Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

IV. Giáo Hội

22 Tháng Hai 201100:00(Xem: 11103)
IV. Giáo Hội

Phật tử
Những Câu Hỏi Thông Thường Về Đạo Phật
Hòa thượng Thích Thiện Châu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Sài Gòn, 1997

PHẦN B

[24.] Cho biết chữ Tăng già (sangha) là gì? 
[25.] Những ai có thể trở thành Tỷ kheo, Tỷ kheo ni? 
[26.] Tại sao có vị mặc áo nâu, có vị quấn cà sa vàng? 
[27.] Nam TôngBắc Tông khác nhau như thế nào? 
[28.] Ðạo Phật Việt Nam thuộc Nam Tông hay Bắc Tông? 
[29.] Cho biết sơ tổ chức đạo Phật Việt Nam ngày nay? 
[30.] Cho biết qua tình hình Phật giáo thế giới gần đây và hiện nay?

IV. Giáo Hội 

24. Cho biết chữ Tăng già (sangha) là gì?

- Tăng già gọi tắt là Tăng, đoàn thể của tất cả những người chấp nhận đạo Phật làm lý tưởng. Nhưng chữ tăng già trong nghĩa hẹp thì chỉ cho đoàn thể Tỳ khưu, (bhikhu, bhikshu) và Tỳ khưu ni (bhikkhuni, bhikshuni), những người rời bỏ gia đình riêng tư, sống đời đạo hạnh lợi tha, chuyên lo tu học và hướng dẫn mọi người sống đạo. 

[^]

25. Những ai có thể trở thành Tỷ kheo, Tỷ kheo ni?

- Tất cả, không phân biệt nòi giống, màu da, địa vị xã hội, với điều kiện là phải đủ nhân tướng, không có tật bệnh thân thể cũng như tinh thần, có ý chí hướng thượng và khả năng tu hành. Tu sĩ nam gọi là Tỷ kheo sống theo Tăng bộ. Tu sĩ nữ gọi là Tỷ kheo ni sống theo Ni bộ. 

[^]

26. Tại sao có vị mặc áo nâu, có vị quấn cà sa vàng?

- Nâu hay vàng đều là màu "giải thoát". Tuy nhiên, tổng quát mà nói thì các vị quấn cà sa vàng thuộc Nam Tông. Các vị mặc áo nâu thuộc về Bắc Tông. Các vị thuộc hệ phái khất sĩ cũng quấn y vàng song phần đông tu học theo giáo lý Bắc Tông. Phật giáo ngày nay đang có một khuynh hướng tổng hợp Bắc và Nam Tông, nên có những vị xuất giaBắc Tông cũng quấn cà sa vàng và những vị thuộc Nam Tông cũng mặc áo tràng nâu, nhất là khi phải sống ở các xứ lạnh hay ở Âu Mỹ

[^]

27. Nam TôngBắc Tông khác nhau như thế nào?

- Sự thật thì chỉ có một đạo Phật. Tất cả Phật tử đều thờ kính Phật Gotama hay Thích Ca (Sâkyamuni), chấp nhậntu học các đạo lý Duyên khởi, Vô ngã, Vô thường, Bốn Thánh đế vv... Sở dĩNam Tông, Bắc Tông là vì có vài quan điểm khác nhau về giáo lý và phong tục địa phương. Ðạo Phật ở các nước Tích Lan, Miến Ðiện, Campuchia, Lào... chịu ảnh hưởng của Thượng tọa bộ (Theravâda) từ Ấn Ðộ truyền về phương nam (Tích Lan) nên được gọi là Nam Tông. Trong khi đó, đạo Phật ở các nước Tây Tạng, Trung Hoa, Việt Nam, Mông Cổ, Triều Tiên, Nhật Bản... phần nhiều chịu ảnh hưởng của Ðại thừa (Mahâyâna) trong đó có ảnh hưởng của Ðại chúng bộ (Mahâsanghika), Nhất thế hữu bộ (Sarvâtivâda), Ðộc tử bộ (Vâtsiputriya)... từ Ấn Ðộ truyền về phương Bắc (Trung Á, Trung Hoa) nên được gọi là Bắc Tông. Theo ý kiến chung thì Nam Tông, nhờ bảo thủ mà còn giữ được nhiều tính chất nguyên thủy của đạo Phật. Còn Bắc Tông do phóng khoáng và canh tân nên đã hòa hợp với nếp sống địa phương hay quốc gia. Hiện nay đạo Phật, với các tổ chức quốc tế, đang cố gắng đi đến một nền Phật giáo tổng hợp, không phân biệt tông phái, địa phương. Hiện có nhiều tổ chức Phật giáo đề cao tinh thần "về nguồn" và ứng dụng đạo Phật một cách sáng tạo trong thời đại ngày nay. 

[^]

28. Ðạo Phật Việt Nam thuộc Nam Tông hay Bắc Tông?

- Ðạo Phật Việt Nam vào những thế kỷ đầu tiên (I-V) do các Phật tử Ấn Ðộ và gần Ấn Ðộ truyền vào. Song suốt dòng lịch sử đạo Phật Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của Bắc Tông Trung Hoa đến. Gần đây, trong thời kỳ Pháp thuộc, ở miền Nam có thêm ảnh hưởng của Nam Tông từ Campuchia sang. Tuy chịu nhiều ảnh hưởng của Bắc Tông Trung Hoa song nhờ phong trào chấn hưng và canh tân (từ 1930), đạo Phật Việt Nam có một bộ mặt sáng sủa, linh hoạt và gần đạo lý Nguyên Thủy

Từ năm 1945, đạo Phật Việt Nam, tùy theo địa phương và hoàn cảnh, phát triển khác nhau do có nhiều sắc thái khác nhau. Nói chung, ở "miền Bắc", đạo Phật vẫn giữ nguyên truyền thống Bắc Tông, trong khi đó ở "miền Nam" có cả Bắc Tông, Nam Tông. Ðạo Phật Việt Nam có chịu ảnh hưởng của các phong trào chấn hưng đạo Phật ở các nước như Trung Hoa, Nhật Bản, Tích Lan, Ấn Ðộ. 

[^]

29. Cho biết sơ tổ chức đạo Phật Việt Nam ngày nay? 

- Ðạo Phật vốn không có giáo quyền tập trung như Thiên chúa giáo. Vì hoàn cảnh đất nước trong quá khứ, đạo Phật Việt Nam, mãi đến năm 1981 mới có cơ quan chỉ đạo trung ương cho cả nước: Giáo hội Phật giáo Việt Nam gồm Hội đồng chứng minhHội đồng Trị sự. Dầu sao, Phật giáo liên tục có mặt ở Việt Nam trong suốt 2000 năm nay trong khi đó Phật giáo ở Ấn Ðộ và ở một vài nước vùng Ðông Nam Á bị tiêu diệtnguyên nhân chủ yếu là nạn Hồi giáo

[^]

30.Cho biết qua tình hình Phật giáo thế giới gần đây và hiện nay?

- Ðạo Phật phát sinh từ Ấn độ và được truyền rộng ra các nước lân cận ngay sau khi Phật viên tịch độ ba trăm năm dưới triều đại Asoka. Ðạo Phật tiếp tục phát triển ở Ấn độ cho đến thế kỷ thứ XIII thì bị tiêu diệt hoàn toàn do sự tàn phá của Hồi giáo. Tuy nhiên, đạo Phật ở các nước ngoài Ấn độ vẫn phát triển. Về sau, chính phong trào tìm thuộc địa của Tây phương đã làm cho đạo Phật ở Viễn Ðông, Ðông Nam Á bị đàn áp, lu mờ và bị bỏ quên

Nhưng, trong những người đến với các nước Phật giáo có một số học giả làm quen rồi yêu chuộng nền văn hóa Ðông phương nói chung và đạo Phật nói riêng như bác sĩ Peebles, đại tá Olcott, ông bà giáo sư Ryhs Davids, bà Blavatsky... Chính những học giả Âu Mỹ này đã làm cho nhiều người Ðông phương, chú ý đến sự sáng đẹp của Ðạo Phật. Về sau nhờ những Phật tử có lòng như đại đức Dharmpâla, đại sư Thái Hư... quyết tâm phục hưng đạo Phật. Chỉ trong thời gian độ 50 năm lại đây đạo Phật trở nên một đạo có uy tín; bên ngoài thì được các học giả Âu Á lưu tâm nghiên cứu và bên trong thì các Phật tử cố gắng tu họcphổ biến. Hiện nay số Phật tử khắp thế giới càng ngày càng tăng và các tổ chức Phật học càng ngày càng nhiều. 

Hiện có nhiều cơ quan quốc tế của Phật giáo. Song những cơ quan nầy chỉ là những cơ quan chỉ đạo tối cao. - Âu Mỹ cũng có các hội Phật giáo. Tại các trường Ðại học ở Londres, Paris, Louvain, Munchen v.v... đều có người nghiên cứu và giảng dạy Phật học. Kinh sách đạo Phật cũng được dịch, viết ra bằng các sinh ngữ Pháp, Anh, Ðức... 

Nhiều học giả Âu Mỹ nghĩ rằng đạo Phật là một lẽ sống thích hợp với con người tiến bộhy vọng rằng đạo Phật sẽ giúp loài người giải thoát sự thác loạn do văn minh máy móc gây nên. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24030)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21755)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23328)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27519)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26583)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29344)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20213)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20943)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29857)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22152)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24418)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29306)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32180)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21094)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28111)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29224)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20639)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28316)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23670)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33219)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31873)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39662)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19404)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26428)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24853)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21762)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29161)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20481)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23559)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21252)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35370)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24569)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31370)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26251)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31266)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20300)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22991)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30104)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21622)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20304)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20805)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28826)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34774)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22583)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21403)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19372)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29546)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35205)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28854)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37943)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21354)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27057)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27252)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24095)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20877)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34343)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22514)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25153)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant