Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hình Tượng Bồ Tát Quan ÂmVấn Đề Bình Đẳng Giới

20 Tháng Ba 201400:00(Xem: 8542)
Hình Tượng Bồ Tát Quan Âm Và Vấn Đề Bình Đẳng Giới


Hình Tượng Bồ Tát Quan ÂmVấn Đề Bình Đẳng Giới

Thích Hạnh Bình 

 

Một thanh niên hỏi tôi: “Có người nói Bồ tát Quan Âm không có thật, là tín ngưỡng của Bà La Môn phải không thưa thầy?”. Tôi cười đáp: “Bồ tát Quan Âm có thật hay không tùy thuộc vào hai điều kiện: 1.Niềm tin. 2.Tự mình nghiên cứu tìm hiểu. Tôi không đủ thời gian dài dòng giải thích, chỉ xin lưu ý một vài điểm: Danh xưng Bồ tát Quan Âm không thấy trong các kinh điển của Phật giáo Nam truyền, chỉ xuất hiện trong kinh điển Đại thừa, cụ thể là “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa’’ - ‘Phẩm Phổ Môn’ thứ 25. Như vậy, Bồ tát Quan Âm có thật hay không, phải tự thân nghiêm túc tìm hiểu, nếu không thì chỉ dựa vào niềm tin (linh tại ngã bất linh tại ngã) mà thôi, do vậy tôi nhường câu trả lời này cho anh”.

Với câu trả lời cho anh thanh niên, tôi muốn nhấn mạnh rằng: nếu không đứng từ góc độ Phật giáo Đại thừa, người ta có thể cho là Bồ tát Quan Âm không có thật. Tuy nhiên hạnh Bồ tát (làm lợi ích cho mọi người, cho tất cả chúng sinh) trong Phật giáo là điều có thật. Ý nghĩa này được rút ra từ các kinh điển của Phật giáo Nam truyền, cụ thể là “Jātaka” (tiền thân) trong “Khuddaka” (Tiểu Bộ), là một trong 5 bộ Nikāya. Tư tưởng Bồ tát là có thật, hạnh nguyện cứu độ chúng sinh giúp đỡ mọi người của Bồ tát là có thật, do vậy nếu Bồ tát không có danh xưng Quan Âm thì cũng có danh xưng khác. Phật giáo Đại thừa không quan trọng danh xưng, mà chú trọng ở tư tưởnggiá trị thực tế - hạnh nguyện tốt đẹp, ích mình lợi người. (Hoa hồng hương ấy sá gì tên chi).

Với tư tưởng đó, Phật giáo Đại thừa triệt để triển khai tinh thần Bồ tát đạo. Tùy theo hạnh nguyện của mình, Bồ tát xuất hiện dưới nhiều thân tướng khác nhau, nhằm hóa độ nhiều đối tượng khác nhau, như Bồ tát Địa Tạng với hạnh nguyện vào địa ngục để cứu độ những chúng sinh ở đây; Bồ tát Văn Thù với đại trí tuệ hàng phục những tà ma ngoại đạo; Bồ tát Quan Âm dưới thân tướng trang nghiêm là người nữ, với lòng đại bi Ngài lại phân thân xuất hiện dưới nhiều thân tướng khác nhau, không chỉ là người xuất gia mà cả hình thức người tại gia, có thể là nam hay nữ, quan hay dân…và ở bất cứ nơi đâu miễn nơi ấy có chúng sanh đau khổ thì Ngài xuất hiện, giống như người mẹ hiền che chở đàn con thơ.

Hình ảnh Bồ tát Quan Âm xuất hiện dưới thân tướng là người nữ, ngoài ý nghĩa tôn giáo, còn có ý nghĩa về mặt xã hội nếu xét đến bối cảnh “trọng nam khinh nữ” của xã hội Ấn Độ thời bấy giờ.

Ấn ĐộTrung Quốc là hai lục địa lớn nhất ở Châu Á, cũng là hai cái nôi văn hóa không riêng Châu Á mà của cả thế giới. Hai quốc gia này đều có chung truyền thống “trọng nam khinh nữ”, từ đó lan rộng và ảnh hưởng đến các nước phụ cận thuộc Châu Á, trong đó có Việt Nam. Ở những xã hộitruyền thống văn hóa này, hầu như trong ý thức của mọi người đều cho rằng, người nữ như là điều xui xẻo, tai họa, bất hạnh. Họ bị hành hạ, chà đạp nhân phẩm, đem bán, thậm chí bị tước quyền được sống[1], như những nước ở Trung Đông.

Xã hội ngày nay còn có tiếng nói của nhân quyền và các tổ chức xã hội lên tiếng can thiệp đối với việc hành hạ nhục mạ nhân phẩm người nữ, nhưng với thời xa xưa cách đây 2500 năm, người ta xem như là chuyện bình thườngtự nhiên, không ai lên tiếng phản đối. Tuy nhiên, Thế Tôn không chấp nhận sự bất bình đẳng giới này, có thể nói Ngài là người đầu tiên lên tiếng phản đối truyền thống xấu xa này. Ngài không những chỉ phản đối chế độ giai cấp của Bà La Môn, mà còn phản đối tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của xã hội Ấn Độ. Lời khuyên của Ngài đối với vua Pasenadi nước Kosala trong “Kinh Tương Ưng” là một minh chứng cụ thể. Câu chuyện ghi rằng, trong lúc nhà vua cùng đức Phật trò chuyện thì có tin truyền đến Hoàng hậu đã sinh một người con gái. Nhà vua không giấu được nỗi buồn trên mặt, do đó đức Phật đã nói bài kệ khuyên vua:

Này Nhân chủ, ở đời,
Có một số thiếu nữ,
Có thể tốt đẹp hơn,
So sánh với con trai,
trí tuệ, giới đức,
Khiến nhạc mẫu thán phục.
Rồi sinh được con trai,
anh hùng, quốc chủ,
Người con trai như vậy,
Của người vợ hiền đức,
Thật xứng là Ðạo sư,
Giáo giới cho toàn quốc.[2]

Nội dung và ý nghĩa của bài kệ này gồm hai ý chính: 1. Xác định Ấn Độ là xã hộitruyền thống tư tưởng “trọng nam khinh nữ”; 2. Đức Phật không đồng tình quan điểm ấy, Ngài khẳng định có những người nữ có trí tuệ đức hạnh hơn cả người nam, chớ có khinh thường người nữ. Ở bối cảnh xã hội Tây phương ngày nay thì quan điểm bênh vực cho nữ giới là việc được thực hiện rất bình thườnghiển nhiên, nhưng trong bối cảnh nước Ấn Độ cách đây hơn 2.500 năm, dưới thời đại quân chủ chuyên chế, và nặng nề tư tưởng trọng nam khinh nữ, đức Phật đã ngang nhiên trình bày quan điểm của mình trước nhà vua, đó mới là chuyện bất bình thường hy hữu; có thể nói đó là tiếng nói đầu tiên bênh vực, bảo vệ giới nữ, đưa vị trí người nữ ngang bằng với nam giới. Không những chỉ có nói, Ngài thể hiện quan điểm này bằng hành động cụ thể, tức là cho giới nữ xuất gia; khẳng định người nữ cũng có thể chứng quả vị tối caoA la hán[3] (Thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy chỉ có 4 quả, A la hánquả vị cao nhất), trên thực tế cũng đã có nhiều vị Tỷ kheo ni đã thành tựu quả vị này.

Việc cho người nữ xuất gia là ngược lại quan điểm truyền thống Ấn Độ, nên quá trình hợp thức hóa Ni giới trong Tăng đoàn không dễ dàng, không những bị sức ép từ xã hội, mà ngay trong Tăng già cũng kịch liệt phản đối, điển hình là ngài Ca Diếp[4]. Có nhiều ý kiến khác nhau về lý do vì sao ngài Ca Diếp không đồng tình với đức Phậttôn giả A Nan, nhưng đến nay vẫn chưa được làm sáng tỏ, vấn đề này cũng cần được nghiên cứu. Trước tình hình đó, dĩ nhiên đức Thế Tôn phải cân nhắc, và phải chuẩn bị những điều kiện sống cần thiết (cư trú) trước khi cho người nữ xuất gia. Cuối cùng, người nữ cũng được xuất gia trong Tăng đoàn, hình thành Ni giới. Điều đó chứng tỏ quan điểm và sự quyết tâm của đức PhậtA Nan cho người nữ xuất giahợp lý, không những tạo điều kiện cho giới nữ có cơ hội học Phật pháp, tu tập để thành tựu giác ngộgiải thoát mà còn mang ý nghĩa kêu gọi xã hội bình đẳng về giới tính, xóa bỏ thái độ “trọng nam khinh nữ”, giải phóng biết bao người phụ nữ thoát khỏi nỗi đau khổ tủi nhục do quan niệm sai lầm này gây ra.

Phật giáo Đại thừa đã kế thừa tư tưởng này và có công rất lớn trong sự nghiệp cải cách, xóa bỏ sự bất bình đẳng về giới. Hình tượng Bồ Tát Quán Âm xuất hiện dưới thân hình người nữ, bằng tình thương vô biên, được mô tả như là người có ngàn tay ngàn mắt, thần thông quảng đại, xuất hiện khắp hang cùng ngõ hẻm, mọi lúc mọi nơi, thực thi tinh thần cứu độ chúng sinh, với lời nguyện: “Nơi đâu có tiếng than khổ thì nơi ấy có Ngài” (Kinh Pháp Hoa- Phẩm Phổ Môn). Đó là tình thươngbản chất của người mẹ, chỉ có người mẹ mới làm được việc ấy. Trong thế gian không có tình thương nào bằng tình thương của mẹ, không có lòng bao dung, chịu đựng nào bằng lòng bao dung chịu đựng của người mẹ, nếu con có ngỗ nghịch, bất hiếu như thế nào đi nữa, khi gặp nạn cần sự giúp đỡ thì mẹ sẵn lòng tha thứ và chìa tay nâng đỡ con. Bồ tát Quan Âm cũng thế, Ngài xuất hiện như người mẹ, thương chúng sanh như con ruột, luôn cận kề vỗ về an ủi xoa dịu nỗi đau của đàn con.

Bồ tát Quan Âmhạnh nguyện như thế nên bất cứ ai dù là nam hay nữ, dân hay quan, kẻ ác hay người thiện...đều có thể đến với Ngài, cầu Ngài cứu độ. Có lẽ chính vì lòng hiền từbao dung ấy, mà người dân Việt Nam gọi Ngài bằng cái tên thân thiết là “Mẹ Hiền Quan Ấm” hay “Phật Bà Quan Âm”, vì Ngài hiền từdễ thương như người mẹ. Từ đó hình tượng của Ngài được dựng ở khắp mọi nơi, từ thị thành đến thôn quê, từ non cao đến biển cả, nhất là những nơi thường xuất hiện bất trắc hiểm nguy.

Hình ảnh Bồ tát Quan Âm xuất hiện dưới thân hình người nữ, có tình thương bao la, dễ thương gần gũi như người mẹ và hạnh nguyện của Ngài là biện pháp hữu hiệu nhất để phá vỡ quan niệm phi đạo lý: “trọng nam khinh nữ” của truyền thống dân tộc Ấn Độ nói riêng và loài người nói chung, trong đó có cả Việt Nam.

Hình ảnh Ni giới được tu được học và được thành tựu đạo quả trong đạo Phật cho thấy Phật giáo là một tôn giáo đi đầu trong việc đề xướng bình đẳng giới, đả phá quan điểm “trọng nam khinh nữ”. Đức Thế Tôn là người đầu tiên đòi quyền lợi cho giới nữ, đưa vị trí giới nữ ngang bằng nam giới.

Hy vọng rằng qua bài viết này chúng ta thấy được quan điểm tiến bộthực tế của đạo Phật, lời đức Phật luôn luôn đi cùng với con người, với sự thậtlẽ phải. Chúng tathể không tin tưởng Bồ tát Quan Âm là có thật, nhưng hạnh nguyệntinh thần từ bi cứu độ chúng sinh, và giá trị xóa bỏ truyền thống tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của xã hội thì không thể phủ nhận.

 

Vạn Hạnh, rằm tháng Giêng năm Kỷ Sửu

 



[1] Nhiều phụ nữ theo đạo Hindu ở một số vùng tại Ấn Độ sẽ tự thiêu sống mình nếu như chồng họ không may bị chết vì bất cứ lý do gì. 

[2] HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng Bộ” tập 1, Viện NCPHVN ấn hành, 1993, trang 194.

[3] HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tăng Chi Bộ”, tập 3, Viện NCPHVN ấn hành, 1996, trang 653 (Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn: Nữ nhân sau khi xuất gia…có thể chứng quả gì? Này Ananda, sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, trong pháp và luật do Như Lai thuyết giảng, nữ nhân có thể chứng được Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Lai hay A La Hán quả.)

[4] “Tỳ Ni Mẫu Kinh”(毘尼母經), (CBETA, T24, no. 1463, p. 818, b16-c6). Trong kinh này, Tôn giả Ca Diếp quở trách A Nan: vì A Nan xin Phật cho người nữ xuất gia, nên Phật pháp gặp phải 10 việc không may, như vì người nữ xuất gia cho nên Phật pháp bị hoại diệt trước 500 năm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21874)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 7991)
Thiều Chửu và Đoàn Trung Còn đều không giải thích được lý do tại sao chữ VẠN quay theo chiều này thì cát tường, quay theo chiều ngược lại thì nguy hại... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 7681)
Một trong những nền tảng quan trọng của đạo đức Phật giáotuân theo tinh thần bất bạo động... Tác giả: Charles K. Fink; Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 8802)
Đức Phật đã thuyết giảng như thế nào về sự đau đớn? Ngài bảo rằng sự bất an của chúng ta gồm có hai thể dạng khác nhau... Ajahn Brahmavamso, Hoang Phong dịch
(Xem: 7091)
Không là một khái niệm xuất hiện khá sớm trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, trải dài đến Phật giáo Đại thừa... Thích Nữ Nhuận Bình
(Xem: 9308)
Tác phẩm “Tuệ Sanh Định” là một trong số ít tác phẩm được viết bởi Bậc Thầy Maha Boowa (Bhikkhu Ñanasampanno)... Nhất Như dịch Việt
(Xem: 8749)
Nguyên tác tiếng Anh của Darwinism, Buddhism and Christanity được đăng trong tạp chí The Maha Bodhi, Sri Lanka, Tập 82 Dec 1974 Thích Nữ Liên Hòa dịch
(Xem: 10215)
Trong Kinh Duy-Ma-Cật, khi Phật bảo Ngài Duy-Ma-Cật thị hiện cõi nước Diệu-Hỷ có Vô-Động Như-Lai, các Bồ-Tát, và đại chúng nước ấy cho đại chúng xem... Toàn Không
(Xem: 8175)
Chân Nguyên kết luận: “Đức Phật Thích Ca đã tự chính mình đem thánh hiệu mà dạy cho hai người già, điều đó không còn có thể nghi ngờ gì nữa”... Thích Phước An
(Xem: 9516)
Một sự kết hợp thú vị giữa đạo đức chính trực, sự phục tùng, lòng khoan dung, cầu nguyện, khả năng tự lực, tự thanh lọc và tình yêu... Mai Thục
(Xem: 6924)
Mũi tên biểu trưng cho một sự đau đớn trên thân xác, nhưng cũng có thể là nguyên nhân gây ra một sự hoảng sợ trong tâm thần... Hoang Phong
(Xem: 7974)
Yết-ma, được phiên âm từ karmam[1] của tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự tác pháp”, được định nghĩa: “Vạn sự do tư thành biện cố”... Thích Minh Cảnh
(Xem: 8347)
Quảng bản kinh được Pháp Nguyệt dịch năm 732, rồi đến Bát NhãLợi Ngôn tái dịch năm 790. Cho đến Thi Hộ đời nhà Tống dịch lần chót là có tất cả 7 bản... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 8628)
Bồ tát hành đạo bắt đầu từ giữa lòng xã hội nên sự tiếp cận với mọi thống khổ nhân sinh là lẽ tất nhiên... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 8386)
Thiền sư Vĩnh Bình Đạo Nguyên, hoặc Đạo Nguyên Hy Huyền (1200-1253), là vị tổ sáng lập ra dòng Tào ĐộngNhật Bản... Ngọc Bảo dịch
(Xem: 8495)
Một cách vắn tắt, đó là vị trí của nữ giới trong Phật Giáo. Người phụ nữ xứng đáng có một chỗ đứng danh dự ngang hàng với nam giới... Piyadassi Mahathera; Dịch giả: Phạm Kim Khánh
(Xem: 11238)
Người vợ cần quán chiếu tâm mình thật cẩn thận trong một thời gian và từ đó đi đến quyết định đúng cho cuộc đời của mình... Mithra Wettimuny; Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
(Xem: 10674)
Hội Phật giáo Trung Quốc ước tính rằng hiện có khoảng 180,000 tăng niTrung Quốc... Nguyên tác: Tịnh Nhân; Thích Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 9437)
Ngài đã gọi dứt khoát, rõ ràng “tự phá thai mình” là một tội, phải chịu quả báo hết sức nặng nề và kéo dài... Chân Minh
(Xem: 9220)
Làm thế nào để những cha mẹ Phật tử có thể dạy tốt lời dạy của Phật giáo cho con em của họ?... Helmuth Kalr; Thích Minh Diệu
(Xem: 9539)
Rồi lần lượt không bao lâu, khi Ðức Phật đúng 80 tuổi đời, 45 tuổi đạo, Ngài cũng giã từ Tứ chúng để an hưởng quả vị Vô Dư Niết-bàn... Thích Thiện Minh
(Xem: 10309)
Con người không bao giờ ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên để mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình... Tuệ Sỹ
(Xem: 16172)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19146)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 8661)
Long Thọ (Nagarjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán mà ngài còn được coi là vị Phật thứ hai sau đức Thế Tôn trong lịch sử phát triển Phật giáo.... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 8014)
Như thế giải thoát cho vô số vô biên chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào được giải thoát... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 24121)
Cúng dườngbố thí vốn cùng một nghĩa "cho". Cái gì của mình mà có thể đem ra "cho" người khác, thì gọi là "cho"... TT Thích Nhất Chân
(Xem: 9371)
Lịch Sử Văn Học Phật Giáo Tiếng Sanskrit (Literary History of Sanskrit Buddhism - Nguyên tác: J. K. Nariman; Thích Nhuận Châu dịch Việt
(Xem: 7628)
Yết-ma là phiên âm từ karman của tiếng Phạn. Hán dịch là «biện sự tác pháp», và thường được các luật sư Trung quốc giải thích rằng «Vạn sự do tư thành biện cố.»... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 10518)
Chúng ta có thể thấy được đức tính của những khóm tre cây trúc, của những dòng sông, của cây mai, của đất, của áng mây... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17670)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 6930)
Giáo dục Phật giáo – nền giáo dục minh triết, vốn ở cao, ở trên triết học... Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Xem: 8856)
Đọc công trình của Francois Jullien những độc giả "Tây giả" (Á và Âu) có thể thấy được rằng người bà con nghèo của triết học có những sở đắc... Nguyên Ngọc dịch
(Xem: 12332)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 7692)
Chúng ta thường nghĩ là mình đã hiểu nhưng thật ra có lẽ ta chưa hiểu rõ thế nào là quy y Tam Bảo... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 14582)
Tăng đoànhình ảnh của Đức Phật, mang trọng trách thừa Như Lai sứ, hành Như Lai sự... Thích Phước Sơn
(Xem: 8239)
Ðại Tạng Kinh là một công trình tập thành tâm huyết của bao nhiêu thế hệ Tổ Sư, cổ đức Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Ly... Liên Hương kính ghi
(Xem: 7773)
Trong Phật giáo đại thừa nói rất rõ: Phiền não tức bồ đề, Niết bànsinh tử. Niết bànsinh tử là một cặp bài trùng, không có cái này thì không có cái kia...
(Xem: 8838)
Có thể nói “tâm” là cơ sở và động lực giải nghiệp, giải hạn khổ ách đối với con người trong mọi không giannăng lực chuyển nghiệp.
(Xem: 14786)
Tổ tiên ta đã Phật hóa gia đình, giáo dục con cháu phải biết chia sẻ hạnh phúc, ban rải tình thương đến mọi người, mọi loài... TT Thích Lệ Trang
(Xem: 9249)
"Khi cúng dường tứ sự đến cho một vị tỳ-khưu, hai vị tỳ-khưu, cận sự nam nữ đừng nghĩ đến cá nhân vị ấy mà cứ khởi tâm cúng dường Tăng..." Tâm Tịnh
(Xem: 12309)
Từ Trạch Pháp này rất quen thuộc trong Phật Giáo, nhưng đã có mấy người Phật tử chịu tìm hiểu tận tường... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 8489)
Theo Phật giáo, con người sinh ra từ vô thủy (thỉ) đến giờ đã trải qua vô lượng đời, và sẽ còn tiếp nối vô số đời nữa ở tương lai cho đến vô chung... Toàn Không
(Xem: 14486)
Hoa dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền-Trang; Việt dịch: HT Thích Trí-Quang; Anh dịch: Buddhist Text Translation Society
(Xem: 12450)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 8386)
Chúng tôi xin bàn về một số điểm liên hệ, nhất là làm rõ về niên đại Hán dịch của tác phẩm, từ đó chúng tôi xin ghi nhận một số từ ngữ, thuật ngữ Phật học đã được Hán dịch vào thời ấy... Đào Nguyên
(Xem: 10123)
Dù tâm mộ đạo, nhưng Phật tử còn theo nghi lễ xa xưa và kinh điển cổ ngữ, nên việc tu tập không còn phù hợp với nhu cầu của thời đại mới... Johan Galtung, Đỗ Kim Thêm
(Xem: 7739)
Trong việc quảng bá sự hiểu biết, vai trò của người Thầy thật hết sức cần thiết, thế nhưng người Thầy thì cũng phải có đầy đủ khả năng... Hoang Phong
(Xem: 16008)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý. ... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8195)
Nói đến văn hóa tức là nói đến tổ chức đời sống của một dân tộc, trong đó bao gồm các mặt kinh tế, xã hội, luật lệ, văn chương, mỹ thuật, tôn giáo, v.v... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8257)
Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt... Lâm Như Tạng
(Xem: 7850)
Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 11157)
“Bản Giác : Tâm thể của chúng sinh tự tánh thanh tịnh, lìa mọi vọng tưởng, sáng tỏ vằng vặc, có đức giác tri. Đó chẳng phải do tu thành mà như thế, mà chính là tính đức tự nhiên bản hửu, nên gọi là Bản Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 9121)
Thượng tọa Thích Thuyền Ấn trình bày tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào ngày 9-4-1967. Sau đó, bài diễn thuyết này được in trong tập Diễn Đàn Vạn Hạnh, số 1, do Ban Tu thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành năm 1967.
(Xem: 9258)
Bản Chất Của Tâm Thức - Tác giả: His Holiness the Fourteenth Dalai Lama, Anh dịch: Alexander Berzin, Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 8387)
Niết bàn, nirvana (S), nibbana (P), trong Sanskrit và Pali có nghĩa bóng là, một "thể trạng dập tắt". Hình ảnh của một ngọn lửa đã bị dập tắt qua việc không còn nhiên liệu nữa... Tác giả Alexander Berzin; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 7542)
Long Thọ nói, giáo pháp của Chư Phật y trên hai chân lý, tương đối hay thế tục đế, và tuyệt đối hay thắng nghĩa đế. Những ai không phân biệt được hai chân lý này, không thể hiểu thấu giáo pháp thâm sâu... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 7982)
Kinh Hoa nghiêm, nói một cách đơn giản, là bộ kinh nghiên cứu về Pháp giới và cách phát khởi trí tuệ để thể nhập Pháp giới. Trong Pháp giớilý sự vô ngạisự sự vô ngại... Hồng Dương
(Xem: 8788)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
(Xem: 9289)
Học Phật Nên Biết - Tác Giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm, Pháp Sư Ấn Thuận, Pháp Sư Kim Minh và Phương Khắc Minh; Dịch Việt: Thích Nguyên Thành
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant