Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tự thân & tha nhân

14 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 12577)
Tự thân & tha nhân

Tự thân & tha nhân 

HT. Thích Thiên ÂnQuảng Trí dịch

Sự thể hiện đích thực về đời sống của người Phật tử không phải là ngôn ngữ, kiến thức mà là hành động. Tọa thiền là quan trọng; giữ tâm điềm tĩnh, lắng dịu và nghiêm túc trong quá trình hành thiền là cần thiết, nhưng đấy không phải là nhiệm vụ khó khăn nhất. Nhiệm vụ khó khăn nhất ấy là đem tâm nghiêm túc ấy vào trong đời sống thường nhật.


Trong Đại thừa Phật giáo, vị Bồ tát được ví như hoa sen, mọc lên từ bùn mà không nhiễm mùi bùn, vẫn nở hoa tươi đẹp và tinh khiết. Vị Bồ tát sống trong đời mà không bị nhiễm bụi trần khi vị ấy cứu giúp mọi chúng sanh. Một thiền sinh phải cố gắng làm sao để giống như vị Bồ tát. Thiền sinh có thể sống đời sống của một con người bình thường, nhưng luôn luôn kiểm soát được tâm và luôn tràn đầy trí tuệtừ bi đối với mọi loài chúng sanh

Để đạt được tâm Bồ tát, bước quan trọng nhất là phải có sự tỉnh giác thực sự về bản thân và về mối quan hệ với người khác. Con người là loài vật duy nhất có khả năng tự ý thức và tự làm chủ chính mình. Khả năng hiểu về bản thân là điều khiến cho nhân loại trở thành loài có khả năng nhất trong sáu cõi về khả năng tu tập để đạt đến giác ngộ. Con ngườiđộng vật không chỉ khác nhau về lối sống mà còn khác nhau về những mức độ ý thức. Một con vật chỉ có ý thức về những thứ xung quanh chúng, về thế giới bên ngoài. Con người thì tiến bộ hơn thế, con người không chỉ ý thức về thế giới bên ngoài mà còn ý thức về bản thân, về toàn bộ sự sống của mình.

Vì thế, bước đầu tiên hướng đến sự giác ngộ chính là hiểu “ngã” là gì. Nó tồn tại hay không tồn tại? Nó thường hằng hay không thường hằng? Theo triết học Phật giáo, “ngã” là một thực thể gồm có hai đặc tính: kết hợp và thay đổi. Thân thể của chúng ta, cuộc sống của chúng ta là sự kết hợp của bốn yếu tố: chất cứng, chất ướt, không khí, hơi nóng. Chúng ta không thể nào sống được nếu bốn thứ này tách rời nhau, bởi vì cái mà chúng ta gọi là “thân thể của mình” là gồm có bốn yếu tố vật lý ấy kết hợp với nhauduy trì sự kết hợp ấy.

Tuy nhiên, cuộc sống của chúng ta không chỉ có thân thể vật lý mà còn có phần tâm thức nữa. Do vậy, triết học Phật giáo dẫn chúng ta đến sự ý thức về một thứ khác, đó là tâm thức. Tâm là gì? Có phải nó là một thực thể? Nó có tồn tại mãi không? Nó có vật chất không? Theo tư tưởng của Phật giáo, tâm được cấu thành bởi bốn yếu tố khác nhau, đó là: thọ, tưởng, hành, và thức. Tâm không phải là một thực thể, không thường hằng, không thực. Nói cách khác, cuộc sống của chúng ta được duy trì vì thân và tâm kết hợp lại với nhau. Chính thân và tâm vốn đã không thực, chúng là sự kết hợp của nhiều yếu tố khác nhau. Bởi vì chúng là sự kết hợp của nhiều thành tố, cho nên sự sống dễ thay đổi. Từ quá khứ đến hiện tại và đến tương lai, sự sống thay đổi trong từng sát na. Không có gì là thường hằng trong thế giới này cả. Cuộc sống cũng giống như vòng lửa được tạo ra khi chúng ta cầm một cây nhang và quay nhanh. Khi chúng ta ngừng quay thì vòng lửa cũng tự động biến mất. Sự vận động của cuộc sống cũng như thế. Trong kinh Kim Cang có một bài kệ rằng:

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh,
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán.

Tạm dịch:

Tất cả các hiện tượng trong thế giới này
Đều như mộng huyễn, bọt nước, như bóng râm
Như giọt sương, sấm chớp, như tia sáng
Mọi người cần phải ý thức được điều này.

Mặc dù được kết hợp bởi những yếu tố khác nhau, và dễ thay đổi, chúng ta vẫn tồn tại trong giờ phút hiện tại trong thế giới này. Vì thế, điều quan trọng đối với chúng tachúng ta phải biết về bản thân, phải ý thức về bản thân. Sự tự ý thức này nâng chúng ta vượt lên trên sự ý thức về tự ngã để đạt đến sự nhận chân về cái ngã đích thực, về cái ngã không thay đổi theo thời gian, về cái ngã luôn luôn đi cùng chúng ta, cái ngã đích thực, Phật tánh. Có một công án nổi tiếng trong thiền Lâm Tế rằng: “Bản lai diện mục của ngươi trước khi ngươi được sinh ra là gì?”, công án này thường được các vị thiền sư trao cho thiền sinh để giúp thiền sinh nhận chân được bản lai diện mục, nhận chân được Phật tánh. Bởi vì tự chứng ngộ là mục đích chính của thiền, nên hầu hết sự hành thiền đều nhắm vào đích điểm cuối cùng ấy.

Làm sao chúng ta có thể nhận chân được “ngã”? Làm sao chúng ta có thể sống với “chân ngã” nếu như tâm chúng ta vẫn đang lang thang và nghĩ về nhiều thứ, khi tâm còn bị quấy nhiễu bởi lo âuhạnh phúc. Để cho tâm được ổn định, đạo Phật đưa ra pháp tham thiền. Tham thiền là một kỹ thuật giữ tâm điềm tĩnh, bình lặng và thanh khiết. Trong khi thực tập, hành giả không bận tâm đến câu hỏi “Phật ở đâu?”, “Chúa ở đâu?”, cũng không lo lắng về những gì đã xảy ra trong quá khứ, hoặc điều gì sẽ diễn ra trong tương lai. Thậm chí hành giả không chú ý đến những sự kiện ở bên ngoài. Những điều bận tâm ấy là không quan trọng. Vấn đề quan trọng là phải sống với tự ngã của mình ngay bây giờ và ở đây. Thiền học giới thiệu những phương pháp giúp đem sự tỉnh thức về với “ngã”, nhận diện “ngã” ngay bây giờ và ở đây.

Trong quá trình nhận diện tự ngã, hành giả hiểu được rằng không ai có thể tồn tại một mình trên thế giới này cả. Không một ai. Người ta cần sống với một ai đó. Một hòn đảo có thể tồn tại trên đại dương, nhưng một người thì không thể tồn tại đơn lẻ. Cho nên, ngay khi hành giả hiểu rõ về chính mình, vị ấy phải nghĩ về người khác, và vị ấy phải ý thức về mối liên hệ giữa mình với người khác.

Chúng ta không thể tồn tại đơn lẻ trong cuộc đời này được. Xét về vật chất, chúng ta cần có nhau. Nhu cầu này mang chúng ta xích lại gần nhau và giúp đỡ lẫn nhau. Chẳng hạn, bởi vì chúng ta không thể tự sản xuất vải và những thứ cần cho sự sống của chúng ta, cho nên chúng ta cần có người khác. Mọi người đều cần đến người khác; tất cả chúng ta, toàn thể nhân loại, đang giúp đỡ lẫn nhau. Theo triết học Phật giáo, cuộc sống là một quá trình cho và nhận. Chúng sanh được sinh ra theo nghiệp lực của cá nhân, và để nhận sự giúp đỡ từ người khác đồng thời hoàn thành trách nhiệm của mình trong sự giúp đỡ người khác. Vì thế, về đời sống vật chất, tâm linh cũng như đời sống tình cảm đều chứng tỏ rằng cuộc sống là một quá trình của cho và nhận. Tuy nhiên, trong lúc cho, chúng ta cần phải nhớ một điều: không nên tạo sự khác biệt giữa người cho và người nhận. Nếu chúng ta nghĩ rằng, chúng ta đóng vai trò người cho và người khác là người nhận, thì sẽ khiến mình nảy sinh lòng kiêu hãnh và mong cầu. Trong việc ban tặng, không nên có khái niệm người cho, vật đem cho và người nhận. Thái độ này, thuật ngữ Phật học gọi là “không”. Lúc chúng ta cho hay nhận, chúng ta nên ý thức rõ rằng, không có người nào được cho hay nhận cả. Để làm cho người nhận được hạnh phúc, chúng ta phải cho mà không nghĩ mình đang ban ơn. Chúng ta không được đặt mình vào vị trí cao hơn và nhìn xuống người khác như thể họ là những người thấp kém hơn ta. Hay nói cách khác, chúng ta phải bố thí với thái độ khiêm tốn và với lòng thương yêu.

Một phẩm chất đạo đức quan trọng của đạo Phật là lòng khiêm tốn. Khiêm tốn tức là tránh đặt mình cao hơn người khác. Theo quan điểm của Phật giáo, mọi người đều là con người, vì đều là con người nên chúng ta đều có những ưu điểm và khuyết điểm cả. Không có ai là Phật, là Bậc Toàn Giác, là người hoàn thiện cả. Nếu chúng ta nhận ra rằng chúng ta chưa hoàn thiện thì chúng ta cũng không đòi hỏi người khác phải hoàn thiện. Sự nhận thức này sẽ tạo nên mối quan hệ tốt đẹp giữa ta với người. Sự ý thức rằng chúng ta chưa hoàn thiện không chỉ khiến chúng ta khiêm tốn hơn mà còn làm cho chúng ta biết tôn trọngkhoan dung hơn. Nếu chúng ta để ý đến lỗi lầm của người khác, chúng ta sẽ thất vọngđau khổ. Nếu chúng ta nhận ra rằng mình không hoàn thiện, chúng ta sẽ không yêu cầu khắt khe đối với người khác, biết tôn trọng, khoan dungthương yêu người khác nhiều hơn. Khoan dung là nhân tố quan trọng trong mối quan hệ giữa người với người.

Mọi hành động mà chúng ta làm, mọi lời chúng ta nói đều tạo ra sự phản ứng nơi những người xung quanh. Ví dụ, khi chúng ta cảm thấy tức giận, người khác thấy thế cũng cảm thấy khó chịu theo, khi thấy ta hạnh phúc thì họ cũng chia sẻ niềm hạnh phúc ấy với chúng ta. Chúng ta không chỉ chia sẻ đời sống vật chất và chia sẻ những hàng hóa với người khác mà còn chia sẻ cả những yếu tố tình cảm và tâm linh nữa. Đấy chính là sự biểu hiện về mối liên hệ giữa ta và người. Bởi vì tất cả mọi người đều liên quan với nhau, không có ai là một hòn đảo đơn lẻ cả. Mỗi người chúng ta là một phần của cái tổng thể. Mọi người không tách biệt nhau, sự tách biệt giữa ta và người là không thực. Chính sự chấp ngãsi mê của chúng ta đã tạo ra sự chia rẽ đó. Nếu chúng ta vượt qua được sự chấp ngãsi mê của mình, chúng ta sẽ thấy được rằng mọi người thật sự không khác nhau. Triết học Phật giáoẤn Độ giáo diễn tả điều này như sau: “Bạn là sự mở rộng của tôi và tôi là sự mở rộng của bạn”. Tại vì mọi người là sự mở rộng của chúng ta nên khi chúng ta cố ý làm cho ai đó đau khổ thì ngay lúc đó chính chúng ta cũng đau khổ. Ngược lai, bởi vì chúng ta là sự nới rộng của người khác, nên khi họ cố tình làm hại ta thì họ cũng đang làm hại bản thân họ.

Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau. Tất cả chúng ta là những khía cạnh của cùng một thực thể, là những phần khác nhau của một tổng thể, giống như muôn vàn ngọn sóng nổi lên rồi lại lặn xuống giữa đại dương liên hệ qua lại với những biến đổi của đại dương. Tại vì chúng ta liên quan chặt chẽ với nhau, không thể tách rời trong đại dương bao la của sự tồn tại, cho nên Phật giáo khuyên mọi người nên thương yêu lẫn nhau. Chúng ta phải biết xem nhau như là sự nới rộng của cùng một thực thể. Từ đó chúng ta có thể đối xử với nhau như là những người bạn, người anh em của mình, và thế giới khổ đau, thù hận này sẽ được chuyển thành cảnh giới an bìnhhạnh phúc. Thế giới luân hồi này sẽ chuyển thành cảnh giới Niết bàn.

Người Phật tử cố gắng nuôi lớn tình thương yêu không giới hạn và sự không phân biệt ở trong tâm trong lúc hành thiền và trong các hoạt động hàng ngày. Để thể hiện tình thương yêu này, người Phật tử luôn tự nhắc nhở bản thân về hạnh nguyện Bồ tát: “Chúng sanh vô số lượng, thệ nguyện đều độ khắp”.

Tại sao người ta cưới nhau, tại sao người ta cần bạn bè? Khi người ta ở một mình, người ta sẽ rất cô đơn, cho nên họ cưới nhau để thiết lập mối quan hệ giữa họ với người họ thương yêu. Người nam và người nữ cần bạn bè để thiết lập mối quan hệ. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ là: Chúng ta luôn nhận ra những mối quan hệ gần, nhưng lại không nhận ra những mối quan hệ xa. Chúng ta thấy mình cần một người bạn, nhưng cùng lúc đó mình lại thấy không cần những người khác, những người mà mình không xem là bạn. Chúng ta có thể cố gắng với tất cả khả năng của mình để bảo vệ bạn, nhưng cùng lúc đó chúng ta có thể cố gắng tìm cách để hại người khác, những người không được xem là bạn, mà là kẻ thù của chúng ta. Tuy nhiên, bạn hay thù thì cũng giống như âm với dương. Dương không thể nào tồn tại nếu không có âm và âm không thể nào tồn tại nếu không có dương, cũng như người nam và người nữ không thể chia lìa nhau được. Bạn và thù cũng như thế. Ai khiến cho một người trở thành bạn bè hay kẻ thù? Chính chúng ta. Nếu chúng ta thay đổi thái độ của mình đối với người khác, nếu chúng ta đối xử tử tế với người khác, thì người kia, thậm chí hiện giờ đang là kẻ thù của ta, cũng sẽ thay đổi thái độ của họ đối với ta và dần dần trở thành bạn bè của nhau. Ngược lại, nếu ta không đối xử tử tế với ai đó, thậm chí hiện giờ người đó đang là người bạn tốt nhất của ta, thì sớm muộn gì người đó cũng sẽ trở thành kẻ thù. Chúng ta phải biết rằng, bạn và thù chỉ đơn thuần khác nhau về mức độ quan hệ giữa hai người và ta là những người đã tạo ra điều đó.

Như đã đề cập ở trên, mọi người sống trong thế giới này đều có quan hệ hỗ tương lẫn nhau. Mọi cá nhân đều cần bạn bè. Tình bạn không chỉ tồn tại giữa con người với nhau, mà còn giữa con người với động vật, giữa con người với thiên nhiên. Nhiều người nuôi các con vật, như chó, mèo, cá, chim, rùa,… Một số người còn nuôi cả rắn, và những con vật cưng ít thấy khác. Việc nuôi vật cưng để thỏa mãn nhu cầu kết bạn không chỉ cần thiết cho con người mà cho cả con vật và thiên nhiên nữa. Để duy trì những mối quan hệ ấy và phát triển chúng, đạo Phật khuyên mọi người cần phải hiểu vị thế của người khác, phải phát triển sự hiểu biết lẫn nhau. Đây là bước đầu tiên và quan trọng nhất.

Để giữ được mối quan hệ tốt đẹp giữa mình với người khác, chúng ta cần phải tôn trọng lẫn nhau. Đây là bước thứ hai. Khi chúng ta gặp nhau, theo truyền thống của đạo Phật thì cả hai bên đều chắp tay và cúi đầu chào để bày tỏ lòng kính trọng với nhau. Sự cúi đầu này nhắc nhở chúng ta rằng, chúng ta phải tôn trọng lẫn nhau bởi vì tất cả chúng ta đều trở thành những vị Phật trong tương lai. Nếu chúng ta kính trọng người khác thì họ cũng sẽ kính trọngthương yêu chúng ta.

Bước thứ ba trong quá trình đảm bảo mối quan hệ tốt đẹp hơn với người khác là phải trung thực. Chúng ta phải trung thực với chính mình và với người khác. Nhờ vậy mà sự hiểu biếttôn trọng lẫn nhau nảy sinh. Trung thực với chính mình và với người khác sẽ vun đắp cho mối quan hệ giữa mọi người với nhau, giữa mình với người khác.

Một người không thể nào tồn tại đơn lẻ trong cõi đời này, cũng vậy, một gia đình không thể nào tồn tại đơn lẻ được. Gia đình là một phần của cộng đồng, cộng đồng là một phần của xã hộixã hội là một phần của nhân loại. Phật giáo đã nhận thấy được tính nhất thể của xã hội loài người, bởi vì một gia đình, một thành phố, một đất nước không thể nào tồn tại đơn lẻ. Tất cả chúng ta đều giúp đỡ lẫn nhau và liên hệ với nhau. Theo Phật giáo, nếu chúng ta muốn thế giới hòa bình thì chúng ta phải có sự an bình trong tâm mình trước đã. Nếu chúng ta muốn xã hội được hòa hợp, hạnh phúc thì chúng ta phải khiến cho tâm ta được định tĩnh, bình anhoàn thiện bản thân mình trước. 

Theo quan điểm phương Tây, người ta tin rằng, muốn có hòa bình thì phải chiến đấu, vì theo họ, hòa bình nên là một sự hòa bình trong chiến thắng và danh giá. Họ lập luận rằng, hãy xây dựng lực lượng quân sự, chúng ta sẽ xây dựng được hòa bình. Đây có thể là một phương pháp, nhưng mà chúng ta có nhiều phương thức khác nhau. Nếu chúng ta đi theo đường hướng của đạo Phật, thì trước hết chúng ta phải có được sự an bình trong tâm hồn, trong cuộc sống của chúng ta. Khi tâm ta an bình, đời sống an bình, chính ta được an bình thì sẽ tác động đến người khác để phát triển những tâm hồn bình an, những gia đình hòa hợp, những xã hội hòa bình, và chúng ta có được sự hòa bình lâu dài.

Đức Phật dạy rằng, sự hòa bình lâu dài không bao giờ có thể được tạo nên bởi sự thù hận, khủng bố hay chiến tranh. Sự hòa bình được xây dựng trên sự hung hăng, chống đối sẽ không thể kéo dài được. Như Đại đế A Dục, một vị hoàng đế Phật tử của xã hội Ấn Độ cổ đại đã nói: “Hận thù không thể nào được chấm đứt bằng chiến tranh, hận thù chỉ có thể chấm dứt bằng tình thương yêu”. Đức Phật dạy rằng, nếu chúng ta muốn chấm dứt chiến tranh, chúng ta không thể dùng chiến tranh; nếu chúng ta muốn chấm dứt thù hận, chúng ta không thể nào dùng thù hận. Cách duy nhất để chấm dứt cái vòng thù hận, giết chóc tồi tệ ấy là sử dụng một sức mạnh hiệu nghiệm hơn, sức mạnh của tình thương yêu. Thông qua tình thương yêu, lòng bao dung, sự hiểu biếttôn trọng lẫn nhau mà chúng ta có thể chiến thắng kẻ thù. Theo cách này, chúng ta chuyển hóa những kẻ thù của chúng ta thành bạn bè. Cách tốt nhất để tạo dựng một thế giới hòa bình là thông qua sự tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau giữa người với người, giữa những cộng đồng, những quốc gia với nhau.

(Trích dịch từ sách “Zen philosophy, Zen practice” của HT. Thích Thiên Ân, Dharma Publishing and Colloge of Oriental studies xuất bản, America, 1975).

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12837)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26698)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13092)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27079)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32918)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31720)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32621)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13051)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12187)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17554)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18783)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12596)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11797)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13153)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12261)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12526)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11669)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 12027)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10638)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10948)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28367)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11190)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11406)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13614)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11057)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11462)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10919)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11221)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26409)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12421)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14906)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11086)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20392)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12384)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11514)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10796)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23987)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11888)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12351)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12870)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11096)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38773)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10582)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12247)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17744)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25130)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10583)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10807)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12073)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11362)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11640)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14761)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21475)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9943)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11293)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27430)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11202)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11880)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11049)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14344)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant