Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa Bố ThíCúng Dường

03 Tháng Ba 201400:00(Xem: 24123)
Ý Nghĩa Bố Thí và Cúng Dường


Ý Nghĩa Bố ThíCúng Dường

Thượng Tọa Thích Nhất Chân

---o0o---

 

cung_duong_va_bo_thiCúng dườngbố thí vốn cùng một nghĩa "cho". Cái gì của mình mà có thể đem ra "cho" người khác, thì gọi là "cho".

Cũng cùng một nghĩa, song tùy theo trường hợp hay hoàn cảnh mà nghĩa "cho" này có những tên gọi khác nhau. Thông thường thì chỉ gọi là "cho", trường hợp khác thì gọi là "tặng", đôi khi gọi là "biếu". Riêng danh từ "bố thí" được dùng để chỉ trường hợp "cho" những người bần cùng nghèo khổ, ăn xin ăn mày. Và trường hợp khi một người Phật tử đem những gì của mình ra "cho" Tam Bảo, vốn là nơi nương tựa của mình, thì gọi là "cúng dường".

Thế gian thường nhìn nghĩa "cho" này theo chiều hướng "kẻ cả", nghĩa là người cho bao giờ cũng ở bên trên người nhận. Người cho là người ban ân, người nhận là người thọ ân. Do đó mà người cho luôn luôn có uy thế đối với người nhận. Ðây đúng là trường hợp của "cho" và "bố thí". Song trong các trường hợp ngược lại, người cho ở vị thế thấp hơn người nhận, thì thông thường gọi là "biếu". Nếu vị thế người cho càng thấp hơn nữa so với người nhận, và người nhận lại hoàn toàn có uy thế đối với người cho, thì lúc ấy "cho" được gọi là "dâng lên". Còn nghĩa "tặng" là "cho" giữa những người ngang hàng với nhau, "cho" để kết tình thân hay cốt để gây một ấn tượng tình cảm tốt đẹp mà thôi, thì gọi là "tặng".

Trong thế gian không có nghĩa "cúng dường", song có nghĩa "bố thí". Tuy nhiên nghĩa "bố thí" trong Ðạo không giống với nghĩa "bố thí" của thế gian.

Ðạo pháp nhìn "bố thí" không theo chiều hướng "kẻ cả" hay "ra ân" mà theo một chiều hướng tâm linh rất thâm sâu, bao gồm nhiều ý nghĩa của Ðạo. Chúng ta hãy khảo sát một cách tổng quát về nghĩa Ðạo của bố thí như sau :

Bố thí gồm có ba thành phần chính : một là người cho, hai là vật để cho và ba là người nhận. Thiếu một trong ba thành phần này thì pháp bố thí sẽ không thành lập được. Trong ấy, vật để cho là mối liên kết giữa người cho và kẻ nhận. Vật này trước tiên hết phải thuộc về người cho sở hữu, nghĩa là nó là vật của người cho. Cho một vật không phải của mình thời không thành nghĩa bố thí được. Sau khi cho, vật ấy trở thành vật của người nhận, và người cho không còn quyền hạn gì đối với vật ấy nữa.

Cho như thế có nghĩa là "xả bỏ" các sở hữu của mình, xả bỏ những gì mà mình có. Tại sao lại phải xả bỏ các sở hữu của mình ?

Con đường giải thoát trong Ðạo Phật cho thấy rằng sự hiện hữu của mỗi hữu tình chúng ta là một sự ràng buộc trói chặt chằng chịt vào nhau. Cái tâm thức mà là chúng ta một khi đã trói dính vào thân này, thời phải trói dính vào quần áo, nhà cửa, đồ ăn thức uống v.v... để nuôi dưỡngduy trì thân này. Một khi tâm thức ấy đã trói chặt vào thân ấy cho đó là Tôi, thì nó sẽ trói chặt luôn vào vợ tôi, con tôi, nhà cửa gia sản của tôi, bạn bè thân quyến của tôi... Khi Ðạo pháp nói rằng chúng ta bị trói dính vào luân hồi biến chuyển đau khổ, chúng ta không được giải thoát, tức có nghĩa là chúng ta, hay đúng hơn cái tâm thức mà là chúng ta, bị trói chặt vào thân này và các sở hữu khác của nó. Thế nên giải thoát có nghĩa là cởi tâm thức ra khỏi các trói chặt của thân và các sở hữu. Tâm thức tự trói mình vào các thứ ấy bằng tâm ái luyến, nên chính tâm thức cũng phải tự cởi mình ra bằng tâm thoát ly hay tâm xả bỏ các pháp sở hữu ấy.

Con đường giải thoát khuyến khích mạnh mẽ tâm thoát ly cho đến mức viên mãn thoát ly thì thành ra là giải thoát Niết Bàn.

Tâm xả bỏ có một chiều hướng khác và bao gồm nhiều ý nghĩa thâm sâu hơn là tâm thoát ly. Ý nghĩa thoát ly, theo con đường Giải thoát chỉ là xả bỏ tâm ái luyến đối với các vật sở hữu, đồng thời phát khởi một tâm đối trị tâm ái luyến này, tức tâm chán ghét lìa xa. Do đó nên tâm thoát ly phải đón nhận và thâm nhập sâu xa vào ý nghĩa vô thường, khổ, vô ngã của thân mình và các pháp sở hữu. Trong khi tâm xả bỏ ở đây không phải chỉ thuần túy là lìa xa ở bên trong đối với các pháp sở hữu, mà chính yếu lại là tâm "chiếu cố" đến người khác, đến sự cầu mong của người khác nên xả bỏ sở hữu của mình để ban cho họ được thỏa mãn lòng mong cầu.

Như vậy, trong khi tâm thoát ly chỉ nhìn vào tính chất vô thường khổ của các vật sở hữu để tự mình phát khởi sự chán ghét mà lìa xa các pháp ấy đi, để rồi chính nơi mình tự thành tựu được sự thoát ly vĩnh viễn cứu cánh gọi là Niết Bàn, thì tâm xả bỏ lại nhìn vào sự khao khát mong cầu của các người khác, để phát khởi lên một tính chất thương xót ngay nơi chính mình, để rồi mạnh mẽ "nhường lại" hay xả bỏ các vật sở hữu của mình để đưa ra cho họ. Tâm thoát ly để mặc sự vật ở yên đó với tính chất vô thường biến hóa của nó, trong khi tâm xả bỏ ở đây sử dụng sự vật như một phương tiện để thỏa mãn người khác.

Như thế tâm xả bỏ ở đây không hề có nghĩa là do vì chán ghét không thích nên mới xả bỏ, mà xả bỏ là vì quan tâm chiếu cố đến sự đòi hỏi của người khác, đáp ứng theo sự cầu xin của họ, mà xả bỏ ra cho họ. Xả bỏ ở đây cũng không phải là để thoát ly các đối tượng bị trói buộcchính yếu là để thoát ly chính tâm tham ái trói buộc nhằm tự chứng lấy cứu cánh giải thoát ; mà xả bỏ ở đây là để xoa dịu các khao khát của người khác và chính yếu là để thành lập tâm Ðại bi nhiếp hộ người khác nhằm đưa họ đến chỗ giải thoát cứu cánh vĩnh viễn thỏa mãn.

Xả bỏ theo nghĩa ấy mới được gọi là "bố thí". Bố thí ở đây do đó không hề có nghĩa bố thí của thế gian, như một "kẻ cả" ở bên trên, ra ân thí cho các kẻ nghèo cùng khốn khổ ở bên dưới. Chính yếu, Bố thí ở đây có nghĩa là đáp ứng lại vô điều kiện và không lưỡng lự đối với sự cầu xin của bất cứ ai, trên mình hay dưới mình, khổ hơn mình hay sướng hơn mình, cho đến bất kể là loài hữu tình nào đi nữa. Hễ có xin là có cho, và đã xin gì là cho nấy, dù là gia sản, vợ con, cho đến chính thân thể mình. Tại sao lại phải cho một cách "quá đáng" như vậy ?

Bởi vì Bố thí ở đây thuộc về con đường thành Phật, một hành giả đi theo con đường thành Phật này bị đòi hỏi cần phải có một bản thể hay một tư cách Bố thí như thế. Bố thí là nền tảng hay cơ sở cho con đường thành Phật vậy. Do bởi Bố thí bao hàm các tính chất chính yếu của một vị Phật như sau :

1- Bố thí buông xả tất cả các pháp sở hữu cho đến buông xả luôn cả chính chủ thể sở hữu. Ðây chính là tính chất trí huệ vô ngã vô ngã sở.

2- Bố thí buông xả không phải do ghét bỏ muốn lìa xa các pháp sở hữu, mà bố thí buông xả để biến mọi pháp sở hữu chuyển thành phương tiện để nhiếp hộ chúng sinh. Ðây là tính chất phương tiện thiện xảo.

3- Bố thí buông xả không phải để cho chính tự mình được hưởng sự giải thoát, mà Bố thí buông xả là để cho mọi người khác được toại nguyệnan lạc. Ðây là tính chất từ bi lợi tha.

Chưa hết, Bố thí như thế là một sự thực hành thiết thực cụ thể, nhằm siêu việt ranh giới ta người, để phát hiện rathâm nhập vào lãnh vực vô phân biệt, bình đẳng, nhất như, vốn là cảnh giới chân thật nhất, là bản thể tột cùng của tất cả các pháp.

Trong khi một hành giả giải thoát lìa bỏ tất cả mọi thứ của thế gian này, lẻ loi một mình trong rừng sâu, dồn hết bao nhiêu năng lực để cắt đứt mình đi khỏi mọi trói buộc với thế gian, mong tự mình thành tựu lấy cảnh giới chân thật vô phân biệt này, gọi là giải thoát hay Niết Bàn, thì một hành giả thành Phật ôm trọn mọi pháp của thế gian, sống giữa muôn loài chúng sinh, thực hành pháp Bố thí, để cụ thể thiết thực hòa mình vào với thế gian hữu tình cũng như vô tình, để chứng thực ra giữa thế gian với vô vàn liên hệ chằng chịt này một cảnh giới "bất nhị" bình đẳng vô phân biệt. Chân lý ngay tại đây, ngay nơi thân mình, ngay nơi vật để cho, ngay nơi người nhận, chứ không phải chỉ nằm trong rừng sâu hay trong cô đơn tĩnh lặng.

Do đó, nếu đã sống giữa thế gian này, giữa muôn loài, mà không cho ra, không Bố thí, thời thế gian này sẽ không bao giờ được chuyển hóa. Mà đã cho, thời phải cho tất cả những gì là mình và của mình, thời ranh giới phân hai giữa ta và người mới bị tan biến và toàn thể thế gian mới bộc lộ ra được toàn thân chân thật của nó. Lúc ấy sự thực hành Bố thí sẽ chuyển hóa toàn thể thế gian này sang một lãnh vực không còn phân biệt là có ta cho, có người nhận, có vật để cho, cả ba đều không còn hiệu hữu nữa, bởi đối cực chủ thể khách thể ta và người không còn phân hai nữa. Sự liên hệ giữa ta một bên, thế giới và người khác một bên, do sự thực hành Bố thí này mà đều được thể nhập vào cảnh giới bình đẳng nhất như, tất cả đều thoát hết ra khỏi lãnh vực duyên khởi tương đối ràng buộc chằng chịt, hoàn toàn viên mãn đến "bờ bên kia", bờ hợp nhất giải thoát. Thế nên Bố thí đến đây được gọi là Bố Thí Ba La Mật Ða (tức "bố thí đến bờ bên kia").

Bố thí như thế không dễ gì thực hiện. Thế nên một hành giả muốn thực hành Bố Thí Ba La Mật Ða cần phải có một tiến trình tuần tự tu tập Bố thí từ từ : trước tiên hết, người thực hành Bố thí bắt buộc phải khởi tâm nguyện dứt khoát đi theo con đường thành Phật để cứu độ chúng sinh. Tâm nguyện dứt khoát này thường gọi là Bồ Ðề tâm. Sau đó người ấy phải tạo tất cả công đức của thế gian như Bố thí cho người nghèo khổ, làm tất cả mọi điều tốt hữu ích cho mọi người, thực hành trì giới nhằm bảo vệ cho chúng sinh được an ổn và không còn sợ hãi. Các công đức này thật sự cần thiết chứ không phải chỉ là phước đức hữu lậu hưởng thụ thuộc ngũ dục như chúng ta thường lầm tưởng. Do nhờ có công đức này thì người thực hành mới có phương tiện để xả bỏ ban cho chúng sinh mà hành Bố Thí Ba La Mật Ða.

Song để cho tâm nguyện Bồ Ðề được dứt khoátkiên cố, cũng như để cho khi thực hành các công đức thế gian, người thực hành không đi lạc ra khỏi con đường thành Phật, thời bắt buộc người ấy phải thực hành cho vẹn toàn một công đức nền tảng nhất, đó là công đức "cúng dường".

Cúng dường giản dị có nghĩa là "bố thí" cho Tam Bảo. Khi một hành giả thực hành Bố Thí Ba La Mật Ða thời đối tượng để Bố thí phải là tất cả mọi loài chúng sinh và phải là tất cả mọi cấp bậc hữu tình từ địa ngục lên cho đến Phật. Khi Bố thí cho các loài hữu tình khác ngoài Phật, các bậc thánh Nhị thừa hay các đại Bồ Tát, thì Bố thí ấy thuộc về tính chất Ðại Bi. Song khi Bố thí cho Phật, các Thánh và đại Bồ Tát, thì Bố thí này thuộc về tính chất Trí Huệ. Do đó mục tiêu của Cúng dường chính là để thành tựu Trí Huệ vậy.

Chúng ta đã biết, Bố thítác dụng chính yếu là để hợp nhất hay để xóa tan ranh giới phân hai giữa chủ thể và khách thể, qua động cơ "tình cảm" là thương xótquan tâm hoàn toàn vào tha nhân (tức Ðại bi tâm), với phương tiện là đưa ra cho hết toàn thể mọi sở hữu của mình, khi ấy tâm thức của hành giả được đặt để vào trong một trạng thái không còn phân biệt ta người nữa. Và đó chính là trạng thái chân thật nhất, nguyên thủy nhất, và cứu cánh nhất của tâm thức hữu tình. Trạng thái này là cảnh giới chân lýmọi người tu hành mong đạt đến.

Cúng dường cũng thế, cũng có tác dụng hợp nhất chủ thể và khách thể, đồng thời cũng nhằm đạt đến trạng thái cứu cánh như nhất vô phân biệt của Tâm thức. Song vì đối tượng của Cúng dườngTam Bảo, thế nên sự thực hành Cúng dường có khác ít nhiều với sự thực hành Bố thí.

Sự thực hành Cúng dường vẫn được khởi động từ một động cơ tình cảm. Song tình cảm ở đây không phải là tâm thương xót mà là tâm cung kính. Cung kính đây không phải là một cung kính sợ hãi lòn cúi, một thứ cung kính không dám đến gần, mà nếu phải đến gần thì khớp sợ và mất tự chủ. Cung kính ở đây trái lại là một tâm "khao khát hâm mộ" mong được gần gũi, như kẻ ái mộ mong được gần gũi người mình thần tượng. Gần gũi không phải để sở hữu lấy đối tượng cung kính, mà để chính đối tượng cung kính ấy sở hữu lấy mình. Cung kính như thế bao gồm các tính chất khao khát gần gũi để mà phụng sự, nghe theo và vâng lời.

Khi Bố thíhành giả chìu theo sự đòi hỏi mong cầu của chúng sinh, nhằm làm cho chúng sinh được thoả nguyện mà nhiếp độ họ. Khi Cúng dườnghành giả tuân phụng theo "chỉ thị" của Tam Bảo, nhằm chuyển mình theo chân lý để được thoả nguyện giác ngộ mà độ chính mình. Tự độ và độ tha hoặc tự giácgiác tha chính là kết quả tối hậu của hai pháp môn Cúng dườngBố thí này.

Cũng như Bố thí, các pháp sở hữu của hành giảphương tiện chính yếu để thực hành Cúng dường. Xả bỏ tất cả những gì mình có, cho đến xả chính thân mình mà cúng dường, là nhằm dứt khoát hòa hợp làm một với Tam Bảo. Cúng dường đến mức tuyệt đối vẹn toàn như thế, thời tâm thức của hành giả sẽ được đặt để vào một trạng thái không còn phân hai nữa giữa mình là người thực hành và Phật là kết quả để thành. Do mình cũng không còn có, Phật, Pháp, Tăng cũng không còn có, thế nên tâm thức của hành giả thật sự đạt đến trạng thái Bát Nhã Ba La Mật Ða, một trạng thái siêu việt lên bờ bên kia, bờ hợp nhất, tránh xa hai cực đối đãi giữa chủ thể tìm chân lý và chính chân lý là khách thể được tìm.

Cúng dường đến mức viên mãn như thế cũng không dễ gì mà thực hiện. Song hành giả không hề bị ép buộc làm quá khả năng mình bao giờ. Ðiều cần thiết nhất là động cơ thúc đẩy hành giả Cúng dường phải là động cơ chân chính, tức tâm thức cần cầu trí huệ giác ngộ, thành tựu Phật quả, để độ chúng sinh. Ðó chính là Bồ Ðề tâm. Kế đến hành giả cần phảibàn thờ với hình tượng Phật để mà cúng dường. Phẩm vật Cúng dường là tất cả các pháp như mầu sắc : ánh sáng, đèn, hoa, quả, âm thanh : thỉnh chuông, xướng lên tán thán hay ngay cả âm nhạc như cõi trời thường cúng dường Phật như vậy, hương : hương đủ loại, ngay cả hương của hoa quả nữa, vị : trái cây, đồ ăn thức uống, cảm xúc : như mát, ấm, quần áo, sự tô điểm đẹp đẽ trang nghiêm của bàn thờ, cho đến giữ gìn bàn thờ cho sạch sẽ thanh khiết, tô điểm bàn thờ cho thật trang nghiêm, chiêm ngưỡng bàn thờ cho thật thiết tha, đảnh lễ bàn thờ cho thật chân thành. Tất cả mọi hành vi của hành giả đối với bàn thờ Phật, nhất cử nhất động, cùng với tất cả các pháp xung quanh, đều được nhiếp vào tâm niệm cung kính cúng dường.

Tâm thức Cúng dường phải hết sức bén nhậy, ngay khi thiết lập bàn thờ, đó chính là đang Cúng dường rồi, cho đến quét lau bàn thờ, đều là các thực hành cúng dường. Do đó, để ra một phòng làm phòng thờ cũng là Cúng dường phòng, nên quét lau phòng thờ cũng là thực hành cúng dường, cho đến bước chân ra chợ mua hương hoa để cúng dường, thì bước chân đi ấy cũng là thực hành Cúng dường vậy.

Dần dà người thực hành Cúng dường sẽ cảm nhận ra rằng cả một phần đời sống của mình là đời sống cúng dường. Nếu người ấy phát triển sự Cúng dường rộng rãi hơn nữa, như công quả ủng hộ chùa chiền, in kinh ấn tống, Cúng dường gần gũi phụng sự chư Tăng, thì người ấy sẽ cảm thấy rõ ràng là cả một nửa cuộc đời mình là cuộc đời cúng dường. Và nếu nửa đời kia liên hệ với xã hội là để thực hành Bố thí thì người ấy sẽ hoàn toàn thấy rõ trọn cuộc sống mình là cuộc sống Bố thícúng dường. Từ BiTrí Huệtrọn vẹn cuộc sống của mình và được thực hành ngay trong đời sống của mình với phương tiện là chính thân mình và các vật sở hữu của mình đang được sử dụng để nối kết mình vào làm một với chúng sinhTam Bảo, để chuyển hóa toàn thể cuộc sống của mình trở thành một hiện thân của chân lý bất nhị siêu việt tối thượng.

Ðể đạt đến mục tiêu ấy, tâm thức Cúng dường không chỉ càng ngày càng bén nhậy, mà càng ngày càng phải rộng mở ra hơn nữa. Hành giả từ tâm thức tạo dựng chùa chiền để cúng dường, in kinh để cúng dường, tiến thêm nữa sẽ thành tâm nguyện xây dựng chùa tháp, trùng tu già lam khắp nơi... cho đến thành đại nguyện của Bồ Tátxây dựng chùa tháp khắp cõi Diêm phù, hoằng dương chính pháp khắp nơi khắp xứ... cho đến cuối cùng thành lập Tịnh Ðộ đầy đủ trang nghiêm để lợi độ chúng sinh viên mãn bất tận...

Ðể cho tâm thức hành giả được thiết thực mở toát ra hết đối với Tam Bảo như vậy, nơi tâm niệm cung kính Cúng dường bao giờ cũng kèm theo tâm nguyện khát khao gặp Phật, khát khao sinh về cõi Phật, khát khao cúng dường vô lượng tất cả chư Phật, khát khao gần gũi phụng sự vô biên tất cả chư Phật. Tâm khát khao gặp Phật này phải cấp thiết chân thành, như con thơ đi lạc mong gặp mẹ, phải chuyên nhất một mối như người gặp nạn hiểm chết đến nơi chỉ một lòng cầu thần lực cứu thoát, phải tràn ngập hân hoan như kẻ đi tìm châu báu đang tiến đến trước cửa kho tàng.

Với tâm niệm cúng dường như thế, dần dà mọi tâm nguyện hoằng pháp lợi sinh sẽ đều hội tụ về một mối và phát sinh tăng trưởng mạnh mẽ. Ðiều thiết yếu là tất cả mọi tâm nguyện này khởi động đều thuộc về bản chất cúng dường, tức đều hướng về một mối là chuyển hết các công đức ấy về kết quả cuối cùngthành Phật, chính là khi hành giả và Phật không còn phân hai nữa. Cúng dường trong giai đoạn này còn gọi là "hồi hướng về vô thượng Bồ Ðề".

Tóm lại, Bố thícúng dường đều là các pháp môn được thực hành ngay trong lòng chúng sinh, ở giữa trần gian này, bằng chính tình cảm của chúng sinh, bằng tâm phân biệt ta người của hữu tình, song mục tiêu vẫn là để đưa đến chỗ chân lý cứu cánh cũng như thành Phậtgiải thoát.

Ðiều quan trọng sau cùng mà chúng ta cần lưu ý là : chân lý thật sự giản dị chỉ là bàn thể thường hằng xưa nay của tâm thức chúng sinh, nên bản thể này có thể được nhìn ra và thật chứng bởi rất nhiều cách thức ngoài đạo Phật cũng như trong đạo Phật, khác với Bố thíCúng dường (nếu nói rộng thì gồm đủ cả sáu Ba La Mật Ða). Nhưng các cách thức khác ngoài đạo Phật sẽ không hề đưa lại được sự giải thoát chân thật chứ đừng nói là thành Phật. Còn các cách thức khác ở trong đạo Phật là thuộc về các pháp môn tự lợi của nhị thừa, thời có thể đưa tới một giải thoát chân thật, song lại không thể thành Phật được. Do đó, chỉ có các pháp môn Bố thíCúng dường thuộc sáu Ba La Mật Ða này mới là con đường đưa đến kết quả thành Phật. Thế nên, các vị Bồ Tát sẽ thường xuyên thực hành Bố thícúng dường (cũng như cả sáu Ba La Mật Ða), trải qua rất nhiều kiếp mà không chịu chứng Thật Tế (tức chân lý) và giải thoát Niết Bàn, cho đến bao giờ thực hành viên mãn hết Bố thíCúng dường, và gồm cả các Ba La Mật Ða khác, thời bấy giờ Bồ Tát mới chịu chứng Thật Tế và Niết Bàn. Khi ấy Bồ Tát được gọi là Phật hay Chính Ðẳng Chính Giác. Nói cách khác là phải bao giờ thành tựu đầy đủ viên mãn các công đức của một vị Phật (tức sáu Ba La Mật Ða), lúc ấy một Bồ Tát mới chịu chứng đạo và chứng giải thoát Niết Bàn. Thế nên sự tu hành theo con đường đại thừa Bồ Tát Ðạo là một tiến trình lâu dài trong rất nhiều kiếp và giữa lòng thế gian này, chứ không phải chỉ là một kỷ luật tu tập ngắn hạn nào đó trong vòng một đời sống này để đưa đến cứu cánh giác ngộ và giải thoát. Ðó là điều một hành giả thực hành Bố thícúng dường cần phải ý thức và ghi nhớ vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21878)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 7993)
Thiều Chửu và Đoàn Trung Còn đều không giải thích được lý do tại sao chữ VẠN quay theo chiều này thì cát tường, quay theo chiều ngược lại thì nguy hại... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 7682)
Một trong những nền tảng quan trọng của đạo đức Phật giáotuân theo tinh thần bất bạo động... Tác giả: Charles K. Fink; Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 8803)
Đức Phật đã thuyết giảng như thế nào về sự đau đớn? Ngài bảo rằng sự bất an của chúng ta gồm có hai thể dạng khác nhau... Ajahn Brahmavamso, Hoang Phong dịch
(Xem: 7092)
Không là một khái niệm xuất hiện khá sớm trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, trải dài đến Phật giáo Đại thừa... Thích Nữ Nhuận Bình
(Xem: 9310)
Tác phẩm “Tuệ Sanh Định” là một trong số ít tác phẩm được viết bởi Bậc Thầy Maha Boowa (Bhikkhu Ñanasampanno)... Nhất Như dịch Việt
(Xem: 8750)
Nguyên tác tiếng Anh của Darwinism, Buddhism and Christanity được đăng trong tạp chí The Maha Bodhi, Sri Lanka, Tập 82 Dec 1974 Thích Nữ Liên Hòa dịch
(Xem: 10216)
Trong Kinh Duy-Ma-Cật, khi Phật bảo Ngài Duy-Ma-Cật thị hiện cõi nước Diệu-Hỷ có Vô-Động Như-Lai, các Bồ-Tát, và đại chúng nước ấy cho đại chúng xem... Toàn Không
(Xem: 8178)
Chân Nguyên kết luận: “Đức Phật Thích Ca đã tự chính mình đem thánh hiệu mà dạy cho hai người già, điều đó không còn có thể nghi ngờ gì nữa”... Thích Phước An
(Xem: 9516)
Một sự kết hợp thú vị giữa đạo đức chính trực, sự phục tùng, lòng khoan dung, cầu nguyện, khả năng tự lực, tự thanh lọc và tình yêu... Mai Thục
(Xem: 6926)
Mũi tên biểu trưng cho một sự đau đớn trên thân xác, nhưng cũng có thể là nguyên nhân gây ra một sự hoảng sợ trong tâm thần... Hoang Phong
(Xem: 7976)
Yết-ma, được phiên âm từ karmam[1] của tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự tác pháp”, được định nghĩa: “Vạn sự do tư thành biện cố”... Thích Minh Cảnh
(Xem: 8348)
Quảng bản kinh được Pháp Nguyệt dịch năm 732, rồi đến Bát NhãLợi Ngôn tái dịch năm 790. Cho đến Thi Hộ đời nhà Tống dịch lần chót là có tất cả 7 bản... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 8629)
Bồ tát hành đạo bắt đầu từ giữa lòng xã hội nên sự tiếp cận với mọi thống khổ nhân sinh là lẽ tất nhiên... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 8387)
Thiền sư Vĩnh Bình Đạo Nguyên, hoặc Đạo Nguyên Hy Huyền (1200-1253), là vị tổ sáng lập ra dòng Tào ĐộngNhật Bản... Ngọc Bảo dịch
(Xem: 8495)
Một cách vắn tắt, đó là vị trí của nữ giới trong Phật Giáo. Người phụ nữ xứng đáng có một chỗ đứng danh dự ngang hàng với nam giới... Piyadassi Mahathera; Dịch giả: Phạm Kim Khánh
(Xem: 11238)
Người vợ cần quán chiếu tâm mình thật cẩn thận trong một thời gian và từ đó đi đến quyết định đúng cho cuộc đời của mình... Mithra Wettimuny; Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
(Xem: 8547)
Đức Thế Tôn là người đầu tiên đòi quyền lợi cho giới nữ, đưa vị trí giới nữ ngang bằng nam giới... Thích Hạnh Bình
(Xem: 10676)
Hội Phật giáo Trung Quốc ước tính rằng hiện có khoảng 180,000 tăng niTrung Quốc... Nguyên tác: Tịnh Nhân; Thích Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 9438)
Ngài đã gọi dứt khoát, rõ ràng “tự phá thai mình” là một tội, phải chịu quả báo hết sức nặng nề và kéo dài... Chân Minh
(Xem: 9221)
Làm thế nào để những cha mẹ Phật tử có thể dạy tốt lời dạy của Phật giáo cho con em của họ?... Helmuth Kalr; Thích Minh Diệu
(Xem: 9541)
Rồi lần lượt không bao lâu, khi Ðức Phật đúng 80 tuổi đời, 45 tuổi đạo, Ngài cũng giã từ Tứ chúng để an hưởng quả vị Vô Dư Niết-bàn... Thích Thiện Minh
(Xem: 10311)
Con người không bao giờ ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên để mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình... Tuệ Sỹ
(Xem: 16174)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19147)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 8661)
Long Thọ (Nagarjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán mà ngài còn được coi là vị Phật thứ hai sau đức Thế Tôn trong lịch sử phát triển Phật giáo.... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 8015)
Như thế giải thoát cho vô số vô biên chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào được giải thoát... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 9374)
Lịch Sử Văn Học Phật Giáo Tiếng Sanskrit (Literary History of Sanskrit Buddhism - Nguyên tác: J. K. Nariman; Thích Nhuận Châu dịch Việt
(Xem: 7630)
Yết-ma là phiên âm từ karman của tiếng Phạn. Hán dịch là «biện sự tác pháp», và thường được các luật sư Trung quốc giải thích rằng «Vạn sự do tư thành biện cố.»... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 10520)
Chúng ta có thể thấy được đức tính của những khóm tre cây trúc, của những dòng sông, của cây mai, của đất, của áng mây... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17670)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 6930)
Giáo dục Phật giáo – nền giáo dục minh triết, vốn ở cao, ở trên triết học... Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Xem: 8857)
Đọc công trình của Francois Jullien những độc giả "Tây giả" (Á và Âu) có thể thấy được rằng người bà con nghèo của triết học có những sở đắc... Nguyên Ngọc dịch
(Xem: 12339)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 7693)
Chúng ta thường nghĩ là mình đã hiểu nhưng thật ra có lẽ ta chưa hiểu rõ thế nào là quy y Tam Bảo... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 14584)
Tăng đoànhình ảnh của Đức Phật, mang trọng trách thừa Như Lai sứ, hành Như Lai sự... Thích Phước Sơn
(Xem: 8240)
Ðại Tạng Kinh là một công trình tập thành tâm huyết của bao nhiêu thế hệ Tổ Sư, cổ đức Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Ly... Liên Hương kính ghi
(Xem: 7773)
Trong Phật giáo đại thừa nói rất rõ: Phiền não tức bồ đề, Niết bànsinh tử. Niết bànsinh tử là một cặp bài trùng, không có cái này thì không có cái kia...
(Xem: 8840)
Có thể nói “tâm” là cơ sở và động lực giải nghiệp, giải hạn khổ ách đối với con người trong mọi không giannăng lực chuyển nghiệp.
(Xem: 14787)
Tổ tiên ta đã Phật hóa gia đình, giáo dục con cháu phải biết chia sẻ hạnh phúc, ban rải tình thương đến mọi người, mọi loài... TT Thích Lệ Trang
(Xem: 9250)
"Khi cúng dường tứ sự đến cho một vị tỳ-khưu, hai vị tỳ-khưu, cận sự nam nữ đừng nghĩ đến cá nhân vị ấy mà cứ khởi tâm cúng dường Tăng..." Tâm Tịnh
(Xem: 12310)
Từ Trạch Pháp này rất quen thuộc trong Phật Giáo, nhưng đã có mấy người Phật tử chịu tìm hiểu tận tường... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 8490)
Theo Phật giáo, con người sinh ra từ vô thủy (thỉ) đến giờ đã trải qua vô lượng đời, và sẽ còn tiếp nối vô số đời nữa ở tương lai cho đến vô chung... Toàn Không
(Xem: 14491)
Hoa dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền-Trang; Việt dịch: HT Thích Trí-Quang; Anh dịch: Buddhist Text Translation Society
(Xem: 12452)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 8389)
Chúng tôi xin bàn về một số điểm liên hệ, nhất là làm rõ về niên đại Hán dịch của tác phẩm, từ đó chúng tôi xin ghi nhận một số từ ngữ, thuật ngữ Phật học đã được Hán dịch vào thời ấy... Đào Nguyên
(Xem: 10124)
Dù tâm mộ đạo, nhưng Phật tử còn theo nghi lễ xa xưa và kinh điển cổ ngữ, nên việc tu tập không còn phù hợp với nhu cầu của thời đại mới... Johan Galtung, Đỗ Kim Thêm
(Xem: 7739)
Trong việc quảng bá sự hiểu biết, vai trò của người Thầy thật hết sức cần thiết, thế nhưng người Thầy thì cũng phải có đầy đủ khả năng... Hoang Phong
(Xem: 16009)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý. ... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8197)
Nói đến văn hóa tức là nói đến tổ chức đời sống của một dân tộc, trong đó bao gồm các mặt kinh tế, xã hội, luật lệ, văn chương, mỹ thuật, tôn giáo, v.v... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8257)
Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt... Lâm Như Tạng
(Xem: 7851)
Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 11157)
“Bản Giác : Tâm thể của chúng sinh tự tánh thanh tịnh, lìa mọi vọng tưởng, sáng tỏ vằng vặc, có đức giác tri. Đó chẳng phải do tu thành mà như thế, mà chính là tính đức tự nhiên bản hửu, nên gọi là Bản Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 9121)
Thượng tọa Thích Thuyền Ấn trình bày tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào ngày 9-4-1967. Sau đó, bài diễn thuyết này được in trong tập Diễn Đàn Vạn Hạnh, số 1, do Ban Tu thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành năm 1967.
(Xem: 9260)
Bản Chất Của Tâm Thức - Tác giả: His Holiness the Fourteenth Dalai Lama, Anh dịch: Alexander Berzin, Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 8388)
Niết bàn, nirvana (S), nibbana (P), trong Sanskrit và Pali có nghĩa bóng là, một "thể trạng dập tắt". Hình ảnh của một ngọn lửa đã bị dập tắt qua việc không còn nhiên liệu nữa... Tác giả Alexander Berzin; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 7542)
Long Thọ nói, giáo pháp của Chư Phật y trên hai chân lý, tương đối hay thế tục đế, và tuyệt đối hay thắng nghĩa đế. Những ai không phân biệt được hai chân lý này, không thể hiểu thấu giáo pháp thâm sâu... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 7986)
Kinh Hoa nghiêm, nói một cách đơn giản, là bộ kinh nghiên cứu về Pháp giới và cách phát khởi trí tuệ để thể nhập Pháp giới. Trong Pháp giớilý sự vô ngạisự sự vô ngại... Hồng Dương
(Xem: 8788)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
(Xem: 9289)
Học Phật Nên Biết - Tác Giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm, Pháp Sư Ấn Thuận, Pháp Sư Kim Minh và Phương Khắc Minh; Dịch Việt: Thích Nguyên Thành
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant