Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

03. Kiết tập kinh điển

09 Tháng Mười 201100:00(Xem: 12420)
03. Kiết tập kinh điển

CÁC BÀI
HỌC PHẬT
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông

Phần 1: ĐẠI CƯƠNG

Kiết tập kinh điển

I .- Ngôn ngữ Phật thuyết Pháp:

Ðể trả lời cho câu hỏi: - Ðức Phật thuyết pháp bằng ngôn ngữ nào? Bởi vì ngôn ngữ ấy có thể giữ vai trò lưu truyền thánh điển Phật giáo chính thống. Theo các nhà nghiên cứu về Phật giáo: Thời đó, giới quý tộc dùng ngôn ngữ Sanscrit như kinh Vedas, các tiểu quốc dùng thổ ngữ của nước mình, vương quốc Magadha (Ma Kiệt Ðà do vua A Xà Thế cai trị) dùng tiếng Magadhi, phổ thông trong quần chúng thì dùng thứ ngôn ngữ hổn hợp, ngôn ngữ hỗn hợp này dùng tiếng Magadhi làm cơ sở, nó đóng vai trò trọng yếu trong việc giao dịch. Kinh sách cho thấy rằng, đương thời đức Phật dùng ngôn ngữ của mỗi địa phương để giảng dạy giáo lý của Ngài.

Theo nhiều tạng Luật có đề cập đến sự tích sau đây : ''Bấy giờ có hai anh em Bà La Môn xin xuất gia theo Phật. Họ yêu cầu Ngài cho phép họ tụng đọc những lời Ngài dạy theo kiểu tụng đọc kinh điển Vệ Ðà mà họ đã quen đọc, họ cũng yêu cầu sử dụng tiếng sanscrit và sắp xếp câu văn thế nào cho hoa mỹ như cách hành văn của Sanscrit trong kinh điển ấy.

Phật dạy rằng trong đạo Ngài không cần văn chương hoa mỹ, chỉ cần nghĩa lý rõ ràng, lập luận chặt chẻ. Lời văn và giọng nói cần phải đơn giản, thế nào cho người nghe hiểu được mình muốn nói gì. Muốn thế cần phải học giáo pháp bằng ngôn ngữ của chính mình''.

Lời dạy này ảnh hưởng rất sâu rộng đối với văn học Phật giáophương pháp truyền đạo sau này.

Muốn biết kinh điển được lưu truyền như thế nào, thiết tưởng chúng ta cần nhìn lại những lần kết tập.

II.- Kiết tập lần thứ nhất:

a) Nguyên nhân: Khi đức Phật nhập diệt ở gần thành Kusinagara (Câu Thi Na Yết La) đã được 7 ngày, lúc đó ngài Ðại Ca Diếp đang dẫn một đoàn 500 chúng Tăng đi truyền giáo, được một tu sĩ ngoại đạo báo tin đức Phật đã nhật Niết bàn, chúng Tăng nghe hung tin đều than khóc, trừ có một vị Tỳ Kheo trẻ Subhaddha, vổ tay reo mừng, thốt lời: ''Khi đức Thế Tôn còn tại thế, mọi hành động đều phải bó buộc trong phạm vi giới luật, mất quyền tự do, ngày nay đức Thế Tôn đã diệt độ, từ đây trở về sau sẽ được tự do hành động, không bị giới luật ràng buộc". Câu nói nầy là động cơ chính thúc đẩy ngài Ðại Ca Diếp (là bậc trưởng thượng sau khi hai ngài Xá Lợi PhấtMục Kiền Liên đã viên tịch trước đức Thế Tôn) triệu tập 499 vị Tỳ Kheo đã chứng quả La Hán và ngài A Nan, họp khoáng đại Hội Nghị tại thành Vương Xá, trong mùa An cư kiết hạ ngay sau khi đức Phật nhập diệt, để kiết tập lại lời giáo huấn của đức Thế Tôn, hầu bảo vệ giáo phápgiới luật của Phật được lưu truyền chánh thống.

Lần kiết tập nầy, ngài Ðại Ca Diếp chủ Tọa, ngài Ưu Bà Ly lập lại giới luật đã được Phật đặt ra, ngài A Nan nhắc lại giáo pháp đã được Phật giảng dạy cho những ai, ở tại đâu, vào lúc nào, mọi người được tham gia bổ túc những thiếu sót cho được đầy đủ, ghi nhớ để truyền khẩu. Lần kiết tập nầy kéo dài trong 7 tháng, được mệnh danh là ''Vương Xá Thành Kết Tập'' hay ''Ngũ Bách Kết Tập''.

Trước lúc hội nghị bắt đầu, Ngài A Nan chưa chứng đắc quả La Hán, vì ngài dành thì giờ làm thị giả của Phật, không có công phu tu chứng, nhưng ngài có nhớ và nghe đủ những lời Phật dạy vì khi giáo đoàn cử A Nan làm thị giả, ngài có xin đức Phật 8 điều sau đây:

1) Xin đừng cho A Nan y phục tốt.
2) Xin đừng cho A Nan vật thực quý.
3) Xin đừng cho A Nan ở chung thất với Phật.
4) Xin Phật đừng đem A Nan theo hầu ở nơi nào mà thí chủ chỉ thỉnh có Phật đến thọ trai.
5) Xin đức Phật ngự đến nơi nào mà A Nan đã nhận lời của thí chủ.
6) Xin đức Phật cho phép A Nan đưa những người ở xa đến, được vào viếng đức Phật.
7) Khi nào A Nan có điều nghi ngờ về giáo pháp, được phép vào hầu và hỏi.
8) Khi đức Phật đi thuyết pháp không có A Nan, lúc Ngài trở về xin thuyết lại cho A Nan nghe.

Khi được đề cử dự hội nghị, biết mình chưa chứng quả, nên A Nan dành thời gian tu tập ngày đêm, cho đến lúc gần sáng ngày hội nghị khai mạc, A Nan mới chứng quả làm cho đủ túc số 500 vị A La Hán.

Trong hội nghị, A nancho biết rằng trước khi nhập niết bàn, Phật có dạy những luật nào xét thấy không quan trọng, giáo hội có thể bỏ, nhưng A Nan quên không xin Phật dạy cho những giáo điều nào nên bỏ, nên không thể chỉ ra. Do vậy hội nghị quyết giữ nguyên tất cả các giáo điều, và trước khi hội nghị kết thúc, A Nan bị hội nghị khiển trách những điều sau đây:

1) Thiếu xót bổn phận không xin Phật chỉ dạy những giáo điều cần hủy bỏ.
2) Vô ý dẫm lên y của Phật nhân một hôm đi theo hầu Ngài.
3) Ðể nước mắt phụ nữ làm ô uế thân mình.
4) Không thỉnh cầu Phật kéo dài thêm thọ mạng.
5) Xin cho nữ giới gia nhập tăng đoàn.

Cũng có chỗ nói thêm một lỗi nữa là, trong khi Phật bị bệnh, khát nước, bảo A Nan đi lấy nước uống, A Nan không lấy nước cho Phật uống (thật ra A Nantới nơi nhưng do một đoàn xe đi qua, nước bị vẩn đục, không thể lấy cho Phật uống). Vì muốn giữ vẹn sự hòa hợp tăng, A Nan nhận và sám hối những lỗi lầm này.

Theo Nam truyền, sau khi hội nghị đã bế mạc, ngài Phú Lâu Na dẫn 500 tỳ kheo khất thựcNam sơn về tới, giáo hội cho ngài biết nội dung đã kết tập, ngài Phú Lâu Na tuyên bố: ''Chư đức đã kết tập xong Phật Pháp như vậy rồi, nhưng những pháp mà tôi đã được riêng nghe từ kim ngôn của Phật, cũng nên thọ trì''. Câu chuyện này về sau biến thành giai thoại ''Giới ngoại kiết tập'', truyền tụng ở Bắc Phương Phật Giáo như sau : Trong khi 500 vị La Hán họp ở Vương Xá thành, có một số tỳ kheo khác do Bà Sư Ba (Baspa) làm Thượng thủ, họp tại một nơi gần đó để kết tập, gọi là ''Ðại chúng bộ kết tập'' hay ''Giới ngoại kết tập'' Kết quả là khai sinh ra Kinh, Luật, Luận (theo Chân Ðế Bộ Chấp Dị Luận Sớ hoặc năm tạng Kinh, Luật, Luận, Tạp và Cấm Chú (theo Tây Vức Ký).

b) Kết quả: Lần kết tập thứ nhất này, Kinh và Luật đã hình thành, xảy ra ngay sau khi Phật nhập Niết Bàn, đó là năm Phật lịch thứ nhất, tức là năm 544 trước Tây lịch (TTL).

Giáo pháp của Phật do A Nan trình bày trở thành thánh điển Ngũ bộ (Nikaya) bằng Ba Văn hoặc thánh điển A Hàm (Agama) bằng Phạn Văn. Các điều luật do Ưu Bà Li lập đi lập lại đến 80 lần tạo thành bộ Bát Thập Tụng Luật.

III .- Kiết tập lần thứ hai:

a) Nguyên nhân: Sau khi Phật nhập niết bàn khoảng 100 năm, tức là khoảng năm 444 TTL. Chúng Tỳ kheo Tỳ Xá Ly (Vrji), trú tại thành Phệ Xá Ly (Vesaly) công bố 10 điều luật mới như sau (theo Nam truyền có vài dị biệt).

1) Diêm tịnh : Ðồ ăn ướp muối để cách đêm, vẫn ăn được, không trái giới luật.
2) Chỉ tịnh : Ăn quá ngọ hai lóng tay, không trái giới luật.
3) Tụ lạc tịnh : Trước ngọ tuy ăn rồi nhưng đến làng khác vẫn được phép ăn thêm không trái giới luật.
4) Trụ xứ tịnh : Ở đâu thì làm lễ bố tát ngay đấy, không trái giới luật.
5) Tùy ý tịnh : Quyết nghị đã được đại hội dù ít dù nhiều cho thông qua, đều có giá trị thi hành, không trái giới luật.
6) Cửu trú tịnh : Noi theo tiền lệ, không trái giới luật.
7) Sinh hòa hợp tịnh : Sữa pha nước ăn sau giờ ngọ, không trái giới luật.
8) Thủy tịnh : Rượu mới lên men pha với nước để uống trị bệnh, không trái giới luật.
9) Bất ích lũ ni sư đàn tịnh : Dùng tọa cụ không viền, kích thước lớn hơn mẫu định, không trái giới luật.
10) Kim tiền tịnh : Cất giữ vàng bạc, không trái giới luật.

Bãy giờ trưởng lão Da Xá (Yasas) ở phía Tây Ấn độ, đi viếng phía Ðông nhân đến thành Phệ Xá Ly, gặp ngày bố tát ở đó, các chúng tỳ kheo đang quyên tiền bạc của thiện tín bỏ vào trong cái chậu đặt ở giữa đại chúng, Da Xá phản đối chúng Tỳ Xá Lỵ (Vrji), bị nhóm này kết án ông làm phương hại đến sự cúng dàng của tín đồ và lăng mạ tăng chúng, bắt ông phải xin lỗi. Da Xá không xin lỗi, ông trốn vào thành đem vấn đề phi pháp trên nêu ra cho dân chúng biết. Ðại chúng thấy ông phạm luật, liền trục xuất ra khỏi tăng chúng (theo giới luật, nếu một Tỳ kheo nào đem lỗi xấu của chúng Tăng công bố trước tín đồ sẽ bị trai trừ khỏi Tăng đoàn). Ông nghĩ giới luật của Phật đã bị suy tàn, nên liền đi vận động với giáo đoàn khắp Ấn độ, thỉnh được 700 trưởng lão thánh tăng đến khai hội tại Phệ Xá Lỵ để nghị quyết về 10 hành vi kể trên là phi pháp hay không phi pháp.

Nhưng trong lúc hội nghị, vì sinh nhiều ý kiến bất đồng, nên hội nghị đề cử một ủy ban gồm có 8 vị trưởng lão để giải quyết vấn đề:

Bốn Trưởng lão phương Ðông gồm có:

- Tát Bà Ca Ma
- Sa Lu ( Sàlha)
- Khuất Xà Tu Tỳ Ða (Khujjasobhita)
- Bà Tát Bà Già Mi (Vàsabhagàmi)

Bốn Trưởng lão ở phương Tây là:

- Ly Bà Ða
- Tam Phù Ðà
- Da Xá (Yasas)
- Tu Ma Na (Sumana)

Trưởng lão phương Tây Ly Bà Ða nêu ra từng đều trong 10 điều, để hỏi là hợp pháp hay phi pháp; Trưởng lão phương Ðông Tát Bà Ca Ma y vào giới luật trả lời từng điều là phi pháp. Như vậy 10 điều kia trở thành 10 điều phi pháp. Trong hội nghị còn hợp tụng lại tất cả những giáo pháp của Phật, thời gian kéo dài đến 8 tháng mới hoàn tất.

b) Kết quả: Như vậy hội nghị này không phải chỉ giải quyết 10 điều trên mà đại chúng còn hợp tụng tất cả pháp tạng, để ngăn ngừa mọi phi pháp pha trộn.

Mặc khác, các Tỳ kheo phía Ðông, không chấp nhận 10 điều trên là phi pháp nên đã cùng nhau họp tại một nơi khác cũng để kết tập kinh điển, gọi là Ðại Kết Tập (Mahàsamgìti) hay là Ðại Chúng Kết Tập, nội dung kết tập nầy đã đúc kết thành Kinh Tạng, Luật Tạng, Ðại pháp tạng, và Tạp tạng thành 4 tạng, lại có thêm Bồ Tát tạng gọi là Ngũ tạng.

Do đó từ đây giáo đoàn Phật giáo chia thành 2 bộ pháiThượng Tọa bộ (Thera) là phái bảo thủ và Ðại Chúng bộ (Mahàsamghika) là phái canh tân.

III.- Kiết tập lần thứ ba:

a) Nguyên nhân: Vua A Dục sau khi lên ngôi thành một bậc đại đế ở Bắc Ấn rồi liền đem quân đánh lấy Nam Ấn, cả hai bên đều có binh hùng tướng mạnh nên trong giao tranh binh sĩ, dân chúng chết rất nhiều, sau khi lấy được Nam Ấn, thống trị toàn cõi Ấn Ðộ vua mới hồi tâm vì sự giết hại sinh linh qua cuộc chiến tranh, thêm vào đó nhờ sự giáo hóa của chư Tỳ Kheo, ông trở nên một Phật tử thâm tín và tận lực hộ trì chánh pháp, vua cho xây các cột biểu khắc ghi những thánh tích quan trọng của Phật, cho xây cất chùa chiền, tháp thờ Xá lợi. Nhà vua tôn sùng đạo Phật làm cho ngoại đạo trà trộn vào làm Tăng, gây ra những mối tương tranh, chúng Tăng không hòa hợp, vua nhận thấy mối họa ấy, rất lo ngại cho tiền đồ Phật giáo, liền cho sứ triệu thỉnh Ngài Mục Kiền Liên Tử Ðế Tu (Moggaliputta Tissa) đang ẩn dật ở núi A Hô Hằng Già (Ahogànga) đứng ra triệu tập chư Tăng để kết tập kinh điển.

Ngài Mục Kiền Liên Ðế Tử Tu vâng lệnh vua, chọn 1000 Tăng chúng thông hiểu kinh điển tụ tập tại Hoa Thị Thành (Pataliputra), để kết tập kinh điển. Kỳ kết tập nầy sau Phật nhập niết bàn 236 năm, tức là năm 308 TTL. Ðại hội kết tập kéo dài 9 tháng.

b) Kết quả: Có một tập sách xuất hiện trong kỳ kết tập nầy đó là ''Luận sự '' hay ''Thuyết sự ''(Kathàvattnu), tương truyền do ngài Mục Kiền Liên Ðế Tử Tu trước tác để thuyết minh sự lý luận giữa ngoại đạo với Phật giáo. Ðó là tập Luận đầu tiên xuất hiện để trở thành Luận Tạng, từ đó có đủ ba tạng kinh điển.

Ba tạng (tripitaka) gồm có tạng Kinh (sutrapitaka), tạng Luật (vinayapitaka) và tạng Luận (abhidharmapitaka).

Pitaka nghĩa là cái giỏ dùng để chứa, người Tàu dịch ra Tạng nghĩa là cái kho chứa, chứa rất nhiều. Tam tạng là ba cái kho chứa đựng những lời Phật dạy. Tạng Kinh là những lời thuyết giảng của Phật, các đệ tử sưu tầm sắp xếp lại cho có hệ thống. Tạng Luật là những giới luật do Phật đặt ra để cho đệ tử tu hànhđiều hành giáo hội. Tạng Luận lấy hai kho trên làm đối tượng để khảo sát, giảng cứu, suy tầm và triển khai lời Phật dạy tạo thành một nền triết học kinh viện. Sự phân chia ấy nhằm mục đích làm cho người ta thấy rõ giáo lý đạo Phật có:

- Chủ thuyết căn bản.
- Giới luật hành trì.
- Giáo nghĩa thuyết minh.

Một thuyết khác cho rằng ở nước Ma Thâu La (Mathura) thuộc Trung Ấn, có người con của một thuyền chủ tên là Ðại Thiên (Mahadeva), tới tuổi trưởng thành đi tu, làu thông tam tạng kinh điển, chứng quả A La Hán, được đại chúng kính nể. Gặp ngày Bố Tát tại chùa Kê Viên (Kukkutarama), Ðại Thiên liền đối trước chúng nói một bài kệ gồm có 5 việc, và nói rằng: ''Khi Phật còn tại thế, chư ThiênTứ chúng nói ra đều phải được Phật ấn chứng, mới gọi là kinh, nay Phật đã diệt độ, nếu trong đại chúng, có người thông minh, có tài thuyết pháp, cũng có thể trước tác được kinh điển''.

Theo Dị Bộ Tôn Luân Luận, bài kệ của ngài Ðại Thiên đã nói: ''Du sở dụ, vô tri, do dự, tha linh nhập, đạo nhân thanh cố khởi, thị danh chân Phật giáo'' Ðại khái là đạt tới bực A La Hán hãy còn khuyết điểm, để chỉ trích lý tưởng A La Hán, manh nha tư tưởng Ðại thừa. (LSPG

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8806)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
(Xem: 9313)
Học Phật Nên Biết - Tác Giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm, Pháp Sư Ấn Thuận, Pháp Sư Kim Minh và Phương Khắc Minh; Dịch Việt: Thích Nguyên Thành
(Xem: 11466)
Kinh PHÁP CÚ là một bộ Kinh rất xưa, được xem là kinh Lời Vàng cho những ai có chí nguyện tu tâm, dưỡng tánh để tiến thân trên lộ trình hành đạo giải thoát... Thích Nữ Nguyệt Chiếu
(Xem: 7575)
Lâu nay nói đến các trường Phật họcNam Bộ, người ta thường nghĩ đến Phật học đường Nam Việt, Sài Gòn... Thích Minh Cảnh
(Xem: 12296)
Tự học tiếng Tây Tạng - Tạng Ngữ Hiện Đại - Losang Thonden, Việt dịch: Konchog Kunzang Tobgyal
(Xem: 143648)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 6969)
Với tinh thần đó, trong khi chuyển ngữ ra tiếng Việt thời nay, việc gỡ bỏ ba chữ đó là hoàn toàn hợp lẽ... Hoằng Quảng
(Xem: 11886)
Nội dung tu học Phật pháp nước ta đại bộ phận đều phát xuất từ các kinh điển Hán dịch... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 8631)
Thế giới này là một chuỗi dài nhân duyên nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 19961)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 9286)
Một bản ngã khi muốn có được cái gì từ người khác thường thích đóng vai một nhân vật nào đó để làm cho nhu cầu của nó được đáp ứng... Eckhart Tolle
(Xem: 10831)
Sắc Tức Là Không, Không Tức Là Sắc - Nguyên tác: Cư sĩ Lý Nhất Quang, HT Thích Thắng Hoan dịch Việt ngữ
(Xem: 13588)
Biểu tượng quốc gia của các nước như Thái Lan, Indonesia, và thủ đô Ulan Bator (Mông Cổ) là hình tượng chim thần Garuda... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 11447)
La Sát là từ được phiên âm của Rakshasa/ Raksha (Sanskrit) là một sinh vật thần thoạihình dáng, tính cách của loài người hoặc quỷ thần bất thiện trong Hindu giáo và Phật giáo... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 9364)
Ở xứ ta, sinh vật thần thoại Khẩn Na La, trong kinh văn Phật giáo là một trong “bát bộ chúng”. Trong mỹ thuật cổ, sinh vật thần thoại Kinnara này được giới nghiên cứu gọi là “Tiên nữ đầu người mình chim”... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 14476)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 7273)
Lâu nay mỗi chúng ta theo đạo Phật nhưng có nhiều điểm nghi ngờ, thấy đạo Phật hình như tiêu cực, đa số chùa chiền đều ở trên núi, cách xa thành thị... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 32498)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13140)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 21009)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 39153)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 7139)
Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path” by Khenchen Konchog Gyaltshen, edited by Khenmo Trinlay Chödrön, Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
(Xem: 8975)
Một cơn đau đớn cực độ cũng có thể đưa đến một thể dạng giác ngộ nào đó giúp mình mở rộng tâm thức và con tim hướng vào kẻ khác.
(Xem: 6761)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18/9/2013 đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni ... Hoang Phong
(Xem: 9771)
Bất nhị là không phải hai hay nhiều, cũng không phải một, mà là vô lượng hay không có số lượng. Số lượng là số đếm chỉ có trong thế giới tương đối, nhị nguyên... Truyền Bình
(Xem: 9482)
Thầy Tuệ Sỹ viết: “Bởi vì con cá dưới lòng sông không làm sao hiểu nổi chuyện kể đầy tính hoang đường của con rùa sau những chuyến du hành trên đất liền..." Đặng Công Hanh
(Xem: 8054)
Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới... Nhụy Nguyên
(Xem: 11802)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 16179)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 9622)
Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc cao minh tôn túc chỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là không thể nào tránh khỏi được.
(Xem: 12248)
Theo kinh điển, hai truyền thống Nam truyền và Bắc Truyền đều thừa nhận Đức Phật có đầy đủ 32 tướng quý... Thụy Nguyên
(Xem: 8817)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diện cuộc đời sanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật... Đương Đạo
(Xem: 15587)
Giáo Khoa Phật Học (3 Tập) Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ, Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
(Xem: 8017)
Trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu...
(Xem: 17861)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 8676)
Lương Vũ Đế, tự Tiêu Diễn, lên ngôi vào năm 37 tuổi, tại vị 49 năm, thọ 86 tuổi. Là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lương (502-556) trong giai đoạn Nam Bắc triều (420-589) của Trung Hoa.
(Xem: 8324)
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”... Nguyễn Xuân Chiến
(Xem: 10541)
Nguyệt San Phật Giáo Việt Nam - Do Tổng hội Phật Giáo Việt Nam xuất bản năm 1956
(Xem: 15855)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 17533)
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
(Xem: 7944)
Đại chúng bộbộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 13022)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 8058)
Phật dạy 20 điều khó không mang một sắc thái bi quan hay chán chường, mà nhằm chỉ dạy chúng ta phải ý thức rằng sự sống này phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống trên nền tảng của nhân quả... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 8616)
Đạo Phậtcon đường dẫn đến an vui giải thoát. Đức Phật là bậc đạo sư, là người dẫn đường chứ không phải là vị thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai... Hoàng Nguyên
(Xem: 9786)
Tam Nguyệt San Hải Triều Âm - Cơ quan phát khởi nền quốc học, Phật học, và Văn hóa Việt Nam do Tổng Vụ Văn Hóa GHPGVNTN chủ trương từ 1973 đến 1975
(Xem: 10363)
Mục đích duy nhấtcuối cùng của con đường học Phật, tu Phật chính là thoát khỏi sinh tử. Trên đường đi tới điểm đích ấy, nền tảng chủ yếu hướng dẫn người tu Phật xuất gia lẫn tại gia không bị lạc lối được xem là sự nghiệp trí tuệ... Đoàn Ánh Loan
(Xem: 23282)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19386)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 10072)
Tuần San Đuốc Tuệ 1965 - Cơ Quan Phát huy tinh thần Phật Giáo, Khai triển văn hóa dân tộc - Miền Vĩnh Nghiêm trong GHPGVNTN 1965
(Xem: 8271)
Đặc San Hoằng Pháp Dharmaduta - Cơ Quan Truyền Bá Chánh Pháp Của GHPGVNTN 1973
(Xem: 24220)
Từ Điển Pháp Số Tam Tạng - Nguyên tác: Pháp sư Thích Nhất Như, Cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
(Xem: 8864)
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
(Xem: 8474)
Có thể nói rằng quan điểm bình đẳng về khả năng giải thoát tâm linh do Đức Phật đưa ra có một ý nghĩa cách mạng xã hội đáng kể...
(Xem: 8017)
Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát... Quán Như
(Xem: 17778)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 9521)
Hãy hướng tâm vào bên trong và cố gắng tìm niềm vui ở bên trong. Chỉ khi tâm đã được kiềm chế và dẫn dắt đúng hướng thì nó mới có ích cho chủ của nó và xã hội.
(Xem: 8215)
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
(Xem: 24382)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 24716)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 8421)
Triết học Trung quán kêu gọi sự chú ý của chúng ta, như một hệ thống đã tạo nên cuộc cách mạng trong đạo Phật và qua đó, toàn lĩnh vực triết học Ấn Độ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant