Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Hạt Kim Cương - Lời Thuyết Pháp Từ Nơi Đức Thế Tôn

06 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 13026)
Những Hạt Kim Cương - Lời Thuyết Pháp Từ Nơi Đức Thế Tôn


Những Hạt Kim Cương - Lời Thuyết Pháp Từ Nơi Đức Thế Tôn

Nguyên Siêu

1. Công việc thường nhật nhưng luôn ở trong Đại Định.

Sáng nay nắng vàng rực rỡ. Những tia nắng trong suốt xuyên qua các cành cây kẻ lá nơi tinh xá Kỳ Viên. Trên các lối mòn, những con đường chung quanh khu vườn được tươi hẳn lên, tỏa mùi thơm thoang thoảng, hương vị những bước sakyamunibuddha248chân thiền hành của Đức Thế Tôn. Những bước chân ấy còn in rõ nét trên mặt đường, bên bờ cỏ, nơi công viên, lúc Đức Thế Tôn thuyết pháp cho chư Thiên, giảng đạo cho Thánh chúng, khuyến tu cho các nam nữ cư sỹ tại gia, hay cho các loài quỷ thần, hộ pháp.

Hình ảnh của Đức Thế Tôn sáng nay cũng giống như mọi sáng nào. Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng. Dáng dấp khoang thai đỉnh đạt của một đấng Pháp vương. Tất cả những phước đức trang nghiêm, oai nghi thanh thoát đó luôn hiện hữu nơi đôi tay trìu mến, nơi cái nhìn thương cảm, nơi tấm lòng cứu độ, vị tha đều được chan hòa đến từng người, đến từng loài vật, đến từng ngọn cỏ cây, sỏi đá. Dù vô tình hay hữu tình lòng từ bi vẫn ban phát. Đôi tay ấy vẫn cứu độ. Đôi chân ấy vẫn du hành cho sự bình yên, hạnh phúc muôn nơi.

Nắng vàng trên cao đã qua khỏi những nhánh cây bồ đề hướng đông, trước cổng tinh xá. Cây bồ này hiện có là do sự yêu cầu của Tôn giả A Nan, khi Đức Thế Tôn an cư mùa mưa ba tháng nơi Bồ Đề Đạo Tràng, vắng bóng Đức Thế Tôn nơi đây, hàng Thánh chúng thương nhớ. Do vậy, tôn giả Đại Mục Kiền Liên đến Bồ Đề Đạo Tràng lấy một nhánh nơi đó đem về trồng nơi đây - Tinh Xá Kỳ Viên. Biểu hiện Đức Thế Tôn, hiện diện, làm bóng cây che mát hàng Thánh chúng. Làm hình ảnh thương yêu, an ủi lòng người, làm biểu tượng thiêng liêng của Bậc Giác Ngộ, làm hình ảnh cha lành sưởi ấm đời con... Cây bồ đề xanh tươi; tỏa rộng bóng mát trong khu vườn đã đem nguồn tỉnh dưỡng, ý vị hiền hòa chân thiền định cho chúng đệ tử xuất gia cũng như tại gia. Cây bồ đề buổi sáng hôm nay, khoe lá xanh dưới làn nắng ấm. Lá cành lung lay qua làn gió nhẹ hây hây. Một buổi sáng tinh khôi, mầu nhiệm. Một buổi sáng thanh bình, tịnh lạc giữa đất trời thư thái mang nhiên.

Buổi sáng hôm nay, nơi khu rừng của Thái tử Kỳ Đà, vườn của Trưởng giả Cấp Cô Độc, hai vị đại thí chủ đã phát tâm hiến cúng ngôi Tinh xá Kỳ Viên này. Đức Thế Tôn và hàng Thánh chúng trú ngụ đã bao nhiêu thời gian, qua bao nhiêu mùa an cư kiết hạ. Qua bao nhiêu lần thiền hành, khất thực, bố tát, giảng kinh, theo thông lệ của Chư Phật, mà sáng hôm nay cũng không ngoài thông lệ ấy.

Gần đến giờ thọ trai, Đức Thế Tôn đắp y, ôm bình bát vào thành xá vệ theo thứ lớp khất thực. Đức Thế Tôn chậm rãi đi từng bước. Đứng yên lặng. Mắt nhìn xuống. Hai tay ôm bình bát trang nghiêm. Tất cả những cử chỉ đó được thể hiện trước từng căn nhà của chư vị đàn việt. Đàn na thí chủ có ai đó phát tâm dâng cúng buổi ngọ trai này, một cách thành kính, để đồ ăn vào bình bát một cách kính cẩn, khiêm cung, xong rồi đảnh lễ Đức Thế Tôn ba lạy trong ý thức trong sáng, tâm hồn thuần khiết, yên lặng lui vào nhà.

Từ ngỏ nhà này đến ngỏ nhà khác tuần tự thứ lớp khất thực, dù được cúng dường hay không, Đức Thế Tôn vẫn đứng bình thản đôi ba phút rồi tiếp đến nhà khác. Đây là cung cách của một đấng Thế Tôn, là ruộng phước của chư Thiênloài người, mà Đức Thế Tôn không phân biệt đây là nhà giàu sang, cơm ăn nước uống thơm ngon hãy đến khất thực, hay kia là nhà nghèo khó cơm thô canh cặn mà không nên đến xin. Làm ruộng phước cho chư Thiênloài người gieo trồng phước đức một cách bình đẳng, Đức Thế Tôn đã thể hiện.

Ánh nắng đã lên cao, mặt trời gần đỉnh đầu, Đức Thế Tôn cũng khất thực đã xong. Bình bát vừa đủ thức ăn cho một ngọ trai - không quá nhiều, không quá ít. Nếu thức ăn quá nhiều thì sẽ không ăn hết, phải bỏ - đàn na, tín thí khó tiêu. Còn nếu quá ít thì ăn không đủ. Cả hai cách đều không phải. Do vậy mà bình bát khất thực được có tên là ứng lượng khí. Bát đựng cơm tùy theo số lượng ít nhiều. "Như Lai ứng lượng khí, ngã kim đắc phu triển, nguyện cúng nhất thiết chúng, đẳng tam luân không tịch. Án tư mạ mo ni tóa ha."

Đức Như Lai sửa lại chiếc y kim sắc, nâng chiếc bình bát cao hơn một chút, mắt nhìn về Tinh xá Kỳ Viên, xoay mình, chậm rãi từng bước thanh thản. Dáng dấp của một đấng Như Lai sao mà trang nghiêm quá! Uy hùng quá! Từ mẫn quá! Tự tại quá! Ngài không hấp tấp, băng khoăng, không lôi thôi xốc xếch, không thô kệch vụng về như chúng ta. Trong chiếc y vàng sậm quấn từng nếp đều đặn, thanh nhả, không quá rộng, không quá chật, không quá dài, không quá ngắn, thật thích hợp trên thân của Như Lai.

Về đến cổng Tinh xá Kỳ Viên, bước vào khu vườn, đến dưới một gốc cây, Như Lai trải tọa cụ, ngồi xấp bằng, để bình bát trước mặt, nhất tâm chú nguyện phước lạc đến cho từng nhà, đến cho từng người, đến cho khắp pháp giới, chúng sinh đều được ân triêm công đức. Như Lai thọ dụng buổi trưa trong sự yên tỉnh của tâm hồn. Trong sự yên tỉnh của cảnh vật. Trong sự yên tỉnh của thức ăn. Trong sự yên tỉnh của người hiến cúng. Đức Như Lai ăn cơm không quá mau không quá chậm, vừa phải. Ngài ăn trong sự quán tưởng công lao của người nông phu làm ruộng, của người nhổ mạ cấy lúa. Của người cày sâu, cuốc bẩm từng luống đất khô. Ngài ăn trong ý thức chánh niệm, để tưởng nhớ đến công ơn của người làm nên bát cơm này. Bao nhiêu mồ hôi, công sức của sức người, của sức con vật, trải qua bao ngày tháng, bao nắng mưa, bao sương khuya gió sớm, để có được đồ ăn. Đức Như Lai quán tưởnghồi hướng phước lạc đến cho tất cả.

Trong không khí êm đềm thanh thoát của khu vườn, khắp đó đây cùng thời gian, các vị thánh giả cũng dùng cơm ngọ xong, cũng định tỉnh bình an, cũng tỉnh giác trong mọi cử chỉ hành động, cũng thư thái nhẹ nhàng, tự tại của một hành giả hướng thân trên lộ trình thánh đạo. Các ngài trông cách ăn của Đức Thế Tôn, không cúi đầu xuống quá thấp; không ngẩng đầu lên quá cao; không hả miệng quá sớm khi đưa thức ăn vào, không nhai thức ăn thành tiếng. Tay bưng bình bát cũng không quá thấp từ nơi miệng sẽ bị rơi thức ăn ra ngoài, cũng không bưng bình bát quá cao làm khó bóc đồ ăn. Tất cả mọi trạng thái đều đơn giản, dung dị. Tâm hồn của một bậc Thánh bình an vô sự.

Sau khi Đức Thế Tôn dùng cơm xong, Ngài rửa bình bát, tráng nước để uống, Ngài niệm tưởng đến các loài sinh vật trong bát nước, chú nguyện cho chúng sinh được siêu sanh. Nhưng không, ấy chỉ là một cách nói. Vì các loài sinh vật nào đụng vào thân Như Lai hay bị ảnh hưởng bởi động tác của Như Lai, tất cả đều được phước lạc. Vì Đức Như Lai đã chứng tứ thần túc. Đức Như Lai đã chứng tứ vô lượng tâm. Do vậy, mà các loài sinh vật không bị thiệt hại mà còn tăng trưởng phước lành. Một hôm có người Bà la môn rình Đức Thế Tôn đi, thấy dấu chân Đức Phật, người ấy bắt con dế, bóp đầu rồi bỏ trên dấu chân ấy, và vu khống với mọi người rằng, Đức Thế Tôn đi đạp chết loài sinh vật. Mọi người xúm lại xem, chẳng ai thấy con dế bị chết mà rõ ràng, con dế đang bò trên mặt đất. Điều này chứng tỏ cho thấy rằng, một bậc Như Lai chứng tứ vô lượng tâm - Từ - Bi - Hỷ - Xả, là không làm tổn hại đến bất cứ một loài sinh vật nhỏ nhiệm nào. Hơn nữa, đại bi tâm của Ngài được xây dựng trên mọi sự sống của muôn vạn quần sanh, kể cả loài thảo mộc, sỏi đá... Chính vì vậy, Đức Thế Tôn dạy phải bảo vệ sự sống, phải bảo vệ môi sinh, phải biết thương yêutrưởng thành, phải biết xây dựng và tác tạo các thiện nhân, hòa mình trong cộng đồng để cùng cộng sinh, cộng hưởng. Có cùng một cộng nghiệp thiện trong xã hội.

Đức Thế Tôn đậy nắp bình bát, thu xếp tọa cụ, rửa tay chân, khoang thai đứng dậy đi quanh một vòng thư thả. Ngài vắt y trên vai đến dưới một gốc cây khác, trải tọa cụ, ngồi kiết già thiền định.

Mọi công việc làm thường nhật trong ý thức tỉnh lặng, mọi động tác sinh hoạt, bằng cái đi, cái đứng, cái nằm, cái ngồi... đâu đâu cũng đều thấy biết như cái nhìn quả xoài trên lòng bàn tay, không lầm lạc, không lãng quên, không mê muội, u mê trì trệ. Bởi vì Đức Thế Tôn đã đốt cháy, đã dập tắt cội nguồn vô minh si ám, đã tát cạn biển phiền não sinh tử. Như Lai đến như vậy và đi như vậy. Hay Như Laibất động. Như Lai luôn ở trong đại định.

Bằng cái nhìn bình dị nhưng thâm trầm, đơn sơ nhưng cao cả, được thể hiện qua nếp sống thường nhật, Đức Phật cũng có phong thái sống giống như chúng ta. Giống ở chổ, vì ý nghĩa của sự thị hiện của báo thân, ứng thân hay hóa thân, trong mọi động tác không rời thế giới loài người mà có. Từ thế giới loài ngườithành tựu tất cả, để từ đó sống trong thế giới loài ngườiđộ sinh, tu chứng. Nhưng trong cái phong thái sống người ấy có hàm tàng một Phật cách siêu việt. Một trí tuệ tuyệt luân. Một lòng từ bi cao cả. Một cái gì của Phật mà mình chưa có. Cái Phật ấy, chúng ta phải tu, phải hành trì, phải bước đi trên con đường Đức Phật đã đi. Phải ăn, phải nói, phải làm cái Phật đã làm, đã ăn, đã nói. Đã, đang, sẽ phải hành động những gì mà Đức Phật thị hiện trong suốt ba a tăng kỳ kiếp qua. Cái đó là Phật tánh, Phật tâm, Phật hành động cụ thể, hiển bày thành sự thật, là con đường của các bậc Thánh đi qua, là cái Đức Phật đã đi qua: "Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha."

2. Trụ tâmhàng phục tâm.

Đức Như Lai đang ngồi dưới gốc cây trong tư thế kiết già. Tâm Phật bình lặng và sâu thẳm như lòng đại dương, mênh mông tỏa rộng như thái hư tràn khắp ba cõi đất trời không một nơi nào sơ sót. Đức Phật đang quán chiếu đến từng căn cơ của chúng sinh, xem ai là người có nhân duyên hóa độ. Ai là người mới phát tâm. Ai là người đang hướng tâm đến thánh quả. Ai là người đang ly khai tâm phàm phu, tận diệt lậu hoặc, để Phật tiếp trợ công đức tu hành mà chóng thành đạo quả. Và đây là sự đảnh lễ, thưa thỉnh của tôn giả Tu Bồ Đề, bạch Phật: "Bạch Đức Thế Tôn, rất là hi hữu trong cuộc đời, không phải ngay bây giờ mà nhiều thời gian trong quá khứ, cũng như nhiều thời gian trong tương lai, Đức Thế Tôn phương tiện, quyền xảo, khéo hay hộ niệm cho các vị Bồ tát. Bạch Đức Thế Tôn, có người thiện nam hay tín nữ mà đã có lòng, có tâm, có ý phát khởi mong cầu quả vị vô thượng, chánh đẳng chánh giác, thì làm sao mà an trụ được cái tâm của mình. Làm sao hàng phục, giữ gìn, trói buộc cái tâm ấy?" Vì tâm giống như người họa sỹ vẻ ra tất cả các hình tượng núi non, sông ngòi, thành quách, trăng sao, kể cả các hình ảnh vô hình, vô tướng, không dấu vết như chim bay ngang bầu trời; như lưỡi dao chém xuống mặt nước, tất cả đều không lưu vết tích, nhưng tâm đều có thể vẻ vời đủ mọi sắt thái, tướng trạng. Tâm như khỉ chuyền cây, như ngựa rong ngoài đường, có khi nào tâm dừng chân đứng lại yên nghỉ. Tâm thênh thang băng qua núi đồi. Tâm vượt đèo băng suối. Tâm đến. Tâm đi. Tâm tạo tác tất cả. Nào ai thấy được lằn vết của tâm, nếu tâm không được "trụ" và "hàng phục". Vì lòng từ bi, xin Đức Thế Tôn chỉ bày cho chúng con hôm nay, cũng như chúng sinh trong thời cách Phật lâu xa, biết được để hành trì, để tu tập, để chứng đắc. Ấy là lòng mong cầu, ước vọng của những người muốn tiến thân trên con đường Đạo. Con đường tối thượng. Con đường tối thắng. Con đường tối tôn. Con đường nhiệm mầu đưa người qua bến giác.

Ấy là lời thỉnh cầu của tôn giả Tu Bồ Đề. Ngài đại diện cho con người, cho chư thiên, cho hết tất cả chúng sinh để đảnh lễ Đức Thế Tôn, để trình bày tấm lòng muốn tu, muốn chứng, muốn cứu độ vạn loại sinh linh trong thế giới ba ngàn này. Vì hình tướng, sự tạo tác của tâm mà chúng sinh cứ qua lại trong tam giới. Khi thăng lúc trầm, khi thiện lúc ác, khi phàm phu, lúc thánh nhơn, nhiều vô số kiếp.

tâm không "trụ" và không "hàng phục" nên tâm tự do dong ruổi. Tâm tạo tác nghiệp nhơn sinh lên trời thì làm chúng sinh loài trời. Tâm tạo tác nghiệp nhơn loài người, thì sẽ làm chúng sinh loài người. Tâm tạo tác nghiệp nhơn chim bay, thú chạy, cá bơi, côn trùng... thì sẽ làm loài chúng sinh như vậy. Ấy là thành quả tạo tác của tâm. Cho nên giá trị của sự tu tập là biết "trụ" tâm và "hàng phục" tâm. Tâm dừng lại, không dong ruổi là tâm định tỉnh.Tâm an lạc. Tâm tỉnh giác. Tâm bất loạn. Tâm điều phục. Tâm chân thật của tâm. Còn tâm không đứng lại. Không "trụ", không "hàng phục" là tâm động. Tâm như trận cuồng lưu. Tâm như cơn bão dữ. Như cơn bão tố. Như cơn bão nổi. Như cơn sóng thần. Như cơn địa chấn, cuồng phong... làm sụp đổ lâu đài thành quách, núi lở cát bay. Ấy là hiện tượng giới, là cảnh vật bên ngoài. Là pháp hữu vi, là pháp hữu lậu, là cái có thể mắt thấy tai nghe. Còn tánh giới, tâm giới thì sao. Cái mà không thể dùng mắt thấy, tai nghe, cảm xúc. Cái không hình, không tướng, không hương, không vị. Mặt dù không nhưng lại có năng lực siêu nhiên, có sức bọc phá, có sức kiện thành, có sức tạo dựng, duy trì tương tục. Nhưng dù cho gì đi nữa, tánh hay tướng, hữu hay vô, bản chất của tâm ấy vẫn chưa được "trụ" hay "hàng phục". Tâm chăn trâu trong Thập mục ngưu đồ, là tâm chưa hàng phục. Vì chưa hàng phục nên phải tạo nhiều phương tiện. Tìm dấu chân trâu. Vạch lá, vén lau, chen cây, leo núi. Và khi thấy được dấu chân trâu rồi thì lần theo đó mà gặp được trâu. Nhưng tâm vẫn còn bị núi rừng che khuất. Bị cái hoang vu ngàn năm bưng bít, đông đặc, nên trâu vẫn tiếp tục quay đầu bỏ chạy. Chạy sâu vào rừng. Chạy sâu vào núi. Vào hang cùng ngỏ hẻm. Vào chốn thâm u. Vào nơi mịt mù của cõi hoang sơn, dã địa. Ấy là bản chất của tâm khi chưa được "trụ" và "hàng phục". Khi chưa được "trụ" và "hàng phục" thì gọi là tâm đen, hay trâu đen. Đen từ mõm đến đuôi. Không một chút lóm đóm trắng. Cái đen của vô minh. Cái đen của không một chút tia sáng. Cái đen của thời vô thủy, của thuở hồng hoang, của trời đất u u minh minh. Cái đen của tâm khi chưa "trụ" và "hàng phục".

Bằng phương tiện khéo léo, người tìm trâu - kẻ chăn dắt tâm, phải nhử trâu bằng rơm cỏ. Bằng đồ ăn nước uống. Bằng cử chỉ thân thiện, tao nhả. Bằng lời nói êm dịu. Bằng cái nhìn trìu mến. Bằng cái, tất cả đều buông lơi. Không dính mắc. Không cố ý. Không dụng tâm.

Nắm cỏ trong tay. Dây xỏ mũi nơi tay. Tất cả đều sẵn sàng cho một công trình hoán chuyển từ đen thành trắng. Từ cõi hoang vu núi rừng thành chốn bình nguyên thành thị. Trâu đen được nhử, được dỗ dành, được khuyến dụ. Trâu nghe lời, tâm trâu mềm xuống. Tâm trâu êm dịu. Tâm trâu giảm chút ngông nghênh. Tâm trâu chịu tuân phục đôi chút. Trâu nhai cỏ. Trâu để cho xỏ mũi, nhưng dưới sức cưởng chế của mục đồng.

Bắt được trâu. Thấy được lằn vết của tâm, nhưng tâm chưa thuần thục. Trâu chưa ngoan ngoản. Trâu còn phải chăn dắt, ghì kéo từ núi rừng về lại chuồng. Trên con đường kéo về lại chuồng, trâu vẫn dùng dằn và nhiều lần quay đầu nhìn lại chốn núi rừng hoang vu ấy. Nơi mà trâu một thời đã sống, đã hung hăng từ bản chất cố hữu. Bản chất đen, hắc nghiệp. Đi ngang qua cánh đồng, qua bờ ruộng, trâu gục đầu gặm ăn lúa mạ, ăn khoai sắn. Người chăn trâu phải ghì mõm trâu lại. Trâu nghe lời - tuân phục, nghễnh đầu lên nhìn người chăn dắt. Nhìn mây bay, nhìn cánh đồng lúa chín, nhìn dòng nước trong xanh. Trâu đứng yên. Tâm được tỉnh lặng đôi chút. Mõm trâu. Cổ trâu. Vai trâu lần trắng. Chầm chậm. Thoát xác. Vứt bỏ thú tâm.

Được nhiều thời gian huấn luyện. Được nhiều gian đoạn chăn dắt. Được nhiều sự cố công của mục đồng, trâu an nhàn, qui hướng. Trâu uống nước, ăn cỏ. Trâu biết làm gì nơi tự tâm mình. Trâu không làm vướng bận đến người chăn dắt nữa. Trâu hiền ngoan. Tâm thuần thục. Tâm không khuấy động tâm. Trâu không còn chướng tật. Ăn cỏ xanh, uống nước trong, trâu nằm dưới gốc cây ngơi nghỉ. Người chăn trâu cũng vậy, gối đầu nơi gốc cây nằm ngủ. Người chăn trâutự tại của mình. Trâu không còn chăn dắt, có tự tại của trâu. Bây giờ, cả hai không còn lo nghĩ cho nhau nữa. Cả hai không còn bị chi phối với nhau nữa. Hai khung trời. Hai vầng trăng trong sáng vằng vặt trên không. Ánh sáng mầu nhiệm tỏa ra từ nơi tâm thuần tịnh. Bạch nghiệp. Trâu đã trắng toàn thân, chỉ còn chút lông đuôi chưa trắng - chi mạc vô minh. Nhưng trâu biết chắc rằng một ngày nào đó. Phút giây nào đó, trâu sẽ trắng toàn thân. Tâm trở thành bạch tịnh. Băng qua lằn vết giữa phàm và thánh. Giữa mê và ngộ. Giữa hữu vivô vi. Giữa chơn đếtục đế. Hòa quang đồng trần. Thỏng tay vào chợ. Năng sở đều không. Tâm đã "trụ" đã "hàng phục".

3. Độ chúng sinh nhập Vô dư niết bàn.

Đức Thế Tôn dạy cho tôn giả Tu Bồ Đề là chư vị Bồ tát nên an trụ tâm như vậy, hàng phục tâm như vậy. An trụ tâm như vậy, hàng phục tâm như vậy là trong pháp giới chúng sinh có loài sinh ra bằng trứng, có loài sinh ra bằng thai, có loài sinh ra bằng ẩm ướt, có loài sinh ra bằng biến hóa. Trong bốn loài chúng sinh này, có loài có hình sắc, có loài không có hình sắc, có loài có tưởng, có loài không có tưởng... Đức Thế Tôn hóa độ, được nhập Vô dư niết bàn, an tịnh giải thoát. Sự hóa độ như vậy. Sự diệt độ như vậy đếm nhiều vô lượng, vô số, vô biên chúng sinh, muôn loài trong pháp giớithật khôngchúng sinh nào được hóa độ, được diệt độ. Vì nếu Bồ tát còn có cái thấy về tôi. Cái thấy về người. Cái thấy về chúng sinh. Cái thấy về sự sống thì thật chẳng phải là Bồ tát.

Đến địa vị Bồ tát là đã xa rời mọi chấp trước, mọi sự trói buộc, mọi sự tù túng, lăn xăn. Bồ tát làm công việc độ sinh như đói thì ăn, khát thì uống. Tự nhiên. Không dụng công. Không ráng sức. Vì Bồ tát còn dụng công, còn ráng sức thì Bồ tát hãy còn ở trong vòng đối đãi. Trong vòng nhị biên, lưỡng cực. Sự độ sinh của Bồ tát như khí trời để vạn vật hít thở. Như ánh nắng để chiếu soi muôn loài. Vạn vật đều trưởng thành trong ánh nắng. Bồ tát được trưởng thành từ chúng sinh. Do vậy, Bồ tát ý thức cứu độ chúng sinhcông hạnh, là thệ nguyện. Bồ tát độ sinh mà không thấy có một chúng sinh nào được mình hóa độ thì sự hóa độ đó mới rốt ráo, viên dung. Chúng sinh cũng vậy, mình được diệt độ, được chứng đắc mà không thấy mình có được diệt độ, chứng đắc thì mới thật là diệt độ, chứng đắc. Vì giai đoạn phàm phu là giai đoạn chấp ngã sâu dày. Cái tôi thật lớn, mà tiến trình tu tập là đốn ngã cái chấp ngã ấy, chặt đứt cái tôi ấy. Nhờ đốn ngã cái chấp ngã, chặt đứt cái tôi mà chuyển mê khai ngộ, dứt phàm đạt Thánh. Nhưng khi đạt Thánh rồi mà còn thấy quả vị để đạt, thấy có quả Thánh để thành, thì hóa ra giống như giai đoạn còn là phàm phu không khác. Một cái chấp ngã của phàm phu đã chết đi rồi, giờ làm sống dậy cái ngã của bậc Thánh. Giết chết cái chấp ngã để nuôi dưỡng một cái chấp ngã khác thì không phải là rốt ráo, cứu cánh của sự tu chứng. Sự chấp ngã hay bản ngã đều là không thật. Dù chấp ngã, bản ngã đó là của phàm phu hay Thánh nhơn. Hạnh nguyện của Bồ tát là cứu người qua bể khổ, giúp đở phương tiện để con người qua được bờ bên kia. Việc làm này tự thân của Bồ tát không thấy có người cứu độ và kẻ được cứu độ. Vì còn thấy có người cứu độ thì không thể gọi là Bồ Tát. Bởi vì Bồ Tát đã không còn cái chấp ngã về cái tôi, về con người, về chúng sinh, về sự sống.

Bồ tát xây dựng con đưởng của mình đi gọi là Bồ tát đạo. Lập hạnh nguyện độ sinh gọi là Bồ tát nguyện. Và thực hành công việc cứu độ chúng sinh, đưa tất cả chúng sinh qua bờ bên kia gọi là Bồ tát hạnh. Đưa hết chúng sinh qua bờ bên kia, còn Bồ tát thì ở bờ bên này. Ở bờ bên này hay ở bờ bên kia, Bồ tát đều không có sự chấp trước.

Bồ tát tạo lập con đường, phát lời thệ nguyện, và xông xáo vào đời cứu độ chúng sinh là gieo cấy hạt mầm giác ngộ cho kẻ khác, và cuối cùng hạt mầm giác ngộ nơi chính mình, hạt mầm giác ngộ nơi kẻ khác, hạt mầm giác ngộ nơi cả hai được thành tựu viên mãn - Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Bồ tátý chí độ sinh kiên cường, bất khuất - Đại hùng. Bồ tátsức mạnh dõng mãnh bằng năng lực bất thối trước sự khổ nạn độ sinh - Đại lực. Bồ tát có tấm lòng yêu thương rộng lớn ban vui cứu khổ cho chúng sinh - Đại từ bi. Bồ tát có đủ năng lực, tiềm lực, nghị lực, trí lực, tâm lực, giải thoát lực, giác ngộ lực cho mình và cho người. Do đó Bồ tát bất thối. Bồ tát không còn bị trầm nịch bờ bên này hay bờ bên kia. Bồ tát tự tại. Bồ tát rộng đường thênh thang để đi. Bồ tát an nhiên trên ngọn sóng bạc đầu. Bồ tát hóa thân trên đỉnh núi tuyệt cùng. Bồ tát hóa hiện vào biển đời trầm luân sinh tử. Bồ tát có mặt ở mọi phương sở, Bồ tát vô ngại.

"Mười phương tất cả chư Bồ tátquyến thuộc ấy đều sinh ra từ hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền. Nhờ trí nhãn thanh tịnh, họ thất tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tạivị lai, nghe luôn cả một biển lớn kinh điển và chư Phật chuyển pháp luân. Các Ngài thảy đã thành thục các Ba la mật thiện xảo, thân cận và cúng dường tất cả Như Lai đang thị hiện thần biến trong mọi sát na, có thể hiện thân đầy khắp cả hư không vô biên, bằng thân ánh sáng, các Ngài làm nảy sinh tất cả chúng hội đạo tràng của chư Như Lai, thị hiện tất cả các thế giới trong một vi trần, một và tất cả với những thiên hình vạn trạng của chúng; và trong những thế giới sai biệt này, họ chọn thời cơ thích hợp nhất để giáo hóathành tựu hết thảy chúng sinh; bằng âm thanh tròn đầy, vi diệu, phát ra từ mỗi lổ chân lông, vang dội khắp cả vũ trụ, các Ngài tuyên thuyết giáo pháp của hết thảy chư Phật". [1]

Bồ tát vừa độ sinh, vừa tuyên dương giáo pháp của Phật, vừa thành lập các đạo tràng cho chúng tu học. Bồ tát vận dụng trí tuệ siêu việt của mình để độ sinh - Đại Trí Văn Thù. Bồ tát tận dụng công hạnh một cách thiện xảo của mình để xây dựng sự sống lợi lạc quần sanh - Đại Hạnh Phổ Hiền. Bồ tát lắng tai nghe tiếng kêu than đầy sự thương đau của kiếp người trầm luân khổ hải để hiện thân ban vui cứu khổ, thoát cảnh tai nàn - Đại Bi Quán Thế Âm. Bồ tát bằng khí tiết kim cương, bằng năng lực vô ngại, phương tiện năng lực này mà hàng phục hết thảy mọi chướng duyên nghịch cảnh để tiếp độ chúng sinh an lành nơi bến giác - Đại Lực Đại Thế Chí. Ấy là thật thể của Bồ Tát. Thật tâm của Bồ tát. Thật hạnh của Bồ tát. Thật nguyện của Bồ tát. Thật tu của Bồ tát. Thật chứng của Bồ tát. Tất cả các hành tướng "Thật" của Bồ tát, đều xuất phát từ Đại bi tâm, Bồ đề tâm, hay Giác ngộ tâm, mà Bồ tát thường hằng, vĩnh viễn sống và hành hoạt trong lòng bồ đề tâm ấy.

"Như chất kim cương chỉ sản xuất từ mỏ kim cương hoặc mỏ vàng. Cũng vậy, Bồ đề tâm như kim cương chỉ sản xuất từ mỏ công đức của kim cương đại bi, nơi Bồ tát hiện thân để cứu vớt thế gian; hay từ mỏ vàng siêu việt trí là cảnh giới thù thắng của Như Lai.

"Như có loại cây vô căn, không ai tìm thấy gốc rễ của nó nhưng tất cả cành, lá, cây, trái và hoa đều thấy sinh sôi rậm rạp. Cũng vậy, không có ai có thể thấy gốc rễ của Bồ đề tâm ở đâu, nhưng hoa công đức, trí tuệthần thông đều sầm uất và tâm đại bi của Bồ tát rợp bóng tất cả thế gian, như một màng lưới.

"Kim cương không cất giữ trong bình sứt mẻ, bất toàn, mà được cất giữ trong chiếc bình trong sáng, kiên cố hoàn toàn. Cũng vậy, kim cương Bồ đề tâm không cất giữ trong bình của các loài ít tín tâm, kém giới hạnh, méo mó, trì trệ, tối tăm, rạn vỡ. Cũng không cất giữ trong chiếc bình dành cho tâm thối đọa và dao động vì thiếu tri kiến, mà chỉ được cất giữ trong chiếc bình được dùng để phát khởi tâm Bồ tát.

"Như kim cương xuyên thủng mọi thứ cẩm thạch, Bồ đề tâm cũng xuyên thủng kho tàng chánh pháp.

"Như kim cương có thể đập vỡ mọi núi đá, kim cương bồ đề tâm cũng đập vỡ mọi núi đá tà kiến.

"Kim cương dù bị vỡ vẫn thù thắng hơn tất cả các thứ đá quí và quí hơn các thứ trang sức bằng vàng khác. Cũng vậy, Bồ đề tâm dù khiếm khuyết và bất toàn vẫn thù thắng hơn các thứ trang sức bằng vàng của công đức nơi các hàng Thanh VănDuyên Giác.

"Kim cương dù rạn vỡ vẫn có thể trừ tuyệt tất cả sự bần cùng. Cũng vậy, Kim cương Bồ đề tâm có thể trừ tuyệt mọi bần cùng do sinh tử.

"Một mẫu kim cương dù nhỏ cũng đủ sức đập vỡ mọi thứ đá quí hay tiện. Cũng vậy, một mẫu kim cương Bồ đề tâm dù nhỏ và không đáng giá vẫn đủ sức diệt trừ vô minh." [2]

4. Vô trụ bất thủ - Hành các thiện pháp.

Hương hoa vẫn còn thật nhiều quanh nơi thảo tòa của Đức Thế Tôn thuyết pháp trưa nay. Các hàng chư Thiên, con ngườivô số chúng hội khác đã quy tụ nơi đây để thừa tự giáo pháp từ nơi kim khẩu của Đức Phật. Hành trì những lời từ mẫn. Tiếp thọ những ý đại bituân thủ luật nghi tế hạnh. Đức Phật đã giảng dạy thật kỷ lưỡng cho hàng đệ tử, cho chúng ta hãy biết làm gì và phải làm gì, làm như thế nào mới đúng như pháp và làm như thế nào gọi là phi pháp.

Trên từng chặn đường của sự tu tập, từ thấp đến cao, từ hữu đến vô, từ chấp thủ đến không chấp thủ, trong mọi động tác, ý nghĩ, Đức Phật đều hướng dẫn hành giả đi đúng trên đạo lộ tu trì. Đức Phật dạy phải hành các thiện pháp như việc bố thíkhông chấp thủ. Bố thí bất trụ tướng. Bố thí không bị dính mắc vào sự vật. Không trụ tướng, không dính mắc như mây trời, bềnh bồng giữa hư không. An nhiên tự tại. Như gió ngàn thổi qua bầu trời, không lưu lại vết tích. Bố thí mà không thấy mình là người cho. Không thấy có tài vật để cho. Không thấy có người tiếp nhận tài vật cho. Thật sự như giả danh, ba phạm trù này có thấy bằng cái nhìn thế gian, sai biệt rằng có, nhưng khi bố thí chúng ta ly khai, xa lìa các tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sinh, tướng thọ giả ấy. Khi chúng ta không bị dính mắc vào các tướng trạng ấy thì tâm chúng ta hồn nhiên như ánh nắng ban mai, chỉ có một sắc dịu thù thắng là làm tươi mát chồi non, lá xanh, trái ngọt, mà ánh nắng ban mai không phân biệt đây là ruộng đồng lúa, ngô, khoai, sắn thì chiếu soi để tạo nên sức sống, còn kia là cỏ, gai, sỏi, đá thì tắt lịm âm u, mà không tô bồi nuôi dưỡng. Tâm bố thí cũng vậy, vô phân biệt. Vô trụ bất thủ, thì kết quả sẽ to lớn, vì không có sự ràng rịt, dính mắc. Không còn nằm trong phạm trù hữu lậu. Không còn rơi rớt lại. Không còn bị lỗ thủng. Không còn có sanh y.

Bố thítâm không cầu, như chim bay qua hư không, không lưu lại vết tích. Bố thí mà ý không nhiều ước vọng như hạt bỏ ao hoang không tham luyến, nhớ tiếc, những cánh đồng đã đi qua, những ao hồ đã ăn cua tôm cá. Tâm rỗng. Tâm Không. Tâm vắng lặng. Tâm trong cõi lặng. Tâm định.

Ấy là những lời Đức Phật dạy cho chư vị Bồ tát, bố thí chẳng trụ tướng. Bố thí chẳng trụ tướng thì phước đức nhiều không thể gì đo lường. Điều này được ví dụ như hư không ở phương Đông. Hư không ở phương Nam, phương Tây, Phương Bắc. Tất cả các phương hướng ấy, chúng ta có thể suy tư, nghĩ bàn được không về sự to lớn của các phương hướng ấy. Chắc hẳn chúng ta không thể nghĩ lường được. Vì các phương hướng ấy là hư không, không có ngằn mé, không có giới vức, không có hạn cuộc, không có mốc điểm. Cái gì không có ranh giới, giới hạn thì cái ấy vô cùng, không đem tâm lượng để hiểu biết, thể đạt.

Sau khi Đức Thế Tôn giảng dạy bài pháp thường nhật. Bài pháp hằng ngày, nhưng quá ư cao siêu, siêu thoát. Vượt thoát giới hạn tâm lượng bình thường. Trong cái thường ngày lại chẳng thường ngày. Trong cái đơn giản lại rất siêu tuyệt. Trong cái đơn sơ như chẳng quan tâm để ý lại quá ư kỳ cùng, ly ngôn, tuyệt tướng. Đức Thế Tôn đi bách bộ, thiền hành quanh khu hương thất, như là thông lệ của Chư Phật, Đức Phật nghĩ tưởng đến các hàng chư Thiên, có ai có nhơn duyên để hóa độ. Đức Phật quán tâm đến Long vương, các loài rồng, các loài thủy tộc ở long cung, biển cả. Đức Phật xem xét đến loài người, từ vua quan cho đến lê dân, ai có nhơn duyên trong Phật pháp, trồng hạt giống lành từ nhiều đời kiếp hay chỉ mới hôm nay, để Đức Phật phương tiện hóa độ. Ấy là đại bi tâm, là lòng từ mẫn, là sự thương tưởng đến muôn loài của Đức Phật.

Đức Phật ngồi trên phiến đá dưới gốc cây tất bát la, dung nhan thật kỳ diệu, một nỗi an bình tuyệt đối, hiện trên khuôn mặt trăng rằm, trên đôi khóe mắt sen xanh, trên vầng tráng cao siêu thoát, trên tự thân của người Giác ngộ.

Đức Thế Tôn ngồi, tâm thường đại định, tâm luôn an lạc, thư thái, trong như pha lê. Ngài thấy rõ tự mỗi thân tâm của chúng sinh nghĩ gì, làm gì, tác phước, thọ nghiệp, quả báo, luân hồi, sinh tử, qua lại trong sáu nẻo trần gian. Từ sáu nẻo nhân gian đó, Đức Phật cũng thấy các đại Bồ tát hòa mình chung sống, chia sẻ, thay thế những điều gì chúng sinh cần thay thế, chia sẻ. Bồ tát xả thân để làm lợi ích cho chúng sinh. Bồ tát hy sinh sự sống của mình để nuôi dưỡng sự sống cho kẻ khác. Bồ tát cưu mang hành trạng vào đời độ sinh.

Bồ tát đi đôi chân trần, nhưng tâm rắng chắc. Chắc như kim cương. Trong như ngọc bích. Bồ tát có dòng sửa ngọt, có lời nói êm, có đôi tay ấm, có tình thương bao la. Bồ tát có tất cả phương tiện để sống với chúng sinh. Bồ tátphương tiện sống ở mọi nơi, nhưng Bồ tát tự tại. Vì tâm không sầu muộn, nên Bồ tát ban vui. Vì tâm không đau khổ, nên Bồ tát cho đời tịnh lạc nhiều hạnh phúc. Đó là con đường của Bồ tát đi, là hạnh nguyện của Bồ tát làm mà từ nhiều đời kiếp qua Bồ tát cứ mãi mãiBồ tát.

Mặt đất bình yên nuôi lớn vạn vật. Mặt đất có phương tiện là mưa. Mặt đất có phương tiệnánh nắng mặt trời. Mặt đất có phương tiện là ánh trăng sao, là gió ngàn, sương lạnh. Mặt đất là mẹ. Mặt đất là cha, là cội nguồn của sự sống. Mặt đất nuôi lớn tất cả. Dù đó là núi non, sông ngòi hay bể cả. Bồ tát nuôi lớn hết thảy chúng sinh, dù chúng sinhhạnh lành hay điều ác. Bồ tát không bao giờ bỏ chúng sinh. Bồ tát độ sinh như độ mình bằng chí nguyện cầu đạo.

"Hoa Nghiêm thám huyền ký phân tích có bốn loại nguyện của Bồ tát:

1. Thệ nguyện, ước hẹn thời gian trước khi hành động.

2. Hành nguyện, gồm hai trường hợp: (a) Cùng phát khởi một lần với hành động. (b) Đối sự mà phát nguyện với chủ đích giữ vững tâm chí không để gián đoạntán loạn.

3. Nguyện sau hành tức bằng hành động mà hướng ước nguyện của mình đến bồ đề đạo.

4. Tự thể vô ngại nguyện, tức đại nguyện cứu cánh đồng với biển pháp tánh, thong dongthành tựu tất cả sự nghiệp.

Bốn loại nguyện này trải suốt con đường hành đạo từ khi mới phát tâm cho đến khi đạt địa vị không thối chuyển.

Nhóm nguyện thứ nhất, như trường hợp Thiện Tài đồng tử sau khi được Văn Thù giảng dạy, phát tâm hướng thượng mong cầu học hỏi, đầy đủ Phật phápgiác ngộ rốt ráo.

Nhóm hạnh nguyện thứ hai, là những lời nguyện trong lúc hành động như được nói trong phẩm "Tịnh Hạnh" của Kinh Hoa Nghiêm. Theo đó, mỗi hành vi của mình đều mang ước nguyện tưởng đến sự an lạc của chúng sinh. Thí dụ khi trãi giường chiếu thì nguyện như vầy: "Khi trãi giường chiếu, nguyện cho chúng sinh, trải bằng thiện pháp, thấy chân thật tướng". Hoặc khi cất bước ra đường thì nguyện rằng: "Cất bước ra đường, nguyện cho chúng sinh, bước lên lối Phật, vào vô y xứ". Hoặc khi ngủ nghỉ thì nguyện rằng: "Vào lúc ngủ nghỉ, nguyện cho chúng sinh, thân được an ổn, tâm không loạn động". Những lời nguyện như vậy, có mục đính làm cho tâm niệm của mình không hề rời bỏ chúng sinh trong mọi hành vi cử chỉ của mình, và do đó không hề xao lãng chí nguyện đại thừa của mình.[3]

Trên con đường thể đạt Phật tánh, Đức Thế Tôn dạy chúng ta hành các thiện pháp, khi làm các thiện pháp mà tâm chúng ta không chấp thủ.



[1] Thiền Luận, tập III. Lý tưởng Bồ tát và Phật. Trang 123. Bản dịch của Tuệ Sỹ.

[2] Thiền Luận. Tập III. Trang 300 - 301. Bản dịch của Tuệ Sỹ.

[3] Thắng Man giảng luận. Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức Nha Trang. Ban Tu Thư. Trang 66 - 67. Tuệ Sỹ. 2001.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11942)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12838)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26702)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13094)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27087)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32922)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31723)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32624)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13051)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12187)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17558)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18785)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12596)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11800)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13153)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12263)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12529)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11680)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 12028)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10646)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10950)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28381)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11193)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11410)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13616)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11066)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11462)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10931)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11223)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26416)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12423)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14917)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11089)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20397)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12386)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11519)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10798)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23992)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11896)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12354)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12876)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11101)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38782)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10594)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12250)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17762)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25138)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10583)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10810)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12083)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11371)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11643)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14763)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21478)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9946)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11295)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27434)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11205)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11880)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11052)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant