Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

06. Đạo Phật với tâm trong sángthanh thoát

15 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 15718)
06. Đạo Phật với tâm trong sáng và thanh thoát

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG I
ĐẠO PHẬT VỚI TÂM TRONG SÁNG VÀ THANH THOÁT

Mỗi độ Xuân về thì tôi lại tưởng nhớ đến những điều tôi đã đọc kinh sách nhà Phật và đi nghe các bậc cao tăng thuyết giảng hay có đôi khi được trực diện đàm đạo với quý thầy, mà tôi cảm nhận thấy đáng kính, biết nhiều, hiểu rộng về chân lý cao siêu của Đức Thế Tôn hầu bồi đắp cho sự hiểu biết nông cạn của mình, đó là sự học hỏi dễ nhớ, dễ hiểu và từ đó tâm linh trở lên trong sángthanh thoát.

Nguyên nhân cái khổ của con người là “tham, sân, si” một phần lớn cũng do ngoại cảnh tạo nên cho con người có một cái “TÂM” luôn luôn muốn vươn lên trên mọi người khác bằng vật chấtdanh vọng, chỉ vì vật chấtháo danh mà không loại trừ được lòng tham lam, si mêsân hận, (xin đọc bài quan niệm thiên đàng hay địa ngục). Thật ra con người khi mới sinh ra là trong sáng, không có một vết nhơ nào trong tâm hồn. Đức Khổng Tử đã nói: “Nhân chi sơ là tính bản thiện” hay “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Đúng vậy, nếu ta ở gần những người tốt, ta sẽ trở thành người tốt, nếu ta ở gần người xấu, ta sẽ trở thành người xấu. Do đó, tôi muốn đề cập đến nội tâmngoại cảnh.

Mọi cảnh vật bên ngoài đều thuộc về con người, nếu người đó sinh ra và trưởng thành trong một gia đình gia giáo, và có kiến thức, khi lớn lên họ sẽ chuyển đổi ngoại cảnh phải lệ thuộc vào chính họ, cho nên lúc đó con người là chủ, mà cảnh vật là bạn. Người đời thường nói “Thời thế tạo anh hùng” tức là hoàn cảnh đưa đẩy con người trở thành anh hùng, cũng có người nói “Anh hùng tạo thời thế” tức là người hùng người tài đức tạo nên sự nghiệp vẻ vang trong đời, hai câu này câu nào đúng? Ngoài ra cũng có người nói: Có những người trước kia họ là những kẻ tầm thường, không có tài đức, nhờ được cơ hội tốt họ trở nên con người xuất chúng, như vậy là “Thời thế tạo anh hùng”.

Ngoài ra, còn có những người dẫn chứng là “Vua Quang Trung tuy là người áo vải ở thôn quê, nhưng lại là người tài trí phi thường, nên từ một con người áo vải quê mùa, trở thành một vị tướng giỏi, một ông vua tài trí như vậy không phải là “Anh hùng tạo thời thế” hay sao?. Theo tôi thì tất cả mọi người thành công trên đều là: “Anh hùng tạo thời thế”. Tại sao vậy? Vì nếu thời thế đổi thay mà chúng ta là kẻ bất tài, vô trí lại có dã tâm độc ác, chỉ biết hại người, lợi mình không có “ĐỨC” thì không cải cách gì được hoàn cảnh, nên họ cũng chỉ là kẻ tầm thường như bao nhiêu người khác. Ngược lại, dù cho thời thế có biến đổi hàng trăm ngàn lần đi nữa, đối với người có tài trí, lấy đạo đức làm kim chỉ nam, thì dù trước cảnh thuận hay nghịch họ vẫn là người dũng mãnh, đứng lên cải cách xã hội, làm lên việc lớn, vì họ là người có sẵn cái ĐỨC HẠNH và TÀI TRÍ, được tạo dựng bởi nguồn gốc của bản thể.

Nếu ta biết nêu cao ĐỨC HẠNH làm đầu, ta phải học hỏi, nghiên cứu, tìm hiểu về triết giáo nhà Phật, do các vị cao tăng thuyết giảng, đều tùy phương tiện để độ thế giúp đời theo chân lý của đức Phật Tổ, mà thuyết pháp, giảng lý hoặc thuật tích hoặc chỉ luật, có khi nói xa, có lúc nói gần, có lần nói ám, dùng đủ cách để đem ánh ĐẠO VÀNG giáo hóa nhân loại sáng tỏ đại ý quý hóa của đường lối tu học, hầu tạo cho con người có một bản ngã viên thành, hợp quần trong nhân loại và một lý trí thông minh, phát huy được tính từ thiện, tình thương và khoa học để phục vụ cho chúng sinh.

Quý độc giả hãy cùng tôi đọc lớn một đoạn kinh Pháp Cú. (Đhammapada), trong đó Đức Phật đã đọc lên cho những người trong bộ tộc Thích Ca và Câu Ly cùng nghe sau khi ngài ngăn chặn được một cuộc chiến tranh tàn sát lẫn nhau giữa hai tộc nói trên như sau:

1.- Hạnh phúc cho chúng ta sống không thù hận, giữa những người thù hận, chúng ra sống không hận thù.

2.- Hạnh phúc thay cho chúng ta sống khoẻ mạnh, giữa những người ốm đau, chúng ta sống khoẻ mạnh.

3.- Hạnh phúc thay cho chúng ta sống không tham dục, giữa những người tham dục, chúng ta sống không tham dục.

4.- Hạnh phúc thay cho chúng ta sống không bị ràng buộc, chúng ta được sống an lạc, như các vị ở cõi trời quang âm.

5.- Thắng lợi thì bị thù oán, thất bại thì đau khổ, đừng nghĩ tới thắng lợi, chúng ta sẽ được sống trong an lànhhạnh phúc.

Nếu chúng ta có thể đọc tụng đoạn kinh trên với TÂM chân thành, chúng ta sẽ sống thích hợp với những lời dậy của Đức Thế Tôn và cùng nhau phục vụ cho mục tiêuchúng ta hằng tha thiết, ao ước.

Ngoài ra chúng tôi cũng xin quý vị cùng tôi tìm hiểu về thuyết “Tam Bảo” của Đức Phật Thích Ca đó là:

1.- Chư hành vô thường
2.- Chư Pháp vô ngã
3.- Cứu cánh niết bàn.

Điểm một: “Chư hành vô thường” có nghĩa là mọi sự nhất thiết trên thế gian này đều biến đổi không ngừng, đó là căn bản đại cương của Phật Pháp.

Điểm hai: “Chư Pháp vô ngã” có nghĩa là tất cả mọi Pháp hữu vi, hay vô vi đều không có thực thể tức là không có cái “ngã” cái ta ở trong ấy. Hữu vi pháp tuy có tác dụng mà không có thường trụ, vô vi pháp tuy có thường trụ mà lại không có tác dụng.

Điểm ba: “Cứu cánh niết bàn” là mục đích cuối cùng của Phật Giáo. Gọi chung ba điểm trên là “Tam pháp giáo ấn”.

Mặt khác chúng ta cùng nhau đọc, học 10 điều tâm niệm của Đức Thế Tôn sau đây, để lấy đó làm kim chỉ nam cho cuộc đời tu học của mình.

1.- Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ sanh.

2.- Ở đời thì đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.

3.- Cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo.

4.- Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.

5.- Việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường, kiêu ngạo.

6.- Giao tiếp đừng cầu lợi cho mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa.

7.- Với người thì đừng mong tất cả đều thuận theo ý mình, vì thuận theo ý mình thì lòng kiêu căng.

8.- Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có ý mưu đồ.

9.- Thấy lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải động.

10.- Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạchnhân ngã chưa xả.

Bởi vậy Đức Phật dậy:

- Lấy bệnh khổ làm thuốc thần.
- Lấy hoạn nạn làm giải thoát.
- Lấy khúc mắc làm thú vị.
- Lấy ma quân làm bạn đạo.
- Lấy khó khăn làm thích thú.
- Lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ.
- Lấy người chống đối làm nơi giao du.
- Coi thi ân như đôi dép bỏ.
- Lấy sự xả lợi làm vinh hoa.
- Lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh.

Nếu chấp thuận trở ngại thì lại thông suốt, mà mong cầu thông suốt thì lại bị trở ngại. Đức Thế Tôn thực hiện “Huệ Giác Bồ Đề” để ngay trong sự trở ngại như Uông Quật hành hung, Đề Bà quấy phá, mà ngài giáo hóa cho thành đạo quả. Như vậy há không phải sự chống đối lại làm sự thuận lợi và sự phá hoại lại làm sự tác thành cho ta?.

Ngày nay những người học đạo trước hết không dấn mình vào trong mọi sự trở ngại, nên khi trở ngại đến thì không biết ứng phó, chánh pháp chí thượng vì vậy mất hết, đáng tiếc đáng hận biết chừng nào!.

“Luận bảo vương tam muội”

Trên đây tôi chỉ dẫn giải một vài đoạn tâm đắc mà tôi đã học, đọc, nghe và hỏi được để dẫn chứng cụ thể làm kim chỉ nam cho những ai muốn loại trừ cái khổ, cái buồn, cái tham, cái hận mà vẫn còn chôn sâu tận đáy lòng ra khỏi cái “TÂM” để lòng được thanh thoát, muốn được như vậy không phải nhất thời mà phải kiên gan, nhẫn nại bền chí, quyết tâm dần dần mới thực hiện được.

Ngoại cảnh cũng làm cho con người dần dần tỉnh ngộ và thấm dần đạo hạnh ở nơi kinh sách, nghe thuyết giảng của các vị chân tu, cao tăng. Thật khó đối với những ai không có “hạnh nhẫn nhục”, để kiên định lập trường đi theo con đường tu thân. "TÂM" có thanh thoát trong sáng thì thân mới khoẻ mạnh, cường tráng, trí mới minh mẫn, từ đó mới hăng say với công việc thiện. Có nhiều người quan niệm Nhẫn là phải chịu nhục, nhưng kỳ thực thì nhẫn có phải là nhục không?, Nhẫn nhục là chữ Hán, dịch theo tiếng Việt là nhịn chịu, chứ không phải nhẫn là nhục.

Sau đây tôi nhắc đến câu chuyện cổ tíchliên quan đến Bồ Tát Quan Thế Âm để sáng tỏ thêm ý nghĩa nhẫn nhục. Câu chuyện rất được nhiều người biết đến là “Quan Âm Thị Kính”. Thị Kính là người đàn bà có chồng. Một hôm chồng đang ngủ, nàng thấy có sợi râu mọc ngược lên, nàng lấy kéo cắt bỏ. Chẳng may bị chồng và gia đình chồng hiểu lầm, cho nàng có ý ám sát chồng, nên nàng bị trả về cha mẹ đẻ, lễ giáo ngày xưa rất nghiêm khắc, người con gái ở trong gia đình đàng hoàng khi có chồng, mà bị đuổi về là một sự nhục nhã lớn cho gia đình. Thị Kính đang kham chịu cái nhục này, nếu là hạng nữ nhi thường tình không chịu nổi thì hủy mình tự tử. Thị Kính không làm việc đó, giả trai vô chùa tu, đó là bước nhẫn nhục thứ nhất.

Vốn dĩ người có nhiều vẻ đẹp nên khi xuất gia ở chùa, Thị Kính bị các cô để ý. Thị Mầu là một trong những cô ấy, nàng lại là một cô gái không đoan chính, thiếu đạo đức. Nàng thương Thị Kính, không được Thị Kính đáp lại nên sanh lòng oán hận, bèn lang chạ với kẻ thất phu có thai, rồi cáo gian cho Thị Kính là tác giả của bào thai đó. Thị Kính bị trị tội đánh đập. Khi bị hành hình nhục nhã, tại sao Thị Kính không minh oan rằng: Tôi là người nữ giả trai đi tu, mà cứ làm thinh mà chịu? Bấy giờ không có chùa Ni mà chỉ có chùa Tăng, nên Thị Kính phải giả trai để được ở chùa tu. Nếu khai mình là người nữ thì được tha tội, nhưng về chùa thì không được chấp nhận cho ở tu chung với Tăng. Đó là trường hợp thứ hai Thị Kính nhẫn nhục để được tu, dù với giá nào cũng phải chịu. Trước Thị Kính cam chịu nhục nhã ở đời để đi tu. Bây giờ cam chịu mọi hình phạt đau đớn nhục nhã, chờ thả ra để được về chùa tu, vì sự tu mà nhẫn như vậy. Thử hỏi, hai cái nhẫn này dễ làm hay khó?. Nếu là chúng ta chắc không ai chịu nổi.

Nhưng tới lần thứ ba thì tuyệt đỉnh. Sau khi bị đánh đập, tai tiếng không tốt. Thị Kính đã bị nhà chùa nghi, không cho ở trong chùa mà cho ở ngoài hiên. Bây giờ Thị Mầu sanh con ra bỏ trước hiên chùa. Nếu không quan hệ tình ruột thịt, thì đứa bé khóc mặc nó, hà tất gì mình phải quan tâm đến! Nhưng khi thấy đứa bé vô tội bị bỏ hoang Thị Kính liền ôm vào nuôi dưỡng. Bây giờ muốn trắng án, chỉ cần không nhận không nhìn đứa bé là được giải oan rồi. Nhưng khi thấy đứa bé bị bỏ hoang, nóng ruột ôm nuôi, như vậy ai tin Thị Kính trong sạch? Chính Hoà Thượng cũng sinh ra nghi ngờ. Tại sao Thị Kính làm như thế? Vì lòng từ bi! Thà cứu một mạng sống mà mình bị khổ, hơn là ngồi yên để mặc cho người đau khổ.

Nuôi đứa bé không dễ dàng. Đã bị dư luận không tốt, lại còn không phương tiện nuôi dưỡng, không tiền, không sữa, không thức ăn... phải vào xóm làng để xin, đi tới đâu cũng bị khinh thường, phỉ báng. Thế mà Thị Kính mặc nhiên, ai chửi thì chửi, ai khinh thì khinh, việc nên làm vẫn cứ làm. Công đức ấy to biết chừng nào, lòng từ bi bao lớn, đức nhẫn nhục có thiếu không? Do đức nhẫn nhục cao tuyệt vời ấy, nên lòng từ bi mới viên mãn. Nhẫn nhụcTừ Bi viên mãn thì quả Phật hiện kề. Bây giờ Thị Kính được tôn xưng là “Bồ Tát Quan Thế Âm”.

Vậy tất cả những người phát tâm tu, đều phải học hạnh nhẫn nhục, người ta nói một câu nặng một, đáp lại một câu nặng gấp hai thì chưa phải là người có tâm tu. Nhẫn không có nghĩa là gồng mình chịu, mà dùng trí tuệ thấy đúng lẽ thật, buông xả mọi hơn thua với người khác, không cố chấp phiền hận, người chửi mình, mình không nhận đó là xả bỏ. Nếu mà bị chửi một câu mà nhớ hoài không quên, rồi sanh sân si, phiền não, thù hằn, tự mình chuốc khổ và làm người khác khổ lây, đó là không nhẫn, không tu. Vậy tôi mong mỏicầu xin cho tất cả mọi ngườixuất gia hay tại gia, cư sĩ hay Phật tử, nếu những ai đã biết đi chùa lễ Phật hoặc có một niềm tin nơi Đức Thế Tôn thì hãy tâm niệm và noi gương nhẫn nhục mà tôi đã dẫn chứng ở trên.

Mong lắm thay! 

Đọc Thêm:
Oan Ức Không Cần Biện Bạch, Tịnh Thuỷ

Quan Điểm Của Phật Giáo Về Phụ Nữ, Như Hạnh


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14521)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38517)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14661)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14662)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14085)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14979)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16577)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29924)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16239)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15566)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14928)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14920)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17898)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15605)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38703)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26756)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39696)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50817)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38776)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35084)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18333)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16494)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42435)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39284)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35643)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17478)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46558)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17173)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28518)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 19016)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17610)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17130)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17574)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16556)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16921)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30880)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16956)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18529)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18491)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17398)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18180)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17089)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23529)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 17014)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17477)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17696)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17078)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15759)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18070)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17450)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17233)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29553)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27761)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18199)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16133)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15390)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23072)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14864)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55155)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14217)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant