Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, quyển 1

31 Tháng Năm 201100:00(Xem: 15325)
1. Kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, quyển 1

BỘ MẬT TÔNG (Bốn Tập)
Dịch Giả:Tỳ Khưu Thích Viên Đức

B. TẬP HAI
KINH ÐẠI THỪA TRANG NGHIÊM BẢO VƯƠNG

NAM MÔ ÐẠI THỪA TRANG NGHIÊM BẢO VƯƠNG KINH 
HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT 
(3 lần) 

QUYỂN MỘT

-Xứ Trung Ấn Ðộ nước Nhã Lan Ðà Ra,
chùa Mật Lâm, Ngài Tam Tạng Tứ Tử
Sa Môn Thần Thiên Tức Tai,
phụng chiếu dịch chữ Phạn ra chữ Hán.
-Sa Môn Thích Viên Ðức dịch ra Việt văn.

Phật nói Kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương

Như thật tôi nghe, một thời đức Thế Tôn, ở tại nước Xá Vệ, rừng cây Kỳ Ðà, vườn Cấp Cô Ðộc. Cùng với chúng đại Tỳ Khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi người và các chúng đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Danh hiệu các Ngài ấy là: Kim Cang Thủ đại Bồ Tát, Trí Kiến đại Bồ Tát, Kim Cang Quân đại Bồ Tát, Bí Mật Tạng đại Bồ Tát, Hư Không Tạng đại Bồ Tát, Nhựt Tạng đại Bồ Tát, Vô Ðộng đại Bồ Tát, Bảo Thủ đại Bồ Tát, Phổ Hiền đại Bồ Tát, Chứng Chơn Thường đại Bồ Tát, Trừ Cái Chướng đại Bồ Tát, Ðại Cần Dũng đại Bồ Tát, Dược Vương đại Bồ Tát, Quán Tự Tại đại Bồ Tát, Chấp Kim Cang đại Bồ Tát, Hải Tuệ đại Bồ Tát, Trì Pháp đại Bồ Tát, hết thảy gồm có tám mươi trăm ức Bồ Tát đều đến nhóm hội. 

Lúc ấy có các chúng Thiên Tử của ba mươi hai cõi Trời đều đến nhóm hội, trời Ðại Tự Tại Thiên và trời Na La Diên làm thượng thủ; tiếp đến trời Ðế Thích Thiên Vương, Tát Ha thế giới chủ Ðại Phạm Thiên Vương, Nhật Thiên, Nguyệt Thiên, Phong Thiên, Thủy Thiên, các chúng Trời như vậy thảy đều đến nhóm hội. 

Lại nữa có trăm ngàn Long Vương. Gọi là: A Bát Lã Long Vương, Ê Lạ Bát Lị Long Vương, Ðể Long Nghĩ Lệ Long Vương, Chủ Ðịa Long Vương, Bách Ðầu Long Vương, Ngưu Ðầu Long Vương, Lộc Ðầu Long Vương, Nan Ðà Long Vương, Bạt Nan Ðà Long Vương, Ngư Tử Long Vương, Vô Nhiệt Não Long Vương, Ta Nghiệt Lị Noa Long Vương, các vị Long Vương như vậy hết thảy đều đến nhóm hội. 

Lại có trăm ngàn Ngạn Ðạt Phạ Vương. Gọi là: Cổ Âm Ngạn Ðạt Phạ Vương, Diệu Thinh Ngạn Ðạt Phạ Vương, Thiên Tý Ngạn Ðạt Phạ Vương, Thiên Chủ Ngạn Ðạt Phạ Vương, Thân Hoan Hỷ Ngạn Ðạt Phạ Vương, Chủng Chủng Nhạc Âm Ngạn Ðạt Phạ Vương, Trang Nghiêm Ngạn Ðạt Phạ Vương, Hiện Ðồng Tử Thân Ngạn Ðạt Phạ Vương, Pháp Lạc Ngạn Ðạt Phạ Vương, như vậy hết thảy các vị Ngạn Ðạt Phạ Vương đều đến nhóm hội. 

Lại trăm ngàn Khẩn Na La Vương. Gọi là: Diệu Khẩu Khẩn Na La Vương, Bảo Quang Khẩn Na La Vương, Hi Di Khẩn Na La Vương, Hoan Hỷ Khẩn Na La Vương, Luân Trang Nghiêm Khẩn Na La Vương, Châu Bảo Khẩn Na La Vương, Ðại Phúc Khẩn Na La Vương, Kiên Cố Tinh Tấn Khẩn Na La Vương, Diệu Dũng Khẩn Na La Vương, Bách Khẩu Khẩn Na La Vương, Ðại Thọ Khẩn Na La Vương, như vậy hết thảy các vị Khẩn Na La Vương đều đến nhóm hội. 

Lại có trăm ngàn Trời nữ. Các vị ấy là: Tối Thượng Thiên nữ, Diệu Nghiêm Thiên nữ, Kim Ðới Thiên nữ, Trang Nghiêm Thiên nữ, Văn Trì Thiên nữ, Cam Lồ Nguyệt Thiên nữ, Thanh Tịnh Thân Thiên nữ, Bảo Quang Thiên nữ, Hoa Thân Thiên nữ, Thiên Diện Thiên nữ, Khẩu Diễn ngũ Nhạc Âm Thiên nữ, Khoái Lạc Thiên nữ, Kim Man Thiên nữ, Thanh Liên Hoa Thiên nữ, Tuyên Pháp Âm Thiên nữ, Diệu Lạc Thiên nữ, Lạc Sanh Thiên nữ, Diệu Nghiêm Tướng Thiên nữ, Nghiêm Trì Thiên nữ, Bố Thí Thiên nữ, Khiết Dĩ Thiên nữ, các Trời nữ như vậy thảy đều đến nhóm hội. 

Lại có trăm ngàn Long Vương nữ. Gọi là: Diệu Nghiêm Trì Long nữ, Mẫu Thử Lân La Long nữ, Tam Kế Long nữ, Hòa Dung Long nữ, Thắng Cát Tường Long nữ, Ðiễn Nhãn Long nữ, Ðiễn Quang Long nữ, Diệu Sơn Long nữ, Bách Quyến thuộc Long nữ, Ðại Dược Long nữ, Nguyệt Quang Long nữ, Nhất Thủ Long nữ, Bách Tý Long nữ, Thọ Trì Long nữ, Vô Phiền Long nữ, Thiện Trang Nghiêm Long nữ, Bạch Vân Long nữ, Thừa Xa Long nữ, Vị Lai Long nữ, Ða Quyến Thuộc Long nữ, Hải Phúc Long nữ, Cái Diện Long nữ, Pháp Tòa Long nữ, Diệu Thủ Long nữ, Hải Thâm Long nữ, Diệu Cao Cát Tường Long nữ, các Long nữ như vậy cũng đều đến nhóm hội. 

Lại có trăm ngàn Ngạn Ðạt Phạ Nữ. Các vị ấy là: Ái Diện Ngạn Ðạt Phạ nữ, Ái Thí Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Vô Kiến Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Diệu Cát Tường Ngạn Ðạt Phạ nữ, Kim Cang Man Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Diệu Man Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Thọ Lâm Ngạn Ðạt Phạ nữ, Bách Hoa Ngạn Ðạt Phạ nữ, Hoa Phu Ngạn Ðạt Phạ nữ, Bảo Man Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Cát Tường Vương Ngạn Ðạt Phạ nữ, Cổ Âm Ngạn Ðạt Phạ nữ, Diệu Trang Nghiêm Ngạn Ðạt Phạ nữ, Phong Lễ Ngạn Ðạt Phạ nữ, Pháp Ái Ngạn Ðạt Phạ nữ, Pháp Thí Ngạn Ðạt Phạ nữ, Thanh Liên Hoa Ngạn Ðạt Phạ nữ, Bách Thủ Ngạn Ðạt Phạ nữ, Liên Hoa Cát Tường Ngạn Ðạt Phạ nữ, Ðại Liên Hoa Ngạn Ðạt Phạ nữ, Thể Thanh Tịnh Ngạn Ðạt Phạ nữ, Tự Tại Hạnh Ngạn Ðạt Phạ nữ, Thí Ðịa Ngạn Ðạt Phạ nữ, Thí Quả Ngạn Ðạt Phạ nữ, Sư Tử Hộ Ngạn Phạ nữ, Cự Mẫu Na Hoa Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Diệu Ý Ngạn Ðạt Phạn nữ, Huệ Thí Ngạn Ðạt Phạ nữ, Ái Nhẫn Nhục Ngạn Ðạt Phạ nữ, Ðạt Phạ nữ, Nhạo Chơn Tịch Ngạn Ðạt Phạ nữ, Bảo Nha Ngạn Ðạt Phạ nữ, Ðế Thích Ngạn Ðạt Phạ nữ, Thế Chủ Quyến Thuộc Ngạn Ðạt Phạ nữ, Lộc Vương Ngạn Ðạt Phạ nữ, Biến Hóa Cát Tường Ngạn Ðạt Phạ nữ, Diễm Phong Ngạn Ðạt Phạ nữ, Tham Giải Thoát Ngạn Ðạt Phạ nữ, Sân Giải Thoát Ngạn Ðạt Phạ nữ, Si Giải Thoát Ngạn Ðạt Phạ nữ, Thiện Tri Thức Quyến Thuộc Ngạn Ðạt Phạ nữ, Bảo Tòa Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Vãng Lai Ngạn Ðạt Phạ nữ, Hỏa Quang Ngạn Ðạt Phạ nữ, Nguyệt Quang Ngạn Ðạt Phạ nữ, Biến Chiếu Nhãn Ngạn Ðạt Phạ nữ, Kim Diệu Ngạn Ðạt Phạ nữ, Nhạo Thiện Tri Thức Ngạn Ðạt Phạ nữ, hết thảy các Ngạn Ðạt Phạ nữ như vậy cũng đều đến nhóm hội. 

Lại có trăm ngàn Khẩn Na La nữ. Gọi là Nhất Ý Khẩn Na La nữ, Thâm Ý Khẩn Na La nữ, Phong Hành Khẩn Na La nữ, Thủy Hành Khẩn Na La nữ, Thừa Không Khẩn Na La nữ, Tấn Tật Khẩn Na La nữ, Tài Thí Khẩn Na La nữ, Diệu Nha Khẩn Na La nữ, Vô Ðộng Các Khẩn Na La nữ, Nhiễm Giới Khẩn Na La nữ, Xí Thạnh Quang Khẩn Na La nữ Diệu Cát Tường Khẩn Na La nữ, Bảo Khiếp Khẩn Na La nữ, Quán Tài Khẩn Na La nữ, Ðoan Nghiêm Khẩn Na La nữ, Kim Cang Diện Khẩn Na La nữ, Kim Sắc Khẩn Na La nữ Thù Diệu Trang Nghiêm, Khẩn Na La nữ, Quảng Trạch Khẩn Na La nữ, Vi Nhiễu Thiện Tri Thức Khẩn Na La nữ, Chủ Thế Khẩn Na La nữ, Hư Không Hộ Khẩn Na La nữ, Trang Nghiêm Vương Khẩn Na La nữ, Châu Kế Khẩn Na La nữ, Tổng Trì Châu Khẩn Na La nữ, Minh Nhơn Vi Nhiễu Khẩn Na La nữ, Bách Danh Khẩn Na La nữ, Thí Thọ Khẩn Na La nữ, Hộ Trì Phật Pháp Khẩn Na La nữ, Pháp Giới Hộ Khẩn Na La nữ, Thượng Trang Nghiêm Khẩn Na La nữ, Sát Na Thượng Khẩn Na La nữ, Cầu Pháp Thường Trì Khẩn Na La nữ, Thời Thường Kiến Khẩn Na La nữ, Vô Úy Khẩn Na La nữ, Thú Giải Thoát Khẩn Na La nữ, Thường Bí Mật Khẩn Na La nữ, Sử Tổng Trì Khẩn Na La nữ, Nhận Quang Nhiễm Khẩn Na La nữ, Ðịa Hành Khẩn Na La nữ, Hộ Thiên Chủ Khẩn Na La nữ, Diệu Thiên Chủ Khẩn Na La nữ, Bảo Vương Khẩn Na La nữ, Nhẫn Nhục Bộ Khẩn Na La nữ, Hành Thí Khẩn Na La nữ, Ða Trụ Xứ Khẩn Na La nữ, Trì Chiến Khí Khẩn Na La nữ, Diệu Nghiêm Khẩn Na La nữ, Diệu Ý Khẩn Na La nữ, hết thảy các vị Khẩn Na La nữ như vậy cũng đến nhóm hội. 

Lại có trăm ngàn Ô Ba Sách Ca, Ô Ba Tư Ca cũng đến nhóm hội. Cho đến trăm ngàn chúng vô số tại gia, xuất gia, các ngoại đạo dị kiến khác như Ni Càn… cũng đều đến nhóm trong đại hội này. 

Lúc ấy, đại A Tỳ địa ngục phát ra ánh sáng lớn rực rỡ. Ánh sáng kia chiếu khắp vườn cây Kỳ Ðà, vườn đó liền biến thành thanh tịnh. Hiện bày cột trụ thiên ma ni quý báu trang nghiêm vi diệu viên mãn. Hiện ra lầu các lớn vàng báu xen nhau trang sức. Lại hiện ra các phòng : hiện phòng vàng ròng thì cửa bằng bạc trắng, hiện phòng bạc trắng thì cửa bằng vàng ròng. Hiện vàng bạc xen nhau dùng làm các phòng, vàng bạc xen nhau lại làm các cửa. Hiện vàng bạc các báu xen nhau trang nghiêm chính điện, vàng bạc xen nhau các báu vi diệu trang nghiêm cột trụ. Hiện vàng ròng làm điện thì bạc trắng làm cột trụ, hiện bạc trắng làm điện thì vàng ròng làm cột trụ. Hoặc bạc trắng làm điện thì các diệu báu khác của cõi Trời nghiêm sức cột trụ. 

Trên rừng cây Kỳ Ðà, hiện bày các thứ quý báu mầu nhiệm của cõi trời mà làm trang nghiêm. Lại hiện ra những cây Kiếp Thọ bằng vàng ròng, lá bằng bạc trắng, trên cây kia có treo các thứ trang nghiêm, trăm thứ thượng diệu y phục Kiều Xa Da vi diệu, còn có màng lưới báu trăm ngàn chơn châu chuỗi ngọc anh lạc. Lại có trăm ngàn thượng diệu mão báu, vòng tai, dây đeo châu ngọc, quý báu xen nhau mà nghiêm sức đẹp đẽ. Lại có các hoa khác nhau màu sắc rực rỡ chen nhau đua nở và có các thứ ngọa cụ thượng diệu, rương báu nhiệm mầu đựng các đồ trang sức. Các thứ cây trang nghiêm Kiếp Thọ như vậy, số kia xuất hiện có hơn trăm ngàn, vườn rừng Kỳ Ðà và các cửa nẻo lầu các ấy, dùng toàn vàng Kim Cang diệu bảo mà làm các thềm bực. Trên lầu kia có vô số thứ thú thắng mầu nhiệm lụa the, nhung gấm, chơn châu, chuỗi ngọc anh lạc, trang nghiêm như thế. 

Lại có trăm ngàn ao báu thượng diệu, trong ao kia chứa đầy đủ tám công đức, có các thứ tạp hoa thơm diệu nở rộ đầy khắp như: Hoa Ưu Bát La, hoa Cự mẫu Na, hoa Bôn Noa Lị Ca, hoa Mạn Na Ra, hoa Ma Ha Mạn Na Ra, hoa Ưu Ðàm Bát La, các hoa thảy đều đầy khắp trong ao. Còn có các thứ cây hoa thượng diệu như: Cây hoa Chiêm Ba Ca, cây Ca Ra Ni, cây Ra Hoa, cây hoa Ba Tra Lạ, cây hoa Diệu Giải Thoát, cây Hương Vũ, cây hoa Diệu Ý, có các thứ cây hoa như vậy, lòng rất ưa thích. Vườn rừng cây Kỳ Ðà hiện ra tướng thật trang nghiêm hy hữu, thanh tịnh nhiệm mầu. 

Lúc bấy giờ trong hội có vị Trừ Cái Chướng đại Bồ Tát từ toà ngồi mà đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất chấp tay cung kính, chiêm ngưỡng tôn nhan của Ðức Thế Tônbạch Phật rằng: bạch Thế Tôn! Con nay trong tâm có việc nghi muốn thưa hỏi đức Như Lai. Cúi mong Thế Tôn cho phép con được thưa hỏi. Bạch Thế Tôn! Nay ở đây có ánh hào quang sáng rực rỡ, ánh sáng ấy từ đâu đến hay từ nhơn duyên nào mà chiếu hiện tướng đẹp đẽ lạ lung như vậy? 

Lúc ấy, đức Thế Tôn bảo Ngài Trừ Cái Chướng Bồ Tát rằng: Này thiện nam tử! Các ông hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói. Hào quang sáng rực kia là của Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát. Vào trong đại A Tỳ địa ngục, vì muốn cứu độ tất cả hữu tình chịu đại khổ não trong ấy. Cứu khổ nơi đó rồi, lại vào thành lớn để cứu độ cái khổ của tất cả ngạ quỷ. Khi đó Ngài Trừ Cái Chướng đại Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Cõi A Tỳ đại địa ngục thành sắt bao quanh, đất lại là sắt, bốn phía thành kia không có kẻ hở, lửa dữ hừng hẩy luôn luôn thiêu đốt. Trong cõi ác thú địa ngục như vậy, có những nồi nước sôi lớn, nước sôi kia trào sùng sục; tất cả trăm ngàn Câu chi na khố đa hữu tình đều bị ném vào trong nồi nước ấy. Những nồi nước ấy như hầm nấu các thứ hạt đậu, lúc thì sôi sục nhào lên hoặc lộn xuống, hầm nấu chín nát mà không bao giờ gián đoạn. Trong A Tỳ địa ngục kia các loài hữu tình phải chịu nhiều thống khổ như thế. 

Bạch Thế Tôn! Ngài Thánh Quán Tự Tại đại Bồ Tát dùng phương tiện gì mà vào được trong ấy? Ðức Thế Tôn lại bảo Trừ Cái Chướng đại Bồ Tát rằng: Này thiện nam tử! Cũng như vua Chuyển luân Thánh vương vào vườn Ma Ni Bảo cõi trời vậy. Như thế đó thiện nam tử! Ngài Thánh Quán Tự Tại đại Bồ Tát khi vào đại A Tỳ địa ngục, thân Ngài không hề có chướng ngại. Lúc đó đủ tất cả cái khổ của A Tỳ địa ngục không thể ép thân của Bồ Tát, lửa dữ hừng hẩy của địa ngục kia thảy đều dập tắt, biến thành nơi mát mẻ. Khi ấy Diêm Ma địa ngục tốt trong ngục ngạc nhiên, tâm sanh kinh sợ lạ lung chưa từng có, cớ chi nơi đây thoạt nhiên biến thành tướng lạ phi thường như thế? Khi ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát vào trong ngục dập tắt lửa dữ, đập phá nồi nước sôi, lò lửa ấy biến thành ao báu mát mẻ, hoa sen trong ao lớn như bánh xe. Bấy giờ Diêm Ma ngục tốt thấy việc đó rồi đem các khí cụ trừng trị hình phạt như cung, kiếm, dùi, gậy, chỉa ba nhọn, bánh xe sắt, cung tên… đem đến cho Diêm Ma Thiên Tử, đến rồi bạch rằng: Ðại Vương chắc Ngài hay biết, chỗ nghiệp báo này vì sao thảy đều bị tận diệt? Lúc ấy Diêm Ma Thiên Tử nói rằng: Thế nào, sở nghiệp báo của ngươi bị tận diệt sao? Lại bạch Diêm Ma Thiên Tử rằng: Ðại địa ngục A Tỳ kia đã biến thành nơi mát mẻ. Khi xảy ra việc như vậy, có một người sắc tướng uy nghiêm, đầu búi tóc Thiên diệu, đội mão báu trang nghiêm, Ngài vào trong địa ngục pháp vỡ nồi nước sôi, hầm lửa trở thành ao nước mát, trong ao có hoa sen lớn như bánh xe. Lúc bấy giờ, Diêm Ma Thiên Tử suy nghĩ: Người cõi trời nào mà oai lực như thế? Hay trời Ðại Tự Tại, trời Na La Diên … đến địa ngục biến hiện không thể nghĩ bàn. Hay là Thập Ðầu La Sát Ðại Lực Oai Thần biến hóa ư! Bấy giờ Diêm Ma Thiên Tử dùng thiên nhãn xem thấy khắp các cõi trời, rồi lại xem nơi A Tỳ địa ngục, thấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, thấy như vậy, Diêm Ma Thiên Tử vội nhanh chân bước đến chỗ Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát. Ðến rồi gục đầu lễ sát chân Ngài, mà pháp lời thành kính dùng kệ khen rằng: 

Quy mạng Liên Hoa Vương, đại bi Quán Tự Tại

Ðại Tự Tại Cát Tường, hay thí nguyện hữu tình

Ðủ đức đại oai thần, hàng phục cực bạo ác

Nơi tối làm đèn sáng, thấy ấy đều không sợ. 

Thị hiện trăm ngàn tay, mắt kia cũng lại vậy. 

Ðầy đủ mười một mặt, trí như bốn biển lớn. 

Ham ưa pháp vi diệu, vì cứu các hữu tình

Trạnh các các thủy tộc, tối Thượng Trí như núi. 

Thí báu giúp quần sanh, tối thượng đại Cát Tường

Phước trí đủ trang nghiêm, vào nơi ngục A Tỳ

Biến thành nơi mát mẻ, các trời đều cúng dường

Ðảnh lễ Thí vô úy, nói sáu Ba la Mật

Thường thắp đèn đuốc pháp, mắt pháp dụ trời sáng 

Sắc tướng mầu đoan nghiêm, thân tướng như núi vàng. 

Bụng mầu sâu bể pháp, tương ưng ý chơn như

Trong miệng hiện diệu đức, chứa nhóm Tam ma địa

Vô số trăm ngàn muôn, có vô lượng khoái lạc. 

Ðoan nghiêm Tiên tối thượng, sợ hãi trong ác đạo

Cùm trói được giải thoát, Vô úy thí tất cả. 

Các quyến thuộc doanh vây, mong cầu đều như ý

Như được ma ni báu, phá hoại Ngã quỷ thành. 

Khai mở đạo tịch tịnh, cứu độ bịnh thế gian

Như tàng cái che tràng, Nan Ðà, Bạt Nan Ðà. 

Hai Long Vương thân cận, tay cầm Bất Không Tác. 

Hiện vô số oai đức, hay phá kiếp ba cõi. 

Kim Cang Thủ Dược Xoa, La Sát và Bộ Ða. 

Vĩ Ða Noa Chỉ Nễ, và cùng Củng Bàn Noa. 

A Bát Ta Ma Ra, thảy đều ôm lo sợ. 

Mắt Ưu Bát La hoa, Minh Chủ Thí Vô Úy

Tất cả thảy phiền não, các món đều giải thoát

Vào nơi vi trần số, trăm ngàn Tam ma địa

Khai thị các cảnh giới, tất cả trong ác đạo

Ðiều khiến được giải thoát, thành tựu đạo Bồ đề

 

Khi ấy Diêm Ma Thiên Tử, ngợi khen tán thán cúng dường đức Quán Tự Tại Bồ Tát, xong nhiễu quanh ba vòng, rồi trở về chỗ cũ. 

Lúc bấy giờ Ngài Trừ Cái Chướng Bồ Tát lại bạch Ðức Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát cứu cái khổ đó rồi trở lại trong hội này ư?” Phật dạy Trừ Cái Chướng Bồ Tát rằng: “Này thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát từ đại địa ngục A Tỳ ra rồi lại trở vào thành lớn Ngã quỷ, trong đó có vô số trăm ngàn ngã quỷ miệng cháy ra lửa, đốt cháy mặt mày, hình thể khô gầy, đầu tóc bờm xờm, lông mình dựng đứng, bụng lớn như núi, cổ nhỏ như kim. Lúc ấy, Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát đến thành lớn ngã quỷ, thành kia lửa đang cháy hừng hực, bỗng nhiên nghiệp hỏa thảy đều dập tắt trở thành mát mẻ”. Bấy giờ có quỷ giữ cửa cầm gậy sắt, hình hài xấu xí, đôi mắt đỏ ngầu phát khởi tâm lành: “Tôi nay khỏi phải coi giữ nơi ác nghiệp này nữa”. Lúc ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát khởi lòng đại bi, nơi mười ngón tay Ngài biến ra dòng sông trong, nơi ngón chân cũng pháp ra dòng suối nước mát, mỗi lỗ chân lông đều biến ra dòng sông lớn, cái loài ngã quỷ uống được nước ấy. Khi uống được nước rồi thì yết hầu mở lớn thân tướng đầy đủ, lại được ăn no đủ các thứ thượng vị, các ngã quỷ này được lợi ích an vui như vậy, tâm liền suy xét. Cớ sao người Nam Thiệm Bộ Châu thường được mát mẻ, yên ổn, khoái lạc? Ở trong châu ấy hoặc hay thường làm điều lành, cung kính hiếu dưỡng cha mẹ, hoặc có điều lành, cung kính hiếu dưỡng cha mẹ, hoặc có điều lành hay bố thí, vâng thờ thiện tri thức, hoặc thông minh trí huệ thường ham Ðại Thừa, hoặc có điều lành hay kiến lập pháp tràng nói pháp hòa nhã, hoặc có điều lành hay tu sửa các chốn Già lam hư hoại, hoặc có điều lành hay tu sửa tháp Phật, hoặc có điều lành hay tu sửa tháp Tướng Luân suy hoại, hoặc có điều lành hay cúng dường tôn trọng Pháp Sư, hoặc có điều lành thấy được chỗ đức Như Lai kinh hành, hoặc có điều lành hay thấy được chỗ Bích Chi Phật kinh hanh, hoặc có điều lành hay thấy được chỗ A La Hán kinh hành. Khởi lên suy nghĩ, Nam Thiệm Bộ Châu có các việc tu hành như thế. Lúc ấy trong Kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương tự nhiên phát ra tiếng vi diệu mầu nhiệm, các ngã quỷ ấy được nghe tiếng kia, chỗ chấp thân kiến tuy như núi cao, cùng các tùy hoặc phiền não, trí Kim Cang xử phá hoại không sót, liền được vãng sanh về Cực Lạc thế giới, đều làm Bồ Tát tên Tùy Ý Khẩu. Lúc ấy Quán Tự Tại đại Bồ Tát cứu khổ đó rồi, lại qua các thế giới phương khác, cứu độ các loài hữu tình

Bấy giờ Ngài Trừ Cái Chướng lại bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Ngài quán ự tại Bồ Tát, đến nơi chốn ấy cứu độ hữu tình ư?”. Ðấng Thế Tôn dạy rằng: “Này thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát cứu độ không ngừng vô số trăm ngàn Câu chi na khố đa hữu tình, không lúc nào tạm nghỉ, lại đủ đại oai đức quá hơn Như Lai”. Trừ Cái Chướng bạch rằng: “Thưa Thế Tôn! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát làm thế nào có sức đại oai thần như thế?” 

Phật dạy: “Này thiện nam tử! Về kiếp quá khứ có một vị Phật ra đời, hiệu là Tỳ Bát Thi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Thời ấy tôi làm con của một nhà trưởng giả, gọi là Diệu Hương Khẩu, nơi chỗ Phật ấy và đã nghe công đức oai thần của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát. Bấy giờ Trừ Cái Chướng bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Ngài đã nghe Quán Tự Tại đại Bồ Tát, công đức oai thần như thế nào?” Ðấng Thế Tôn dạy rằng: “Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, nơi đôi mắt Ngài phát ra mặt trời, mặt trăng; nơi trán phát ra trời Ðại Tự Tại; nơi vai phát ra trời Phạm Vương; nơi tim phát ra trời Na La Diên; răng phát ra trời Ðại Biện Tài, miệng phát ra trời Phong Thiên; rún phát ra trời Ðịa Thiên; bụng phát ra trời Thủy thiên; thân của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát phát ra các thứ như thế”. Lúc ấy Quán Tự Tại Bồ Tát bảo trời Ðại Tự Tại thiên rằng: “Ông ở đời vị lai nhằm đời mạt pháp, trong cõi hữu tình có những chúng sanh chấp trước tà kiến, đều gọi ông từ vô thỉ đến giờ đã làm đại chủ tể, sanh ra tất cả hữu tình, khi ấy chúng sanh mất đạo Bồ đề, ngu si mê hoặc mà nói lên như thế rằng: 

Thân lớn như hư không, đất lớn lấy làm tòa. 

Cảnh giớihữu tình, đều từ thân ấy ra. 

Như vậy thiện nam tử! Tôi ở chỗ Tỳ Bát Thi Như Lai, sau khi nghe rồi, lại có Phật ra đời, hiệu là Thức Khí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Trừ Cái Chướng! Tôi thời lấy làm Dõng Thí đại Bồ Tát, ở chỗ Phật kia nghe công đức oai thần của Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát. Trừ Cái Chướng thưa rằng: “Ðức Thế Tôn! Ngài đã nghe Quán Tự Tại đại Bồ Tát, oai thần công đức như thế nào?”. Khi ấy Phật dạy rằng: “Trong hội Thức Khí Như Lai, có tất cả Trời, Rồng, Dược Xoa, A Tô La, Nghiệt Lỗ Noa, Ma Hộ La Nga, người và chẳng phải người thảy đến nhóm hội. 

Ðức Thế Tôn thời ấy, ở trong chúng khi muốn nói pháp, miệng phóng ra các sắc ánh sáng xen lẫn. Nghĩa là sắc xanh ánh sáng xanh, sắc vàng ánh sáng vàng, sắc đỏ thì ánh sáng đỏ, sắc trắng thì ánh sáng trắng, sắc hồng thì ánh sáng hồng, sắc pha đê ca ánh sáng pha đê ca, sắc vàng kim ánh sáng vàng kim sắc. Hào quang sáng kia chiếu khắp mười phương thế giới. Hào quang sáng ấy trở lại nhiễu Phật ba vòng, rồi nhập vào trong miệng Ngài. 

Lúc ấy trong hội có Bảo Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát từ tòa ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, chấp tay cung kínhbạch đức Thế Tôn rằng: “Nhơn duyên gì hiện ra điềm gì?”. 

Phật bảo: Này thiện nam tử! Cõi Cực Lạc thế giớiQuán Tự Tại đại Bồ Tát, muốn đến nơi đây nên hiện điềm lành đó. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát khi đến nơi này, xuất hiện ra các thứ cây hoa Kiếp Thọ, cây hoa Cự Mẫu Na, cây hoa Chiêm Ba Ca, lại hiện ra cùng các hoa khác xen nhau. Hoa báu, ao báu, cây báu, mưa rưới các thứ hoa nhiệm mầu thơm tho. Lại mưa xuống các thứ ngọc quý báu, chơn châu, lưu lu, ngọc ma ni bảo, loa bối bích ngọc, san hô … Mưa xuống những áo trời đẹp đẽ như mây tuôn. 

Thời bấy giờ rừng cây Kỳ Ðà, vườn Cấp Cô Ðộcbảy báu xuất hiện gọi là Kim Luân báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, chủ kho tàng báu, chủ binh báu, bảy báu như vậy đồng thời xuất hiện. Mặt đất đều biến thành vàng ròng kim sắc. Khi ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, lúc rời khỏi Cực Lạc thế giới, đất chuyển động sáu lần. Bấy giờ Bảo thủ đại Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Vì nhân duyênxuất hiện điềm ấy? 

Phật dạy: thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát muốn qua đến đây nên hiện điềm đó. 

Khi ấy mưa xuống các thứ hoa thơm mầu nhiệmhoa sen vi diệu lòng rất ưa thích. Bấy giờ Bồ Tát Quán Tự Tại tay cầm hoa sen ngàn cánh ánh sáng vàng chói đến chỗ Phật mà đảnh lễ dưới chân Ngài rồi dâng hoa sen lên cúng dường đức Thế Tôn. Hoa sen này của Phật Vô Lượng Thọ (A Di Ðà) khiến con đem đến dâng. Ðức Thế Tôn nhận hoa sen ấy rồi để qua bên trái. 

Phật bảo Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát: Ông nay hiện ra thần thông công đức trang nghiêm ấy là chi? Quán Tự Tại thưa: Con vì muốn cứu độ tất cả hữu tình trong ác thú, nghĩa là tất cả ngã quỷ A Tỳ địa ngục như Hắc Thằng địa ngục, Ðẳng Hoạt địa ngục, Thiên Nhiên địa ngục, Ðường Ối địa ngục, Hoạch Than địa ngục, Hàn Băng địa ngục, trong những đại địa ngục như vậy có các chúng sanh, con đều cứu vớt ra khỏi ác thú, sẽ được chứng đắc Vô thượng Bồ đề Chánh đẳng chánh giác. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nói như vậy rồi, đảnh lễ nơi chân Phật, lễ xong mà đi, thoạt tiên biến mất cũng như ánh lửa xẹt vào hư không

Lúc bấy giờ Bảo Thủ Bồ Tát bạch đức Thế Tôn: con nay có điều nghi, muốn thưa hỏi đức Như Lai, mong Ngài vì con nói ra: Quán Tự Tại Bồ Tátphước đức gì mà nay hiện thần lực như vậy? Phật nói như Căng già hà sa số Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, lấy thiên diệu y và ca sa y, đồ ăn uống thuốc thang, ngọa cụcúng dường các Ðức Phật, như vậy phước đức thu được sánh bằng phước một sợi lông của Quán Tự Tại, lượng đó không khác. Này thiện nam tử! Nơi bốn châu lớn có một trăm mười hai tháng, ngày đêm thường mưa lớn, tôi có thể đếm số mỗi hạt mưa. Thiện nam tử! Phước đức của Quán Tự Tại tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như biển lớn sâu rộng tám vạn bốn ngàn du thiện na, nước bốn biển lớn như vậy tôi có thể đếm số mỗi từng giọt. Thiện nam tử! Phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát đã có, tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại nhu bốn đại bộ châu, loài hữu tình bốn châu như: sư tử, voi, ngựa, beo, cọp, sói, nai, trâu, dê, tất cả nnhữntg thứ bốn chân như vậy, tôi có thể đếm số lông trong mỗi thân đã có. Thiện nam tử! Phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát tôi không thể nói hết số lượng. Này thiện nam tử! Như có người vừa lấy vàng báu cõi trời, tạo ra hình tượng Như Lai vô số nhiều như vi trần, một ngày đều được thành tựu các thứ cúng dường, đã được công đức phước báu kia, tôi đều đếm số được. Thiện nam tử! Phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát, tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Tất cả rừng cây tôi có thể đếm hết mỗi một số lá, còn phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như bốn đại châu có kẻ nam tử, người nữ nhơn, trẻ đồng nam, đồng nữ, những người như thế đều thành Thánh quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A La Hán, quả Duyên Giác Bồ đề, phước đức đã có như vậy, sánh bằng một sợi lông phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát lượng kia không khác. 

Lúc bấy giờ Ngài Bảo Thủ Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Con từ xưa đến nay chưa từng thấy cũng chưa từng nghe chư Phật Như Laiphước đức như thế! Thưa Thế Tôn! Ngài Quán Tự Tại còn ở địa vị Bồ Tát, cớ sao mà có phước đức như vậy? Phật dạy: Thiện nam tử! Chẳng riêng cõi này chỉ một thân tôi cho đến phương khác vô số Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đều vân tập đầy đủ một chỗ, cũng không thể nói hết số lượng phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát. Thiện nam tử! Ở thế giới này nếu có người nhớ niệm danh hiệu của Quán Tự Tại đại Bồ Tát, người đó sau này xa lìa các khổ luân hồi sanh, già, bịnh, chết, cũng như con Nga vương theo gió mà đi, mau được vãng sanh về Cực Lạc thế giới, thấy Vô Lượng Thọ Như Lai, nghe được diệu pháp, người như vậy vĩnh viễn không còn chịu khổ luân hồi, không tham sân si, không già bịnh chết, không khổ đói khát, không chịu khổ sanh thân bào thai, nương thừa pháp oai lực, hóa sanh trong hoa sen, thường ở cõi ấy hầu cận Quán Tự Tại đại Bồ Tát, cứu độ tất cả hữu tình, đều được giải thoát kiên cố nguyện mãn. 

Lúc ấy Bảo Thủ Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Ngài Quán Tự Tại đây ở vào trường hợp nào? Cứu độ tất cả hữu tình đều được giải thoát kiên cố mãn nguyện? 

Ðức Thế Tôn dạy rằng: Hữu tình thì vô số thường chịu sanh tử luân hồi không dứt, nên Quán Tự Tại Bồ Tát muốn cứu độ hữu tình được chứng đạo Bồ đề. Như vậy nên Ngài tùy loạihiện thân thuyết pháp. Nên hiện thân Phật để độ, Ngài liền hiện thân Phật mà nói pháp. Ðáng hiện thân Bồ Tát để độ, liền hiện thân Bồ Tát mà nói pháp. Nên hiện thân Duyên Giác để độ, liền hiện thân Duyên Giác mà nói pháp. Nên hiện thân Thanh Văn để độ, liền hiện thân Thanh Văn nói pháp. Nên hiện thân trời Ðại Tự Tại để độ, liền hiện thân trời Ðại Tự Tại mà nói pháp. Nên hiện thân trời Na La Diên để độ, liền hiện thân trời Na La Diên vì đó nói pháp. Nên hiện thân trời Phạm Vương để độ, liền hiện thân Phạm vương mà nói pháp. Nên hiện thân trời Ðế thích để độ, liền hiện thân Ðế Thích vì đó mà nói pháp. Nên hiện Nhựt Thiên tử để độ, liền hiện thân Nhựt Thiên tử mà nói pháp. Nên hiện thân Nguyệt Thiên tử để độ, liền hiện thân Nguyệt thiên tử để nói pháp. Nên hiện thân Hoả Thiên để độ, liền hiện thân Hoả thiên mà nói pháp. Nên hiện thân Thủy Thiên để độ, liền hiện thân Thủy thiên vì đó nói pháp. Nên hiện thân Phong Thiên để độ, liền hiện thân Phong Thiên mà nói pháp. Nên hiện thân Long thân để độ, liền hiện thân Long thân vì đó nói pháp. Nên hiện thân Tần Na Dạ Ca để độ, liền hiện thân Tần Na Dạ Ca mà nói pháp. Nên hiện thân Dược Xoa để độ, liền hiện thân Dược Xoa nói pháp. Nên hiện thân Ða Văn Thiên Tuớng để độ, liền hiện thân Ða Văn Thiên Tướng nói pháp. Nên hiện thân Nhơn Vương để độ, liền hiện thân Nhơn Vương vì đó nói pháp. Nên hiện thân Tể Quan để độ, liền hiện thân Tể Quan nói pháp. Nên hiện thân phụ mẫu để độ, liền hiện thân phụ mẫu vì đó nói pháp. 

Này thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, tùy theo các hữu tình đáng độ, liền hiện thân ra như vậy mà nói pháp. Cứu độ các hữu tình khiến được chứng địa vị Như Lai Niết Bàn

Khi ấy Bảo Thủ Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Con chưa từng thấy cũng chưa từng nghe việc hy hữu không thể nghĩ bàn như vậy. Thưa Thế Tôn! Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, có việc không thể nghĩ bàn thật chưa từng có vậy? 

Phật dạy: thiện nam tử! Hang Kim Cang nơi Nam Thiệm Bộ Châu này có vô số trăm ngàn muôn Câu chi na khố đa A Tô La an ở trong đó. 

Thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát hiện thân làm A Tô La, vì A Tô La nói kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này. Chúng A Tô La được nghe kinh ấy, đều phát lòng từ thiện mà lấy tay ôm chân Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, nghe Chánh pháp này đều được an vui. Nếu có người nghe được Vương Kinh này mà hay đọc tụng, thì người đó nếu có tội nghiệp ngũ vô gián đều được tiêu trừ. Khi mạng gần chết, có mười hai đức Như Lai đến nghinh đón mà bảo người đó rằng: Thiện nam tử! Chớ nên lo sợ, ngươi đã được nghe kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương. Chỉ rõ đường vãng sanh về cõi Cực Lạc thế giới, có bảo cái vi diệu, mão trời đẹp đẽ dây đeo châu ngọc, vòng quý đeo tai, thượng diệu y phục, hiện tướng như thế. Chết rồi quyết được vãng sanh Cực Lạc thế giới

Bảo Thủ! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, hiện thân A Tô La này tối thắng không thể sánh kịp, khiến A Tô La kia sẽ được địa vị Niết Bàn

Khi ấy Bảo Thủ Bồ Tát đầu mặt sát đất, lễ nơi chân đức Thế Tôn, lễ rồi mà trở về.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14175)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15518)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13207)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19361)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24623)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15742)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37829)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13479)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13097)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17181)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13205)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17388)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21638)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13219)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14405)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12815)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13657)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28617)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23400)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34382)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28884)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32186)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11329)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12003)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26290)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17375)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14524)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34479)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13112)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12279)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13412)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40515)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26941)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14461)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13255)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13462)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12538)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13151)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12314)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11791)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12574)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17663)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12207)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12754)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18437)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14290)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12995)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11323)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12151)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13467)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10837)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11074)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10290)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28899)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25283)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26851)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25770)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18676)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23038)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34546)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant