Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bồ tát và trụ xứ độ sinh

19 Tháng Chín 201000:00(Xem: 17186)
Bồ tát và trụ xứ độ sinh


Trong nhiều Kinh điển Phật Giáo Đại Thừa, chúng ta thường nghe nói đến các ý nghĩa “phát khởi tâm niệm mà không chấp trước”. Một câu nói siêu việt khác đã được tựu trung trong Kinh Kim Cang, mà tất cả mọi người chúng ta, ai cũng biết rằng, Lục Tổ Huệ Năng, trước khi thành Tổ, là người nghe kinh này và bừng tâm tỉnh ngộ, và kể từ đó ý nghĩa câu kinh trở thành ý chỉ, cốt lõi của Thiền: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (hãy để cho tâm của người khởi lên mà không cố định, dính mắc bất cứ nơi nào).

Phát khởi tâm của chính mình, mà không để cái tâm đó, dính mắc, thiên lệch, đắm trước nơi đâu, có nghĩa là mình đã làm chủ trọn vẹn với chính mình. Mình không để tâm sai sử, rong ruổi với cảnh trần. Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát. Và để thấy rõ hơn, đâu là sinh địa đích thực của Chư Vị Bồ Tát:

1. Nơi nào có tâm Bồ Đề được phát khởi nơi đó là quốc độ của Bồ Tát, vì tâm Bồ Đềquyến thuộc của Bồ Tát.

2. Nơi nào có thân tâm, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát, vì đó là nơi xuất sinh các thiện trí thức.

3. Nơi nào có chứng nhập các trụ địa, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát, vì đó là nơi sinh trưởng hết thảy Ba La Mật.

4. Nơi nào có phát đại nguyện, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát, vì đó là nơi thi hành công hạnh.

5. Nơi nào có đại từ bi, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát, vì đó là nơi phát triển bốn nhiếp tâm.

6. Nơi nào có chánh kiến, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát, vì đó là nơi trí tuệ siêu việt trỗi dậy.

7. Nơi nào Đại Thừa quảng bá, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát, vì đó là nơi hết thảy các phương tiện thiện xảo được vận dụng.

8. Nơi nào có giáo hóa chúng sanh, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát, vì đó là nơi hết thảy Chư Phật thị hiện.

9. Nơi nào có phương tiện trí, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát, vì đó là nơi nhận biết rằng hết thảy các pháp đều không sinh.

10. Nơi nào có tu tập hết thảy các Phật Pháp, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát, vì đó là nơi mà hết thảy Chư Phật trong quá khứ, hiện tại, và vị lai thị hiện.

Chúng ta hãy thử nghĩ ai là Cha Mẹthân quyến của Bồ Tát, và những phận sự của Bồ Tát là gì? Chúng ta thấy:

Bát Nhã là Mẹ

Phương Tiện là Cha

Bố Thí là người Nuôi Nấng

Giới Luật là người Trông Nom

Nhẫn Nhục là đồ Trang Sức

Tinh Tấn là người Thủ Hộ

Thiền Định là người Tắm Rửa

Thiện Hữu là người Dạy Dỗ

Bồ Đề phần là Bạn Đồng Hành

Bồ Tát là Anh Em

Bồ Đề Tâm là Nhà Cửa

Chánh Đạo là Việc Nhà

Trụ Địa là Chỗ Ở

Pháp NhẫnGia Tộc

Nguyện là Gia Giáo

Thực hành Công HạnhGia Vụ, được thọ ký trong một đời nữa,

Số phận Bồ Tát như Thái tử nối nghiệp trong Vương quốc Chánh phái, và thành tựu trí tuệ viên mãn của Như Lai là nền tảng gia quyến thanh tịnh, viên dung.

Bằng thái độ tinh thần vững chắc nào để Bồ Tát bước vào đời sống của chúng ta?

Bồ Tát không chán ghét thứ gì trong bất cứ thế giới nào mà Bồ Tát bước vào, vì biết rằng hết thảy các pháp như ảo tưởng. Bồ Tát không đắm nhiễm trong bất cứ con đường nào mà Bồ Tát bước đi, vì biết rằng, tất cả là một sự hóa hiện. Bồ Tát không thấy mỏi mệt trong bất cứ nỗ lực nào điều phục chúng sinh. Vì biết rằng tất cả đều vô ngã. Bồ Tát nhiếp hóa chúng sanh mà không hề mỏi mệt, vì từ bi là tinh thể của Bồ Tát. Bồ Tát không sợ phải trải qua nhiều kiếp, vì thấy rõ rằng sinh tửnăm uẩn như là ảo tượng. Bồ Tát không hủy diệt bất cứ con đường hiện hữu nào, vì biết rằng hết thảy các giới, và xứ đều là pháp giới. Bồ Tát không thiên chấp về các đạo vì biết rằng hết thảy tư tưởng đều như quáng nắng. Bồ Tát không bị ô nhiễm dù khi ở trong cõi của hàng chúng sinh xấu ác, vì biết rằng hết thảy các thân đều chỉ là giả tượng. Bồ Tát không hề bị lôi cuốn bởi những tham dục, vì đã hoàn toàn chế ngự tất cả những điều được khải thị. Bồ Tát vô cùng tự tại cho dù đi bất cứ nơi đâu vì đã hoàn toàn kiểm soát những giả tướng.

Bằng những hành tung và thệ nguyện độ sanh , chúng ta thấy hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, vị Bồ Tát đã thành Phật từ vô lương kiếp, nhưng vì công hạnh độ sinhBồ Tát thị hiện vào cuộc đời, qua danh hiệu Quán Tự Tại Bồ Tát, Thiên Thủ Thiên Nhãn, Nhĩ Căn Viên Thông v.v... Đức Bồ Tát vân du trong cõi đờ, tùy căn cơ, tùy phương tiện để giáo hóa chúng sinh qua 12 lời nguyện:

1. Đức Bồ Tát hiệu Viên Thông, tên là Tự Tại, Quán Âm Như Lai phát nguyện rộng lớn cứu độ chúng sinh.

2. Một lòng thanh tinh, không có sự chướng ngại, Bồ Tát thường du hoa nơi biển Nam Hải.

3. Bồ Tát hiện diện trong cõi ta bà này để nghe tiếng kêu cứucứu khổ.

4. Bồ Tát hàng phục các chướng ngạidiệt trừ các hiểm nạn.

5. Bồ Tát dùng nước tịnh bình và nhành dương liễu để tẩy sạch tâm được thanh tịnh.

6. Lòng Đại từ bi, hay hỷ xảthực hành hạnh bình đẳng với tất cả chúng sanh.

7. Ngày đêm thường hành sử hạnh độ sinh, không làm não hại, để cứu độ chúng sinh thoát khỏi ba đường dữ.

8. Một lòng nhất tâm trì niệm danh hiệu Bồ Tát, sẽ ứng hiệngiải thoát khổ nạn.

9. Bồ Tát dong thuyền Bát Nhã, trong cảnh đời sinh tử để độ tận chúng sanh.

10. Dùng tràng phan, bảo cái, để tiếp đưa người sau khi xả báo thân về thế giới tây phương cực lạc.

11. Cảnh giới của Đức Phật Vô Lượng Thọ, được Đức Phật A Di Đà thọ ký.

12. Hình thể đoan nghiêm, tướng hảothành tựu của 12 Đại Nguyện này. 

Từ hạnh nguyện độ sinh của Bồ Tát viết nên bài kệ:

Quan Âm Đại Sỹ

Phổ hiện Viên Thông

Thập nhị Đại nguyện thệ hoằng thâm

Khổ hải phiếm từ phong

Phổ tế tâm dung

Sát sát hiện vô cùng.

Đức Bồ Tát Quan Âm Đại Sỹ

Thường có danh hiệuViên Thông

12 Đại nguyện hoằng hóa độ sinh rộng lớn, sâu xa

Dong chiếc thuyền từ nơi biển đời sanh tử

Để phổ độ hết thảy chúng sinh

Bất cứ nơi nào cũng đều có hiện thân Bồ Tát. 

lòng từ vô lượng, để cứu khổ độ mê mà Bồ Tát Quán Thế Âm được mọi người tôn xưng là Mẹ hiền Quan Âm. Một hình ảnh thật thân thương, hiền hòa và gần gũi như đôi tay của Mẹ ấp ủ con thơ, như ánh mắt Mẹ trìu mến nhìn con trong lòng và ban bố lời ru ngọt ngào cho con ngủ.

Bồ Tát thương chúng sinh như Mẹ hiền thương con đỏ, qua hình ảnh bình nước cam lồ và nhành dương liễu, xóa đi những đau thương của biển đời sinh tử.

Để cứu vớt chúng sinh thoát khỏi con đường tối tăm, nơi chốn đau thương, Bồ Tát Địa Tạng đã phát lời thệ độ:

Chúng sinh vô tận

Phương chứng Bồ Đề

Địa ngục vi không

Thệ bất thành Phật

Nguyện độ hết thảy chúng sinh

Mới chứng đắc quả vị Bồ Đề

Khi nào địa ngục chưa hết tội nhân

Thì thệ nguyện chưa thành Phật 

Nói đến chúng sinh thì vô số lượng, đếm không cùng nghĩ không tận, mà hạnh nguyện của Bồ Tát là độ hết thảy chúng sinh. Với hạnh độ hết thảy chúng sinh đó, đến bao giờ Bồ Tát mới độ tận? Thật là vô cùng tận, vì ngày nào con chúng sinh, còn đau khổ, thì ngày đó, Bồ Tát còn cần hiện diện trong cuộc đời này.

Qua tinh thần Tứ Hoằng Thệ Nguyện, chúng ta thấy đó chính là tinh thần của Chư Bồ Tát:

“Chúng sinh vô biên...” 

Chúng sinh không số lượng

Thệ nguyện độ đều khắp

Phiền não không cùng tận

Thệ nguyện đều dứt sạch

Pháp môn không kể xiết

Thệ nguyện đều tu học

Phật đạo không gì hơn

Thệ nguyện được viên thành 

Đây là Tứ Hoằng Thệ Nguyện của một hành giả bước đi trên lộ trình giác ngộ, giải thoát. Bồ Tát tự giác ngộ cho mình, giác ngộ cho kẻ khác, và hai sự giác ngộ hoàn toàn viên mãn. Vì trong tự tánh của mỗi chúng sinh đã có tính giác ngộ. Bồ Tát biểu tượng tánh giác ngộ đó là Bồ Tát Đại Trí Văn Thù, biểu trưng cho căn bản trí hay Phật tánh. Bồ Tát Văn Thù ngồi trên Kim mao Sư Tử, có một trí tuệ siêu việt. Đồng thời bên cạnh có Bồ Tát Phổ Hiền ngồi trên con bạch tượng, biểu trưng cho hạnh nguyện độ sinh vô bờ bến. Hạnh Phổ Hiền là dấn thân vào đời để hóa độ, hình ảnh Sư tử Chúa và Tượng vương được diễn tả qua lời kệ:

Sư tử hống thời phương thảo lục

Tượng vương hồi xứ lạc hoa hồng 

Mỗi khi Sư tử hống thì mọi cỏ cây hoa lá đều xanh tươi nhuận sắc. Lúc Tượng vương quay đầu trở về chốn cũ thì hoa hồng nở rộ cung nghinh.

Hạnh nguyện Phổ Hiền được thể hiện qua mười Đại Nguyện:

1. Nhứt giả kính lễ chư Phật.

2. Nhị giả xưng tán Như Lai.

3. Tam giả quảng tu cúng dường.

4. Tứ giả sám hối nghiệp chướng.

5. Ngũ giả tùy hỷ công đức.

6. Lục giả thỉnh chuyển pháp luân.

7. Thất giả thỉnh Phật trụ thế.

8. Bát giả thường tùy Phật Học.

9. Cửu giả hằng thuận chúng sinh.

10. Thập giả phổ gia hồi hướng

Qua mười Đại Nguyện của Bồ Tát, Ngài đã đem thân mình, lễ kính tất cả chư Phật trong mười phương quốc độ. Trong sự lễ kính ấy, Bồ Tát đã tán thán công đức vô lượng của Đức Như Lai. Bồ Tát rộng tu pháp môn cúng dườngsám hối tất cả các nghiệp chướng, để rồi tùy hỷ các công đức và thỉnh đức Phật chuyển pháp luân, công như trụ thế. Bồ Tát thường theo học Phật đạohằng thuận chúng sinh. Cuối cùng xin hồi hướng tất cả cho pháp giới chúng chúng sinh.

Hạnh nguyện Bồ Tát là xả kỷ vị tha, lấy pháp giới chúng sinh làm nhà. Ngài A Nan, thị giả của Đức Phật đã phát nguyện:

Phụng thỉnh Thế Tôn vị chứng minh

Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập

Như nhứt chúng sinh vị thành Phật

Chung bất ư thử thủ vê hoàn. 

Con nay xin đảnh lễ phụng thỉnh Đức Thế Tôn chứng minh cho con, cõi đời phiền não năm trược này con nguyện vào trước, nếu như còn có một chúng sinh chưa hóa độ để thành quả vị Phật, thì con nguyện không nhập Niết Bàn.

Hạnh nguyện độ sinh của Bồ Tát:

Một hôm Bồ Tát Duy Ma Cật bị bệnh, Đức Phật sai Ngài A Nan và một vài vị Thánh chúng đến thăm, Ngài A Nan hỏi Bồ Tát Duy Ma Cật:

- Thưa Ngài Bồ Tát, Ngài bị bệnh như thế nào, hôm nay đã khỏe chưa? Ngài có dùng thực phẩm và thuốc uống gì chưa?

- Này A Nan ta nào có bệnh, vì chúng sinh bệnh nên ta bệnh. Bịnh cái bệnh của chúng sinh.

Tâm nguyện của Bồ Tát là khổ trước cái khổ của chúng sinh và vui sau cái vui của chúng sinh. Bồ Tát quên mình để làm lợi ích cho kẻ khác. Mục đích tối hậu của Bồ Tát là ban vui cứu khổ trong ý nghĩa Từ Bi:

Từ năng dữ lạc

Bi năng bạt khổ

Từ là cho niềm vui đến tất cả

Bi là cứu vớt nỗi đau thương

chí nguyện đem hạnh phúc đến cho mọi loài và giải trừ nỗi thống khổ đến tất cả, mà Bồ Tát có ở nơi khốn cùng, hoặc hoàn cảnh khó khăn nào cũng không lấy đó làm buồn khổ.

Một hôm Đức Phật sai Ngài Đề Bà Đạt Đa sống nơi cùng khổ, Ngài A Nan đến thăm và hỏi:

-Thưa Tôn Giả, Tôn Giả có bị đói khát khổ cực không?

Tôn Giả Đề Bà Đạt Đa trả lời:

-Ở đây ta vẫn thấy hỷ lạc như ở cõi Tam Thiền. Thật chẳng thể nghĩ bàn tâm niệmhạnh nguyện độ sinh của Chư vị Bồ Tát.

Vì không biết được hết các hoạt động của Chư vị Bồ Tát, nên Bồ Tát Di Lặc đã để lại bốn câu kệ như sau:

Di Lặc chơn Di Lặc

Phân thân thiên bách ức

Thời thời thị thời nhơn

Thời nhơn thường bất thức


Bồ Tát Di Lặc quả là Ngài

Phân thân thành trăm ngàn vạn ức

Những người sống cùng thời với Bồ Tát

Không biết là Bồ Tát thị hiện độ sinh

Chúng ta, thường được nghe kể về sự hóa độ của Bồ Tát Di Lặc với Thiện Tài Đồng Tử:

“Lúc bấy giờ Bồ Tát Di Lặc thâu nhiếp thân lực, bước vào lầu các, khảy móng tay rồi bảo Thiện Tài Đồng Tử :

- Này Thiện Nam tử, hãy đứng dậy, pháp tánh vốn như thế, do sự tích tụ và tập hợp của các nhân duyên nên hiện ra tướng như thế, tự tánh vốn như thế, không tự thành tựu, như mộng, như huyễn, như ảnh tượng.

Ngay khi ấy Thiện Tài Đồng Tử vừa nghe tiếng khảy móng tay, liền dậy khỏi tam muội. Đức Bồ Tát Di Lặc tiếp tục:

- Ông có thấy những thần thông biến hóa của Bồ Tát, những lưu xuất năng lực của Bồ Tát, sự quảng bá những nguyện và trí của Bồ Tát, vô số trang nghiêm cõi Phật, những thệ nguyện vô thượng của các Đức Như Lai, giải thoát bất khả tư nghì của Bồ Tát, ông có thấy và theo dõi thông suốt những điều đó chăng?

Thiện Tài Đồng Tử nói:

- Bạch Thánh giả, dạ có, ấy là do thần lực gia hộ của Thiện tri thức. Bạch Thánh giả, vậy môn giải thoát này gọi là gì?

Bồ Tát Di Lặc đáp:

- Môn giải thoát này tên là Trang Nghiêm Tạng, trong đó chứa đựng trí nhớ, không hề quên trí tuệ về hết thảy ba nghìn thế giới. Thiện Nam tử, trong môn giải thoát này lại có bất khỏa thuyết, bất khả thuyết môn giải thoát, chỉ có Bồ Tát nhất sinh mới có thể chứng đắc.

- Bạch Thánh giả, những sự trang nghiêm này sẽ đi về đâu?

Bồ Tát Di Lặc đáp:

- Đi về chỗ đến.

Thiện Tài lại hỏi:

- Từ đâu đến?

Bồ Tát Di Lặc:

- ừ thần lực trí tuệ của Bồ Tát mà đến; nương nhờ thần lực trí tuệ của Bồ Tát mà trụ. Không có chỗ đi, cũng không có chỗ trụ, không có tích lập, không có gia tăng, không có thường trụ, không có sở trước, không có sở y trên mặt đất hay giữa hư không.

- Này Thiện Nam tử, như Long vương làm mưa lũ: mưa không từ thân tuôn ra, mưa không từ tâm tuôn ra, không có sự tích tập nào trong đó, nhưng mưa tuôn ra từ niệm lực của long vương và mưa tuôn khắp cả thế gian. Điều đó không thể nghĩ bàn.

- Này Thiện Nam tử, những sự trang nghiêm mà ông đã thấy cũng vậy, không từ bên trong mà có, nhưng nó có trước mắt ông, có oai thần của Bồ Tát, vì thiện căn mà ông đã thành tựu.

- Này Thiện Nam tử, như nhà huyễn thuật làm trò huyễn hóa, chúng không từ đâu đến, không đi về đâu, nhưng hiển hiện trước mắt mọi người bởi vì ma lực của chú thuật.

- Cũng vậy, này Thiện Nam tử, những sự trang nghiêm ông đã thấy, chúng không từ đâu đến, không đi về đâu, không tụ tập nơi đâu; chúng hiển hiện là do Bồ Tát muôn tập học như trí huyễn bất khả tư nghì, và do đại oai lực của những nguyện và trí của Bồ Tát.

Thiện Tài:

- Bạch Thánh Giả, Ngài từ đâu đến?

Bồ Tát Di Lặc, liền nói:

- Bồ Tát không đến, không đi, như thế mà đến. Bồ Tát không bước, không dừng, như thế mà đến; không sống không chết, không ở không qua, không rời không dậy, không cầu không thủ, không nghiệp không báo, không sinh không diệt, không thường không đoạn, như thế mà đến.

- Này nữa, Thiện Nam tử, Bồ Tát đến như vậy, đến từ chỗ Đại Bi, vì mong điều phục hết thẩy chúng sinh khỏi những khổ não, đến từ chỗ tịnh giới, vì muốn thọ sinh vào những nơi tùy thích, đến từ chỗ Đại nguyện phải viên mãn, vì năng lực của những thệ nguyện xưa kia; đến từ chỗ thần thông, vì muốn hiện thân theo sở thích chúng sinh; đến từ chỗ không giao động, vì không hề lãng xa gót Phật; đến từ chỗ không thủ xả, vì đi hay đến không nhọc thân tâm; đến từ chỗ trí tuệ phương tiện vì để tùy thuận hết thảy chúng sinh; đến từ chỗ thị hiện biến hóa, vì tất cả hóa hiện đều như ảnh, như tượng.

Như thế đó, này Thiện Nam tử, nhưng ông hỏi ta từ đâu đến. Này Thiện Nam tử, ta đến từ sinh quán xứ Ma La Đề để giảng pháp cho thanh niên tên Cù Ba La và hết thảy mọi người nơi sinh quán của ta tùy theo căn cơ của họ, và cũng để đưa Cha Mẹ, thân quyến, Bà La Mônmọi người vào con đường giác ngộ, giải thoát.” 

Đó là con đường Bồ Tát đi và hạnh nguyện của Bồ Tát hành sử.

Cali, Mạnh Xuân Bính Tuất

Tháng 3 năm 2006

Nguyên Siêu

Source: http://www.quangduc.com/tacgia/thichnguyensieu.html

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21873)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 7991)
Thiều Chửu và Đoàn Trung Còn đều không giải thích được lý do tại sao chữ VẠN quay theo chiều này thì cát tường, quay theo chiều ngược lại thì nguy hại... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 7681)
Một trong những nền tảng quan trọng của đạo đức Phật giáotuân theo tinh thần bất bạo động... Tác giả: Charles K. Fink; Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 8802)
Đức Phật đã thuyết giảng như thế nào về sự đau đớn? Ngài bảo rằng sự bất an của chúng ta gồm có hai thể dạng khác nhau... Ajahn Brahmavamso, Hoang Phong dịch
(Xem: 7091)
Không là một khái niệm xuất hiện khá sớm trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, trải dài đến Phật giáo Đại thừa... Thích Nữ Nhuận Bình
(Xem: 9308)
Tác phẩm “Tuệ Sanh Định” là một trong số ít tác phẩm được viết bởi Bậc Thầy Maha Boowa (Bhikkhu Ñanasampanno)... Nhất Như dịch Việt
(Xem: 8749)
Nguyên tác tiếng Anh của Darwinism, Buddhism and Christanity được đăng trong tạp chí The Maha Bodhi, Sri Lanka, Tập 82 Dec 1974 Thích Nữ Liên Hòa dịch
(Xem: 10215)
Trong Kinh Duy-Ma-Cật, khi Phật bảo Ngài Duy-Ma-Cật thị hiện cõi nước Diệu-Hỷ có Vô-Động Như-Lai, các Bồ-Tát, và đại chúng nước ấy cho đại chúng xem... Toàn Không
(Xem: 8175)
Chân Nguyên kết luận: “Đức Phật Thích Ca đã tự chính mình đem thánh hiệu mà dạy cho hai người già, điều đó không còn có thể nghi ngờ gì nữa”... Thích Phước An
(Xem: 9516)
Một sự kết hợp thú vị giữa đạo đức chính trực, sự phục tùng, lòng khoan dung, cầu nguyện, khả năng tự lực, tự thanh lọc và tình yêu... Mai Thục
(Xem: 6924)
Mũi tên biểu trưng cho một sự đau đớn trên thân xác, nhưng cũng có thể là nguyên nhân gây ra một sự hoảng sợ trong tâm thần... Hoang Phong
(Xem: 7974)
Yết-ma, được phiên âm từ karmam[1] của tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự tác pháp”, được định nghĩa: “Vạn sự do tư thành biện cố”... Thích Minh Cảnh
(Xem: 8347)
Quảng bản kinh được Pháp Nguyệt dịch năm 732, rồi đến Bát NhãLợi Ngôn tái dịch năm 790. Cho đến Thi Hộ đời nhà Tống dịch lần chót là có tất cả 7 bản... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 8628)
Bồ tát hành đạo bắt đầu từ giữa lòng xã hội nên sự tiếp cận với mọi thống khổ nhân sinh là lẽ tất nhiên... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 8386)
Thiền sư Vĩnh Bình Đạo Nguyên, hoặc Đạo Nguyên Hy Huyền (1200-1253), là vị tổ sáng lập ra dòng Tào ĐộngNhật Bản... Ngọc Bảo dịch
(Xem: 8495)
Một cách vắn tắt, đó là vị trí của nữ giới trong Phật Giáo. Người phụ nữ xứng đáng có một chỗ đứng danh dự ngang hàng với nam giới... Piyadassi Mahathera; Dịch giả: Phạm Kim Khánh
(Xem: 11238)
Người vợ cần quán chiếu tâm mình thật cẩn thận trong một thời gian và từ đó đi đến quyết định đúng cho cuộc đời của mình... Mithra Wettimuny; Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
(Xem: 8542)
Đức Thế Tôn là người đầu tiên đòi quyền lợi cho giới nữ, đưa vị trí giới nữ ngang bằng nam giới... Thích Hạnh Bình
(Xem: 10674)
Hội Phật giáo Trung Quốc ước tính rằng hiện có khoảng 180,000 tăng niTrung Quốc... Nguyên tác: Tịnh Nhân; Thích Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 9437)
Ngài đã gọi dứt khoát, rõ ràng “tự phá thai mình” là một tội, phải chịu quả báo hết sức nặng nề và kéo dài... Chân Minh
(Xem: 9220)
Làm thế nào để những cha mẹ Phật tử có thể dạy tốt lời dạy của Phật giáo cho con em của họ?... Helmuth Kalr; Thích Minh Diệu
(Xem: 9539)
Rồi lần lượt không bao lâu, khi Ðức Phật đúng 80 tuổi đời, 45 tuổi đạo, Ngài cũng giã từ Tứ chúng để an hưởng quả vị Vô Dư Niết-bàn... Thích Thiện Minh
(Xem: 10309)
Con người không bao giờ ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên để mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình... Tuệ Sỹ
(Xem: 16172)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19146)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 8660)
Long Thọ (Nagarjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán mà ngài còn được coi là vị Phật thứ hai sau đức Thế Tôn trong lịch sử phát triển Phật giáo.... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 8014)
Như thế giải thoát cho vô số vô biên chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào được giải thoát... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 24121)
Cúng dườngbố thí vốn cùng một nghĩa "cho". Cái gì của mình mà có thể đem ra "cho" người khác, thì gọi là "cho"... TT Thích Nhất Chân
(Xem: 9371)
Lịch Sử Văn Học Phật Giáo Tiếng Sanskrit (Literary History of Sanskrit Buddhism - Nguyên tác: J. K. Nariman; Thích Nhuận Châu dịch Việt
(Xem: 7627)
Yết-ma là phiên âm từ karman của tiếng Phạn. Hán dịch là «biện sự tác pháp», và thường được các luật sư Trung quốc giải thích rằng «Vạn sự do tư thành biện cố.»... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 10518)
Chúng ta có thể thấy được đức tính của những khóm tre cây trúc, của những dòng sông, của cây mai, của đất, của áng mây... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17670)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 6929)
Giáo dục Phật giáo – nền giáo dục minh triết, vốn ở cao, ở trên triết học... Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Xem: 8856)
Đọc công trình của Francois Jullien những độc giả "Tây giả" (Á và Âu) có thể thấy được rằng người bà con nghèo của triết học có những sở đắc... Nguyên Ngọc dịch
(Xem: 12332)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 7692)
Chúng ta thường nghĩ là mình đã hiểu nhưng thật ra có lẽ ta chưa hiểu rõ thế nào là quy y Tam Bảo... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 14582)
Tăng đoànhình ảnh của Đức Phật, mang trọng trách thừa Như Lai sứ, hành Như Lai sự... Thích Phước Sơn
(Xem: 8239)
Ðại Tạng Kinh là một công trình tập thành tâm huyết của bao nhiêu thế hệ Tổ Sư, cổ đức Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Ly... Liên Hương kính ghi
(Xem: 7773)
Trong Phật giáo đại thừa nói rất rõ: Phiền não tức bồ đề, Niết bànsinh tử. Niết bànsinh tử là một cặp bài trùng, không có cái này thì không có cái kia...
(Xem: 8838)
Có thể nói “tâm” là cơ sở và động lực giải nghiệp, giải hạn khổ ách đối với con người trong mọi không giannăng lực chuyển nghiệp.
(Xem: 14786)
Tổ tiên ta đã Phật hóa gia đình, giáo dục con cháu phải biết chia sẻ hạnh phúc, ban rải tình thương đến mọi người, mọi loài... TT Thích Lệ Trang
(Xem: 9249)
"Khi cúng dường tứ sự đến cho một vị tỳ-khưu, hai vị tỳ-khưu, cận sự nam nữ đừng nghĩ đến cá nhân vị ấy mà cứ khởi tâm cúng dường Tăng..." Tâm Tịnh
(Xem: 12309)
Từ Trạch Pháp này rất quen thuộc trong Phật Giáo, nhưng đã có mấy người Phật tử chịu tìm hiểu tận tường... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 8489)
Theo Phật giáo, con người sinh ra từ vô thủy (thỉ) đến giờ đã trải qua vô lượng đời, và sẽ còn tiếp nối vô số đời nữa ở tương lai cho đến vô chung... Toàn Không
(Xem: 14486)
Hoa dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền-Trang; Việt dịch: HT Thích Trí-Quang; Anh dịch: Buddhist Text Translation Society
(Xem: 12450)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 8386)
Chúng tôi xin bàn về một số điểm liên hệ, nhất là làm rõ về niên đại Hán dịch của tác phẩm, từ đó chúng tôi xin ghi nhận một số từ ngữ, thuật ngữ Phật học đã được Hán dịch vào thời ấy... Đào Nguyên
(Xem: 10123)
Dù tâm mộ đạo, nhưng Phật tử còn theo nghi lễ xa xưa và kinh điển cổ ngữ, nên việc tu tập không còn phù hợp với nhu cầu của thời đại mới... Johan Galtung, Đỗ Kim Thêm
(Xem: 7739)
Trong việc quảng bá sự hiểu biết, vai trò của người Thầy thật hết sức cần thiết, thế nhưng người Thầy thì cũng phải có đầy đủ khả năng... Hoang Phong
(Xem: 16007)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý. ... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8195)
Nói đến văn hóa tức là nói đến tổ chức đời sống của một dân tộc, trong đó bao gồm các mặt kinh tế, xã hội, luật lệ, văn chương, mỹ thuật, tôn giáo, v.v... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8257)
Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt... Lâm Như Tạng
(Xem: 7850)
Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 11157)
“Bản Giác : Tâm thể của chúng sinh tự tánh thanh tịnh, lìa mọi vọng tưởng, sáng tỏ vằng vặc, có đức giác tri. Đó chẳng phải do tu thành mà như thế, mà chính là tính đức tự nhiên bản hửu, nên gọi là Bản Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 9121)
Thượng tọa Thích Thuyền Ấn trình bày tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào ngày 9-4-1967. Sau đó, bài diễn thuyết này được in trong tập Diễn Đàn Vạn Hạnh, số 1, do Ban Tu thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành năm 1967.
(Xem: 9258)
Bản Chất Của Tâm Thức - Tác giả: His Holiness the Fourteenth Dalai Lama, Anh dịch: Alexander Berzin, Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 8387)
Niết bàn, nirvana (S), nibbana (P), trong Sanskrit và Pali có nghĩa bóng là, một "thể trạng dập tắt". Hình ảnh của một ngọn lửa đã bị dập tắt qua việc không còn nhiên liệu nữa... Tác giả Alexander Berzin; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 7542)
Long Thọ nói, giáo pháp của Chư Phật y trên hai chân lý, tương đối hay thế tục đế, và tuyệt đối hay thắng nghĩa đế. Những ai không phân biệt được hai chân lý này, không thể hiểu thấu giáo pháp thâm sâu... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 7982)
Kinh Hoa nghiêm, nói một cách đơn giản, là bộ kinh nghiên cứu về Pháp giới và cách phát khởi trí tuệ để thể nhập Pháp giới. Trong Pháp giớilý sự vô ngạisự sự vô ngại... Hồng Dương
(Xem: 8788)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant