôn ngữ cũng như tâm ý của người Phật tử luôn có sự cao thượng, lợi íchhạnh phúc cho những người xung quanh.

Để xứng đáng với danh nghĩa là con của Phật, người Phật tử phải có quá trình tu tập bản thân; không phải tụng kinh, niệm Phật theo thời khóa nhất định mà sự tu tập ấy phải diễn ra mọi lúc, mọi nơi. Vì vậy, lời mở đầu gọi là trú dạ, là ngày cũng như đêm. Như vậy mới đủ năng lực chuyển hóa tính phàm phu của mình.

Tụng niệm không có nghĩa là đứng trước bàn Phật tụng kinh gõ mõ là đủ. Tụng là đọc tụng, còn niệm là an trú tâm vào đối tượng, còn gọi là chánh niệm, là hướng tâm, an trú tâm vào đối tượng, ở đây chính là Tám Điều Giác Ngộ của Bậc Đại Nhân. Do tụng và niệm thường xuyên làm huân tập chủng tử thiện pháp, trí tuệ?ngày càng lớn, thân tâm càng thanh tịnh, càng ngày càng gần với tính Phật như vậy xứng đáng là con của Phật. 

Bậc Đại Nhân là người lớn, là người trưởng thành, chỉ cho những người không còn bị sai khiến hay bị chế ngự bởi các phiền não, dục vọng. Theo truyền thống Đại thừa thì chỉ cho Phật và Bồ-tát, theo truyền thống Nguyên thủy, đó là những vị chứng quả A-la-hán hay trên đường chứng quả A-la-hán. 

1. Điều giác ngộ thứ nhất là quán chiếu để thấy rõ pháp ấn: Vô thường, khổ, không, vô ngã ở nơi thân tâm của con người với mục đích bỏ những vướng mắc tham đắm, chấp thủ đối với con ngườicuộc đời. Duy trì sự quán chiếu ấy trên đối tượng thân, tâm, hoàn cảnh của mình; mình sẽ có thái độ ứng xử thích hợp với chân lý. Đây không phải là lối nhìn bôi đen đời sống, hay lối nhìn tiêu cực, mà chính là cách nhìn của tuệ nhãn đầy tích cực, nó có tác dụng mang lại sinh lực cho chúng ta. Con người đau khổ mất mát sinh lực chính là do nhìn đời ngược lại. Thành tựu các "niệm xứ" như kinh đã dạy, tức là bước vào Thánh đạo, không có con đường nào khác. Nhãn quan của đạo Phật về cuộc đời quá rõ như Kinh Kim Cương dạy:

"Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điển
Ưng tác như thị quán."

2. Nội dung của điều giác ngộ thứ hai là "ham cầu nhiều thì vất vả, khổ sở nhiều; đó là quy luật, đó là con đường phàm phu ngu muội. Con người cứ tưởng rằng họ đạt được nhiều tiền bạc hay địa vị cao là họ thỏa mãn, họ có hạnh phúc. Nhưng thực tế thì vui ít, hạnh phúc ít mà buồn sầu đau khổ thì nhiều. Cuối cùng con người cũng nhận ra chân lý đơn giản này khi họ buộc phải từ bỏ tất cả, như khi chết chẳng hạn.

Nỗi đau khổ của cuộc đời giống như nồi nước đang sôi, ngọn lửa làm cho nước sôi là ngọn lửa tham dục, ngọn lửa càng lớn, nước càng sôi và càng cạn kiệt, ngọn lửa càng yếu thì nước sôi sẽ bớt nhiệt độ và hết sôi. Cũng vậy, ngọn lửa tham dục bớt đi thì đau khổ sẽ giảm, giảm mãi hằng ngày đến lúc không còn gì để giảm nữa (vô vi) thì sự giải thoát tối hậu được thành tựu.

3. Trong điều giác ngộ thứ ba, có hai con đường mà ta phải chọn lựa: Một là lao đầu vào đời sống thế tục tìm kiếm lạc thú và đương nhiên hưởng thụ cả đau khổ, con đường đó được làm bằng dục vọngtội lỗi. Hai là con đường xuất thế siêu thoát lên trên mọi cám dỗ dục lạc, thành tựu những an lạc siêu thế, chấm dứt khổ đau, con đường nầy được làm bằng tri túctrí tuệ, đấy là con đường của đệ tử xuất gia, của người tu sĩ Phật giáo, đây là con đường của người cư sĩ thực hành Bồ-tát hạnh.

4. Điều giác ngộ thứ tư dạy rằng sự tu tập cũng như chèo thuyền ngược nước không chèo là bị dừng lại và thối chuyển, tinh tấn là một đức tính cần thiết cho sự chèo con thuyền Bát-nhã vượt biển sanh tử. Đã là một đức tính thì cũng cần phải tu tập: Tinh tấn tu tập hạnh tinh tấn, không có cái gì tự có hoặc ngẫu nhiên. Tất cả đều tuân thủ các quy luật nhân quả, nghiệp báo, duyên sinh. Nhân như thế nào, duyên như thế nào, thì quả báo như thế ấy. 

Hạt nhân hay chủng tử vô minh chấp ngã phiền não đã được tích lũy nhiều đời, có sức mạnh rất lớn, không dễ đoạn trừ. Các loại phiền não, bốn ma, năm ấm, giới đều nằm trong đó. Chánh kiến nhận thức được bản chất, chỗ trú ẩn của chúng rồi mới dùng trí tuệ? tinh tấn đoạn trừ chúng. Những khả năng ấy cũng đều nằm trong tâm thức. Tinh tấn là khai thác triệt để khả năng ấy.

5. Điểm mấu chốt của điều giác ngộ thứ năm là: vô minh là cội nguồn của sanh tử, của đau khổ. Chấm dứt vô minhmục tiêu của đạo Phật và của người đệ tử Phật. Con đường để đoạn trừ được vô minhcon đường phát triển trí tuệ, tức là làm cho "minh" xuất hiện thì "vô minh diệt". Trí tuệ có được là qua quá trình học tập biết nhiều qua văn huệ, tư huệ, tu huệ. Nhờ học rộng biết nhiều mà thành tựu được khả năng trí tuệ?biện tài tức là hiểu biếtlý luận sắc bén. Nhờ vậy mà giáo hóa được nhiều loại chúng sanh khác nhau, nhiều quốc độ khác nhau. Phật pháp được gieo rắc rộng rãi, sự hạnh phúc mọi loài chúng sanh được phổ cập.

Trí tuệ trong bài giác ngộ thứ năm nầy là trí tuệ đi vào lĩnh vực chuyên môn, nghĩa là phát huy tác dụng độ sanh, tác dụng giáo dục để thành đạt mục đích phổ cập hóa Phật pháp vào đời sống con ngườixã hội.

6. Điều giác ngộ thứ sáu bao gồm các nội dung sau đây:

- Bố thí là một công hạnhtác dụng lợi ích rất đặc biệt, biểu hiện đủ hai mặt: phước đứctrí tuệ.

- Phước đức có được là do đem đến cho chúng sanh bị đau khổ niềm an ủi, sự an tâm, sự đầy đủ, giảm cho họ những áp lực của đời sống mà có thể đưa họ vào con đường tội phạm tối tăm. Làm cho người khác được an vui hạnh phúcý nghĩa của phước đức.

-Trí tuệ?là do thực hành bố thíquán chiếu thực trạng đau khổ của đời sống, nhận được chân lý khổ đế. Mặt khác, mình thấy được tự tính vô ngã trong mọi thứ mà mình nắm trong tay: Không có người cho kẻ nhận và của cho. Thực hành tâm bình đẳnG, xả bỏ chấp thủ nhân, ngã, bỉ, thử, chủ thể, đối tượn... đạt được tâm thư thái thanh thản, giải thoátý nghĩa của trí tuệ.

Một người là đệ tử của Phật luôn được trang bị giáo dục để có được hai đức tính căn bản này là phước đứctrí tuệ. Qua hành động bố thí, ta có thể thành đạt hai đức tính ấy. 

7. Nội dung của điều giác ngộ thứ bảy là người cư sĩ sống đời sống thế tụckinh nghiệm phong phú, có sự hiểu biết sâu sắc về con người: căn cơ, trình độ, tâm lý, ước muốn của họ; hiểu biết một cách trực tiếp về bản chất của đời sống xã hội. Vì vậy họ có thể hiểu biết cảm thôngthương yêu con người một cách chân thật. Tuy vậy, để đạt được một đời sống lý tưởng "tâm xuất gia mà thân không xuất gia", đạt được mục đíchhạnh nguyện của một Bồ-tát cư sĩ thì họ phải thực hành tuần tự từng bước:

Quán chiếu để thấy rõ bản chất của năm dục lạc đưa đến tội áctai ương hoạn nạn, mà hoạn nạn lớn nhất là bị che khuất trí tuệchìm đắm trong vòng sanh tử. Phải tu tập để chiến thắng sự kiềm tỏa của năm dục, phải triệt tiêu áp lực của chúng trong nội tâm mình.

Phải tạo thói quen, xu hướng mới cho tâm thức, hướng tư duy về sự giải thoát, về đời sống viễn ly thành tựu được chánh tư duy, thiện tâm bắt đầu tỏa sáng.

Kiến tạo một đời sống đạm bạc thanh cao. Trong đó bao gồm các đối tượng bên cạnh mình như vợ con….để thiết lập cuộc sống chung giàu trí tuệan lạc.

Từ đó, thiết lập đời sống phạm hạnh coi nhẹ tình yêu ân ái vợ chồng giới tính biến thành tình yêu vị tha đối với muôn loài, biến các chất liệu của tình thương đau khổ, hạn chế thành chất liệu tình thương vô lượng, an lạc.

Như vậy, người cư sĩ có thể kiến tạo đạo tràng giữa cõi nhân gian, hoàn thành hạnh nguyện độ tha của Bồ-tát đạo. 

8. Điều giác ngộ thứ tám là đỉnh cao của lộ trình tu tập Bồ-tát hạnh. Ở đó thể hiện trí tuệtừ bi viên mãn, đồng thời thể hiện tác dụng hóa độ chúng sanh một cách cao độ. Tất cả những khả năng ấy đều được nói đến trong Kinh tạng Nguyên Thủy cũng như Đại Thừa. Ở đây biểu hiện rất rõ hướng đi của mẫu người lý tưởng: Bồ-tát nhập thế. Đây là con đường mà người Bồ-tát cư sĩ có rất nhiều điều kiện và cơ hội thực hành.

- Khổ và thoát khổ là mối tư duy chân chính xuyên suốt mọi pháp môn tu tập. Làm cho mình hết khổ, giúp cho người bớt khổ là một công trình đòi hỏi trí tuệ, sức lựcthời gian. Còn hòa vào đời chịu cảnh tối tăm lem luốc để dẫn dắt chúng sanh lên bờ giải thoát là một hạnh nguyện vĩ đại của những Đại Sĩ, cũng gọi là hạnh nguyện hay sự giác ngộ của Bậc Đại Nhân mà Kinh này đề cập đến. 

Phần kết thúc Kinh là những lời nói lên tác dụng siêu việt của tám điều giác ngộ của Bậc Đại Nhân nhằm khích lệ tinh thần tu tập của các hành giả Phật tử. Phần nầy có thể chia thành hai ý chính, đó là tác dụng xuất thếnhập thế của tám điều giác ngộ.

II. TÁC DỤNG XUẤT THẾ CỦA TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ

Tác dụng xuất thế gồm những gì? Đó là tu tập quán chiếu Tứ Niệm Xứ, trang bị cho mình nhận thức rõ về thân, về thọ, về tâm và về pháp. Tu tập hạnh thiểu dục tri túc sống đời thanh bạch từ bỏ các lạc thú ở đời. Nhờ vậy trí tuệ được tăng trưởng - tuệ giải thoát phát sinh.

- Con đường tu tập để làm thanh tịnh Thân - Khẩu - Ý, đoạn trừ các ác nghiệp và các ô nhiễm tâm lý, làm chủ được các hành vi bản năng, mở rộng đường cho trí tuệgiải thoát; đó là con đường tu tập chung của mọi người Phật tử. Dĩ nhiên người xuất gialợi thế hơn. Đây là công hạnh căn bản, là hiện tướng giải thoát của người tu, nếu không có hay không đạt được hoặc không qua lộ trình tâm thanh tịnh nầy thì không có lộ trình giải thoát nào, nghĩa là muốn qua sông thì phải biết bơi, còn sử dụng khả năng biết bơi để cứu người hay không là chuyện khác. Vì vậy không thể chấp nhận một người Phật tử, nhất là Phật tử xuất giatham lam, sân hận quá lớn, không có lý do chính đáng nào biện minh cho các việc làm hay hành vi bất thiện.

- Con đường Bồ-tát hạnh hay Đại thừa cũng dựa trên cơ sở giải thoátthanh tịnh nầy mà hướng tâm về cứu độ chúng sanh.

- Thuyền pháp thân được làm bằng trí tuệtừ bi, trí tuệtừ bi được làm bằng chất liệu thanh tịnh không ô nhiễm. Con thuyền ấy đưa hành giả đến bờ giải thoát.

III. TÁC DỤNG NHẬP THẾ CỦA TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ

- Tu tập hạnh thanh tịnh giải thoát xuất thế đối với đường lối của Kinh Tám Điều Giác Ngộ có hai mục đích: Một là trang bị cho mình khả năng giải thoát khỏi sự trói buộc của sanh tử. Hai là sử dụng khả năng ấy để giúp cho chúng sanh cũng được lợi ích giải thoát như mình. Thực ra, bản chất của giáo phápĐức Phật dạy luôn bao hàm hai khả năng ấy.

- Trong lời kết thúc nói rằng: sau khi các Ngài đắc đạo nhờ tu tập tám điều giác ngộ, các Ngài từ cõi Niết-bàn trở về cõi sinh tử giúp chúng sanh giải thoát. Điều nầy rất rõ ràng, trước khi hóa độ chúng sanh thì phải hóa độ mình trước, mình có giác ngộ, có giải thoát mới "trở về" hóa độ chúng sanh, chứ không phải mình chưa giải thoát mà vội độ sanh chỉ tăng trưởng phiền nãotội lỗi. Vì vậy, ta không có lý do gì để phê bình những người đang nỗ lực tu tập "độ mình" là những người tiêu cực, ích kỷ.

Tuy nhiên, nếu mình "độ mình" lâu quá, chúng sanh đang đau khổ mà mình chưa "công viên quả mãn" thì có phải đang bỏ rơi chúng sanh hay không? Có lẽ đó là một điều lo xuất phát từ thiện ý nhưng cũng như lo "voi chết không có hòm", kiểu nói của tục ngữ Việt Nam.

Con đường tu tập của Phật giáo không nên phân cách quá cứng ngắc giữa độ mình và độ người. Nếu quán chiếu theo chân lý duyên sanh, ta sẽ thấy: Độ mình là độ người, độ người cũng là độ mình. Chất liệu tu tập có chất liệu từ bi thì hệ quả tất nhiên là có độ chúng sanh. Vì vậy, không thể nói Đại thừa mới hoá độ chúng sanh được, còn các đường hướng tu tập khác thì không !

Tác dụng nhập thế của tám điều giác ngộthành tựu biện tài thuyết pháp cảm hóa chúng sanh, giúp đỡ cho chúng sanh về mặt vật chất cũng như tinh thần để họ bớt khổ, tạo cho họ cơ hội để họ tu tập hướng thượng, hướng thiện. Lấy nếp sống mẫu mực thanh bạch và vô dục của mình làm tấm gương, làm thân giáo để mọi người quay về chánh đạo. Cuối cùng nếu cần thiết, mình có thể nhập cuộc nhận lãnh khổ đau nếu đó là điều giúp cho mọi người bớt khổ thêm vui. Đó là con đường nhập thế của Bồ-tát, của Kinh Tám Điều Giác Ngo?

Tất cả mọi phương tiện mà Bồ-tát thực hành đối với chúng sanh đều phải hướng đến các tác dụng cụ thể:

a."Linh chúng sanh giác sanh tử kho?quot;: Làm cho chúng sanh có được trí tuệ?nhận chân khổ đế, mà cái khổ lớn nhất là cái khổ của sự sanh tử luân hồi. Điều nầy không dễ, người ta dễ dàng nhận thức hay chấp nhận chân lý khổ như: khổ về sanh, lão, bệnh, tử, thương yêu mà phải xa nhau, ghét mà phải gần nhau, hoặc cầu mong mà không toại ý, tức là những cái khổ mang tính hiện tượng, còn cái khổ bản chất thì họ không biết và rất khó biết. Vì vậy, họ chỉ mong hết khổ thông thường chứ không mong được giải thoát.

b. "Xả ly ngũ dục": Làm cho chúng sanh nhận chân được tập đếnguyên nhân của khổ, tham ái ngũ dục. Chúng sanh đang ở trong cuộc đời, đang hưởng thụ ngũ dục, đang hướng tâm trí đến các đối tượng của dục và vì vậy mà họ đang đau khổ. Làm cho chúng sanh thấy rõ bản chất của dục là nguy hiểm luôn gây ra hậu quả đau khổ, để họ dần dần nhận thứctừ bỏ chúng. 

c. Tu hành thánh đạo: Làm cho chúng sanh hiểu được Đạo đế, tu hành con đường dẫn đến đoạn trừ khổ đau.

- Tu hành thánh đạo là gì? - Chính là tu tập hành trì Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Nếu chúng sanh tu tập thánh đạo nầy thì chắc chắn thoát ly khổ ách.

- Đoạ? cuối cùng nhắc nhở khích lệ người đệ tử Phật phải đọc tụng và nhớ nghĩ đến tám điều giác ngộ nầy. Được như vậy thì trong từng ý nghĩ tiếp diễn chỉ có thiện pháp, không có ác niệm, ác pháp. Nhờ đó mà ác nghiệp được tiêu diệt, dẫn đến giác ngộ, thành tựu thánh quả và khổ sanh tử chấm dứt, hưởng niềm vui tối thượng, an lạc Niết-bàn. 

- Lời kết thúc kinh bao hàm ý nghĩa khái quát con đường tu tập của kinh, đó là thực hành sự thanh tịnh làm cho tâm hết ô nhiễm thành tựu các đức tính trí tuệtừ bi, nhờ đó mà được giải thoát tối thượng. Sau khi đạt được sự giải thoát, thực hành hạnh lợi tha dùng khả năng giải thoát, giác ngộ của mình giúp cho mọi ngườiđiều kiện hướng về chân lýgiải thoát như mình.

- Đồ?g thời lời kết thúc cũng đưa ra mục tiêu cụ thể cho hành giả thực hành công cuộc hóa độ làm cho chúng sanh nhận chân về sự khổ, về nguyên nhân đưa đến khổ và con đường đưa đến diệt khổ.

- Cuối cùng là khích lệ tu tập bằng cách nêu bật lên công dụng quán chiếu chánh niệm đưa đến đoạn trừ ác nghiệp thành tựu Niết-bàn. 

Con đườngkinh Bát Đại Nhân Giác giới thiệucon đường thuận tiện cho đời sống của người cư sĩ thực hành để đáp ứng nguyện vọng của Bồ-tát dấn thân vào đời cứu độ chúng sanh. Con đường ấy đặc biệt ở chỗ sống giữa cuộc đời bụi bặm mà không dính bụi, ngược lại có thể chuyển hóa bụi bặm ô nhiễm thành thanh tịnh thanh lương.

IV. SÁU BƯỚC ĐI CỦA LỘ TRÌNH TU LÝ TƯỞNG

Để thiết lập một lộ trình tu có tính phổ biến hơn, tích cực hơn, để nhằm đáp ứng nhu cầu tu tậphoằng pháp trong một bối cảnh xã hội mới như xã hội Trung Hoa vào thời Hán, Phật giáo chưa được chấp nhận một cách đầy đủ, các vị tăng sĩ chưa được xuất gia, thành phần cư sĩ là chủ yếu. Vì vậyKinh Bát Đại Nhân Giác ra đời. Đây như là sự kiện tất yếu, nghĩa là phải có một mô thức mới phù hợp với hoàn cảnh mới cho người cư sĩ tại gia thực hành, đặc biệt dành cho những người cư sĩđạo tâm lớn - tâm thì muốn xuất gia, thân thì ở thế tục. Con đường tu tập này không lấy Định làm cơ sở mà lấy chánh niệm làm cơ sở, từ đó ý chínguyện lực được thiết lập.

Sự ra đời của kinh Bát Đại Nhân Giác một mặt lấy nền tảng tu tập của Kinh Bát Niệm, mặt khác dựa vào giáo nghĩa Đạ? thừa mà lúc bấy giờ công cuộc vận động Đại thừa đang lên cao. Chắc chắn Ngài An Thế Cao đã thừa hưởng sắc thái của truyền thống Đại thừa một cách trọn vẹn nên những điều giác ngộ cuối đã chuyển hướng sang sắc thái Đại thừa một cách triệt để. Kinh Bát Đại Nhân Giác rõ ràng là một hướng đi mới cho một điều kiệnxã hội mới. Đường lối ấy mệnh danh là Bồ-tát đạo và mục tiêu hướng đến là người cư sĩ tại gia. Ngài An Thế Cao đã gởi gấm lòng mình qua mẫu người thực hành Bồ-tát hạnh, giới thiệu một mẫu người lý tưởng để kiến tạo một xã hội lý tưởng, xã hội Phật hóa … Con đường tu tập này, chúng tôi cho rằng có thể chia làm sáu bước:

- Bước một: Xây dựng một con người có đầy đủ nhận thức sáng suốt về bản chất của cuộc sống, có một tầm nhìn chính xácrộng rãi về cuộc đời, về vũ trụ thiên nhiên, về đời sống xã hội, về đời sống cá nhân gồm cả hai mặt thân thể vật lýhoạt động tâm lý (Điều giác ngộ thứ nhất) có được một tầm nhìn như vậy gọi là có chánh kiến.

Giáo dục trang bị tri thức hoàn chỉnh và căn bản là bước đi đúng hướng, cần thiết như Đức Phật dạy trong kinh Bốn Mươi Pháp: "Chánh kiến đi hàng đầu trong lộ trình tu tập." Một người Phật tử chân chính là người có cái nhìn sáng suốt và hiểu sâu về bản chất của hiện tượng giới.

- Bước thứ hai: Xây dựng đạo đức bản thân qua lối sống thiểu dụctri túc. Đi vào thực tiễn của đời sống và dưới sự soi chiếu của nhận thức chánh kiến, người Phật tử khép mình vào kỷ luật đạo đức qua tu tập hạnh thiểu dụctri túc. Cần chú ý là trong kinh Bát Niệm nói dứt khoát là vô dục chứ không nói là thiểu dục. Vô dục của kinh Bát Niệm là đường lối Thánh đạo vô nhiễm, vô trước của người xuất gia. Thiểu dục tức là ít ham muốn, nghĩa là còn các dục nhưng hạn chế chúng tới mức tối thiểu. Nhờ đời sống kiềm chế nhu cầu tiêu thụ và hưởng thụ, đạo đức của người cư sĩ trở nên tăng trưởngvững chãi. Nếu cứ để cho lòng ham muốn phát triển không có giới hạn chắc chắn sẽ phát sinh cướp đoạt, lừa đảo, gian trá và hãm hại….

- Bước thứ ba: Qua quá trình tu tập ít ham muốn và biết đủ, người Phật tử sẽ tạo được cho tâm thức mình một xu hướng mới: Xu hướng vượt thoát bản năng, tâm thức trở nên hướng thượng thanh cao. Từ con người mang nặng dấu ấn thế tục bắt đầu hình thành con đường giải thoát, đó là một cuộc cách mạng tâm lý, đòi hỏi có sự nỗ lực lớ? để tạo một chuyển hóa đột phá trong tâm cũng như ngoại giới (Điều giác ngộ thứ tư).

Khi mà đời sống dục lạc, ham muốn vật chất giảm, xu hướng trí tuệ tăng, người Phật tử có một hướng đi rõ: Những gì đưa đến tăng trưởng trí tuệ đều được quan tâm, coi trí tuệsự nghiệp của mình, do đó nhận thức càng sâu sắc và toàn diện (điều giác ngộ thứ năm).

- Bước thứ tư: Tri thứctrí tuệ đã vươn tới tầm cao, điều đó có thể tạo ra một hướng đi phi thực tiễn, trở nên cô độc, duy lý. Vì vậy để có sự quân bình, người Phật tử hướng tâm và tuệ của mình vào đời sống thực tiễn để hiểu và cảm thông với nỗi đau của quần chúng, những thái độ bạo động, hằn học, căm thù xuất phát từ sự nghèo túng khốn đốn về đời sống vật chất. Người Phật tử sử dụng năng lực trí tuệ để phát triển tình thương yêu cứu giúp mọi người, tu tập hạnh bố thí để quân bình trái tim và khối óc, đồng thời để tích lũy công đức trợ duyên cho đời sống tu tậpchí nguyện độ sanh dễ thành tựu (điều giác ngộ thứ sáu).

- Bước thứ năm: Điều hòa Bi-Trí song hành tạo được sự thăng bằng về tâm. Nhưng vì đời sống cư sĩ tại gia có những ràng buộc, những hệ lụy về tình ái nên dễ bị thối tâm và khó phát khởi tâm từ bi đến chỗ không giới hạn. Vì vậy đến trình độ này, người Phật tử bắt đầu thực hành phạm hạnh coi nhẹ tình ái hay chấm dứt tình ái vị kỷ để khai mở cánh cửa đại bi tâm. Từ đây ảnh hưởng của người Phật tử đã có tác dụng rộng, trước hết là đời sống gia đình được thuần hóa, sau đó là môi trường xã hội xung quanh đã có những ảnh hưởng đạo đức của mình.

- Bước thứ sáu: Bước cuối cùng, trí tuệ?thấu suốt bản chất nỗi khổ của chúng sanh. Vì vậy đại bi tâm mở rộng, tâm hồn của người Phật tử thể nhập vào thế giới chúng sanh, cảm thông và chia sẻ niềm đau của quần chúng. Người Phật tử không sợ đau khổ, dũng cảm dấn thân vào đời, thấy mình ở trong chúng sanh, chúng sanh ở trong mình, chúng sanh và mình là một. Vì vậy, niềm đau của con người cũng chính là niềm đau của mình, nên không thể thờ ơ trước nỗi đau khổ của nhân loại. Họ dấn thân vào đời với trí tuệ vô ngã siêu việt, với trái tim thương yêu không giới hạn dưới mọi hình thức, dùng mọi phương tiện để đạt được mục đích đưa con người đến chỗ giải thoát an vui.

Sáu bước đi của một người cư sĩ thực hành Bồ-tát hạnh như vậy không phải là những bước đi siêu thực, mà đó là những bước đi hiện thực, là những điều kiện cho một con người toàn diện hay con người lý tưởng cho một xã hội lý tưởng: Một xã hội bình đẳng, an lạc, văn minhgiải thoát.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18408)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16763)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13334)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12817)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 13650)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11814)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14338)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17836)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22706)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13535)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 15656)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 16165)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11443)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15779)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13226)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 22031)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 16294)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19251)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24973)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 17781)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17163)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 18716)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19147)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18957)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 14485)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 23177)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28647)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15256)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 13776)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16592)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 143914)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 16396)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 17506)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 47461)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39229)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15845)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23253)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 16825)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 14339)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 13940)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17300)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 14416)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16967)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 28041)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 50270)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38578)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 28612)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52264)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35918)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32937)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50875)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 63779)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 49775)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 57111)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47590)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39438)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38491)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 36623)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32257)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 46733)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant