Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nghĩ về dịch kinh Phật

06 Tháng Hai 201200:00(Xem: 13115)
Nghĩ về dịch kinh Phật
NGHĨ VỀ DỊCH KINH PHẬT
Cư Sĩ Nguyên Giác

blankPhiên dịch Kinh Phật là một cơ duyên hạnh phúc ngàn đời, không chỉ cho riêng những người dịch kinh, mà cả cho những dân tộc sẽ được đọc lời Đức Phật bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao, thơ kệ, kịch nghệ, cải lương... vì ngôn ngữ là cửa vào tư tưởng. Do vậy, đó là những công trình xứng đáng tán thán và hỗ trợ.

Một công trình lớn như thế đang được thực hiện để dịch từ Hán tạng sang Việt ngữ, theo lời Tiến Sĩ Trần Kiêm Đoàn trong bài viết “Cá Nghe Kinh” đăng trên mạng Giao Điểm ngày 25-1-2012.

Trong bài có một số thông tin về việc dịch thuật như sau, trích:

“...Ngoài nước, năm 2004, kẻ viết bài nầy được mời vào Hội đồng phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam từ Hán tạng. Đây là một dự án sử dụng phần mềm của những chương trình chuyên dịch tinh tếhiện đại của vi tính vào công trình phiên dịch. Tất cả 2372 bộ Kinh trong Hán Tạng được phiên âm và lược dịch bằng máy vi tính trong vòng 28 giờ. Các bộ kinh ngắn chỉ cần dưới 10 giây đồng hồ. Các bộ kinh lớn như Hoa Nghiêm (80 quyển) dịch trong 11 phút, bộ Đại Trí Độ Luận 17 phút, và bộ Đại Bát Nhã (600 quyển) 50 phút...

...Bởi vậy, trong lĩnh vực nhân văn mà đặc biệtngôn từ, ngữ văn thì máy móc chỉ là phương tiện phụ trợ chứ không thể thay thế hẳn được con người. Khi cái máy vi tính làm công việc chuyển ngữ trong vòng 28 tiếng đồng hồ thì phải cần tới một đội ngũ của hàng trăm đầu óc chuyên môn, tinh lọc và hiệu đính trong một thời gian không thể dưới vài ba mươi năm. Đã hơn 10 năm qua và liên tục tới hiện tại, có từ 50 đến 100 tăng ni, học giả... đông nhất là ở chùa Châu Lâm và trung tâm Liễu Quán Huế đang tập trung vào công tác hiệu đínhhoàn thiện Đại Tạng Kinh Việt Nam sau khi Đại Tạng Kinh Hán Việt được dịch sang Thuần Việt bằng chương trình chuyển ngữ vi tính...”(hết trích – link: http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=6369 )

Dịch bằng phần mềm vi tính? Đây cũng là chỗ để suy nghĩ, và là nơi các học giả đang nhận nhiệm vụ dịch thuật cẩn trọng. Chúng ta không biết chính xác phần mềm có mức độ thế nào, nhưng thử đưa bài Bát Nhã Tâm Kinh chữ Hán để dịch ra Việt ngữ, không rõ rồi có thể ra gần gần đúng với một trong những bản đang tụng hiện nay hay không. Chưa nghe giáo hội công bố chi tiết nhiều hơn, nhưng chắc chắn đã có những vị cao tăng nêu lên các câu hỏi tương tự.

Dịch thuật trước tiên là diễn bằng ngôn ngữ của bản thân người dịch, và do vậy phản ánh cả trình độ của người dịch, không chỉ về ngữ vựng, mà còn cả một bối cảnh văn hóa mà người dịch trưởng thành.

Thí dụ, để dịch “tháng mười hai” sang Anh ngữ, chúng ta có chữ “December”’ tuy nhiên, khi dịch “tháng chạp,” có thể khó có chữ tương đương, và lúc đó đành phải lấy chữ “December” (nếu muốn chỉ dương lịch) hay “the last month of lunar year” (tháng cuối của năm âm lịch) để tạm dùng. Nghĩa là, ngôn ngữ trở thành ngón tay chỉ mặt trăng. Trong “tháng chạp,” người Việt cảm nhận có một không khí cận Tết, một làn gió se se lạnh, với những ngày cúng đưa ông Táo, có văng vẳng tiếng pháo sắp nổ, có giây phút sắp đi lễ chùa giao thừa... Nhưng “December” trong Anh ngữ lại là tháng của mua sắm, tháng của Noel, của tặng quà. Do vậy, dịch là một công trình văn hóa lớn.

Trên mạng Google cũng có phần mềm dịch nhiều ngôn ngữ, ở địa chỉ: http://translate.google.com/. Điểm cần suy nghĩ, nhiều công ty quảng cáo tại Hoa Kỳ, khi cần dịch các quảng cáo dù chỉ dài có nửa trang giấy, hay chỉ đọc trong có 30 giây trên đàì phát thanh hay TV, lại đưa cho các dịch giả chuyên nghiệp mà họ đã tin cậy. Tại sao họ không tiết kiệm bằng cách sử dụng phần mềm phiên dịch Google? Cũng có thể, họ sẽ sử dụng phần mềm là để kiểm soát xem bản dịch của người phiên dịch và của phần mềm có sai lệch bao nhiêu phần? Chúng ta, nơi đây, không biết chính xác tại sao.

Thêm nữa, đối với một số công ty quảng cáo, sau khi yêu cầu dịch giả chuyển từ Anh ngữ sang Việt ngữ, để dò mức độ chính xác liền đưa bản dịch này cho một dịch giả khác để yêu cầu dịch ngược sang Anh ngữ. Đó là công tác “Back-translation” (Dịch trở lại ngôn ngữ gốc) (1)

Nếu chúng ta thử dịch ngược một số bài Bát Nhã Tâm Kinh Việt ngữ về lại Hán ngữ, có thể sẽ không thấy gần nhau lắm. Nói như thế, không có nghĩa phủ nhận các bản văn không dịch ngược về chính xác, bởi vì chất thơ của người dịch, và vì cấu trúc độc đáo của các ngôn ngữ có thể sẽ không làm tiến trình dịch ngược chính xác được.

Tới đây, chúng ta có thể tìm một điển hình về dịch kinh để khảo sát. Nơi đây sẽ tập trung về cách dùng thì hiện tại (thí dụ, chữ ‘là’) và thì tương lai (thí dụ, chữ ‘sẽ là’) trong một bản kinh qua các bản dịch khác nhau.

Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm, bản Hán Dịch: Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà; Việt dịch: Thích Đức Thắng - Hiệu đính & Chú thích: Tuệ Sỹ, trích:

SÁU PHÁP

38 . PHẨM LỰC

KINH SỐ 3[71]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại bên bờ sông Ưu-ca-chi.[72] Bấy giờ, Thế Tôn đến dưới một gốc cây, tự trải toạ cụ mà ngồi, chánh thân, chánh ý, buộc niệm trước mặt.

Lúc ấy, có một bà-la-môn đi đến chỗ kia. Thấy dấu chân của Thế Tôn rất kỳ diệu, bà-la-môn này nghĩ thầm: ‘Đây là dấu chân của người nào, là trời, rồng, quỷ thần, càn-thát-bà,[73] a-tu-la, người hay phi nhân hay là Phạm thiên tổ tiên của ta?’ Lúc ấy, bà-la-môn liền theo dấu chân mà đi tới, từ xa trông thấy Thế Tôn ngồi dưới một gốc cây chánh thân, chánh ý, buộc niệm trước mặt. Thấy vậy, ông bèn hỏi:

“Ông là vị trời chăng?”

Thế Tôn bảo:

“Ta chẳng phải là trời.”

“Là càn-thát-bà chăng?”

Thế Tôn đáp:

“Ta cũng chẳng phải là càn-thát-bà.”

“Là rồng chăng?”

Đáp:

“Ta chẳng phải là rồng.”

“Là dạ-xoa chăng?”

Phật bảo bà-la-môn:

“Ta chẳng phải là dạ-xoa.”

“Là Tổ phụ chăng?”

“Ta chẳng phải là Tổ [718a] phụ.”

Lúc ấy, bà-la-môn hỏi Thế Tôn:

“Vậy Ngài là ai?”

Thế Tôn nói:

“Người có ái thì có thủ[74], có thủ thì có tham ái, nhân duyên hội hợp sau đó từng cái sanh ra nhau như vậy, như vậy, năm khổ thủ uẩn không bao giờ chấm dứt. Vì đã biết ái rồi, thì biết năm dục, cũng biết sáu trần ngoài và sáu xứ trong, tức biết gốc ngọn thủ uẩn này.”

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ này:

Thế gianngũ dục;

Ý là vua[75] thứ sáu.

Biết sáu pháp trong ngoài.

Nên niệm diệt gốc khổ.

“Cho nên phải tìm phương tiện diệt trừ sáu sự trong ngoài. Bà-la-môn, hãy học điều như vậy.”

Bà-la-môn nghe Phật dạy như vậy, tư duy nghiền ngẫm, ôm ấp trong tâm không rời, liền từ trên chỗ ngồi dứt sạch trần cấu, được mắt pháp trong sạch.

Bấy giờ bà-la-môn nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.”(hết trích)

(Link: http://hoavouu.com/D_1-2_2-228_4-14121_5-75_6-1_17-143_14-1_15-2/#nl_detail_bookmark)

Chú ý, trong văn bản trên, thì hiện tại được sử dụng. Từ câu hỏi (Ông là vị trời chăng?) cho tới các câu đáp đều dùng thì hiện tại, nghĩa là nói chuyện ngay trước mắt.

Nơi đây, chúng ta có thể dẫn bản kinh tương đương từ tạng Pali, trong này được Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch ra bằng cách sử dụng thì tương lai.

Trong Kinh Tăng Chi Bộ (từ tạng Pali: Anguttara Nikàya), Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt như sau, trích:

Chương Bốn Pháp

Phẩm 04-06

IV. Phẩm Bánh Xe

(36) Tùy Thuộc Thế Giới

1. Một thời, Thế Tôn đang đi trên con đường giữa Ukkatthà và Setabbya. Bà-la-môn Dona cũng đang đi trên con đường giữa Ukkatthà và Setabbya. Bà-la-môn Dona thấy trên những dấu chân của Thế Tôn có dấu bánh xe một ngàn cọng, với vành xe, trục xe và đầy đủ tất cả các tướng khác. Thấy vậy, vị ấy suy nghĩ như sau: "Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay! Những dấu chân này không phải là của loài Người!"

2. Rồi Thế Tôn từ trên đường bước xuống, đến ngồi dưới một gốc cây, ngồi kiết-già, thân thẳng, đặt niệm trước mặt. Bà-la-môn Dona theo dấu chân của Thế Tôn, thấy Thế Tôn đang ngồi dưới một gốc cây đẹp đẽ, khởi lên tịnh tín, các căn tịch tịnh, tâm ý tịch tịnh, đạt được tịnh chỉ do điều phục tối thượng, giống như một con voi được điều phục, được phòng hộ với căn tịch tịnh, thấy vậy Bà-la-môn Dona liền đi đến Thế Tôn; sau khi đến, thưa với Thế Tôn:

- Có phải thưa Tôn giả, Ngài sẽ là vị tiên?

- Hỡi này Bà-la-môn, Ta sẽ không là tiên.

- Có phải thưa Tôn giả, Ngài sẽ là Thát-bà?

- Hỡi này Bà-la-môn, Ta sẽ không Thát-bà,

- Có phải thưa Tôn giả, Ngài sẽ là Dạ-xoa?

- Hỡi này Bà-la-môn, Ta sẽ không Dạ-xoa.

- Có phải thưa Tôn giả, Ngài sẽ là loài Người?

- Hỡi này Bà-la-môn, Ta sẽ không là Người.

- Hỏi "Ngài có phải sẽ là tiên không?", Ngài trả lời: "Này Bà-la-môn, Ta sẽ không phải là tiên". Hỏi "ngài có phải sẽ là Càn-thát-bà không?", Ngài trả lời: "Này Bà-la-môn, Ta sẽ không phải là Càn-thát-bà". Hỏi "Ngài có phải sẽ là Dạ-xoa không?" Ngài trả lời: "Này Bà-la-môn, Ta sẽ không phải là Dạ-xoa". hỏi "Ngài có phải sẽ là loài Người không?", Ngài trả lời: "Ta sẽ không phải loài Người". Vậy sở hành của Ngài là gì và Tôn giả sẽ là gì?

3. - Này Bà-la-môn, đối với những người chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ta có thể là chư Thiên, với các lậu hoặc đã đoạn tận, được chặt đứt từ gốc rễ, được làm thành như thân cây ta-la, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, đối với những người chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ta có thể là Càn-thát-bà, Ta có thể là Dạ-xoa, Ta có thể là Người, với các lậu hoặc đã đoạn tận, được chặt dứt từ gốc rễ, được làm thành như thân cây ta-la, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Ví như, này Bà-la-môn, bông sen xanh, hay bông sen hồng, hay bông sen trắng, sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, vươn lên khỏi nước, và đứng thẳng không bị nước thấm ướt. Cũng vậy, này Bà-la-môn sanh ta trong đời, lớn lên trong đời, Ta sống chinh phục đời, không bị đời thấm ướt. Này Bà-la-môn, Ta là Phật, hãy như vậy thọ trì.

4.

 Với lậu hoặc chưa đoạn,

 Ta có thể là tiên,

 Có thể Càn-thát-bà,

 Có thể là loài chim

 Hay đi đến Dạ-xoa,

 Hay vào trong thai người,

 Với Ta lậu hoặc tận,

 Bị phá hủy, trừ khử

 Như sen trắng tươi đẹp

 Không bị nước thấm ướt,

 Ðời không thấm ướt Ta,

 Do vậy Ta được gọi,

 Ta là Phật Chánh giác,

 Hỡi này Bà-la-môn.” (hết trích)

(Link: http://hoavouu.com/D_1-2_2-228_4-15144_5-75_6-1_17-143_14-1_15-2/#nl_detail_bookmark)

Chỉ thêm một chữ “sẽ” – hay chỉ thiếu một chữ “sẽ” – nghĩa kinh hẳn nhiên khác nhau. Nơi đây, chúng ta không thể khẳng định chính xác lời Đức Phật nói với vị Bà La Môn như thế nào, vì các kinh đã lưu giữ ở dạng truyền khẩu rồi nhiều năm sau mới ghi vào chữ viết. Do vậy, hoặc là trí nhớ ảnh hưởng, hoặc là do diễn dịch sai khác tùy vị thầy.

Nơi đây chúng ta tìm bản tương tự ở Hán Tạng, nhưng bản dịch sẽ do vị thầy khác thực hiện.

Đó là Kinh Tăng Nhất A Hàm, bản Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ; Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu; xuất bản bởi Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam. Đặc biệt, cuối bản này có ghi chú của Cư Sĩ Bình Anson, một học giả Nam Tông, về tính tương thích của đoạn cuối kinh khi đối chiếu Hán Tạng và Pali Tạng.

Trích như sau:

“XXXVIII.1. Phẩm Lực (1)

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Ma-kiệt, bên bờ sông Ưu-ca-chi.

Bấy giờ Thế Tôn đến dưới một gốc cây trải tòa ngồi, chính thân, chính ý, buộc niệm ở trước.

Có một Phạm chí đi đến chỗ đó, Phạm chí này thấy dấu chân của đức Thế Tôn rất là kỳ diệu, liền nghĩ: 'Dấu chân này của người nào? Là của Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Nhơn, Phi nhơn; Phạm thiên, Tổ tiên ta chăng?

Khi đó, Phạm chí noi theo dấu tiến đến trước, xa thấy Thế Tôn ngồi dưới một gốc cây, chính thân, chính ý buộc niệm ở trước; thấy rồi liền nói:

- Ngài là Trời chăng?

Thế Tôn bảo:

- Ta chẳng phải là Trời.

- Là Càn-thát-bà chăng?

- Ta chẳng phải Càn-thát-bà.

- Là Rồng chăng?

- Ta chẳng phải rồng.

- Là Dạ-xoa chăng?

- Ta chẳng phải là Dạ-xoa.

- Là Tổ phụ chăng?

- Ta chẳng phải Tổ phụ.

Lúc đó, Phạm chí hỏi Thế Tôn:

- Thế Ông là ai?

[#]

Thế Tôn bảo:

- Có ái thì có thọ, có thọ thì có ái, nhân duyên hội họp rồi sau mỗi mỗi tương sinh. Như thế, năm thạnh ấm không có lúc đoạn dứt. Ðã biết ái thì biết ngũ dục, cũng biết sáu trần bên ngoài, sáu nhập bên trong, tức biết gốc ngọn của thạnh ấm này.

Lúc ấy Thế Tôn liền nói kệ:

'Thế gian có ngũ dục,

Ý là vua thứ sáu,

Biết sáu thứ trong ngoài,

Hãy nhớ dứt mé khổ'.

Thế nên, hãy cầu phương tiện diệt sáu việc trong ngoài. Như thế, Phạm chí, nên học điều này.

Bấy giờ, Phạm chí kia nghe Phật dạy như thế, tư duy luyện tập không rời tâm, liền ngay chỗ ngồi, các trần cấu dứt, được pháp nhãn thanh tịnh.

Bấy giờ Phạm chí ấy nghe Phật dạy xong, hoan hỷ vâng làm.

[#]

Ghi chú:

Đoạn [#]...[#] dường như không tương thích với tinh thần của bài kinh. Bài kinh tương đương trong Tăng Chi Bộ là kinh "Tùy thuộc thế giới", AN IV.36, trong đó, Đức Phật trả lời Bà-la-môn (Phạm chí) Dona rằng:

- "... Này Bà-la-môn, đối với những người chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ta có thể là chư Thiên, với các lậu hoặc đã đoạn tận, được chặt đứt từ gốc rễ, được làm thành như thân cây ta-la, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, đối với những người chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ta có thể là Càn-thát-bà, Ta có thể là Dạ-xoa, Ta có thể là Người, với các lậu hoặc đã đoạn tận, được chặt dứt từ gốc rễ, được làm thành như thân cây ta-la, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Ví như, này Bà-la-môn, bông sen xanh, hay bông sen hồng, hay bông sen trắng, sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, vươn lên khỏi nước, và đứng thẳng không bị nước thấm ướt. Cũng vậy, này Bà-la-môn sanh ta trong đời, lớn lên trong đời, Ta sống chinh phục đời, không bị đời thấm ướt. Này Bà-la-môn, Ta là Phật, hãy như vậy thọ trì."

-- (Bình Anson, 02-2004) (hết trích)

(Link: http://hoavouu.com/D_1-2_2-228_4-14050_5-75_6-1_17-143_14-1_15-2/#nl_detail_bookmark)

Có thể chú ý nơi đây, trong đoạn ghi chú của Cư Sĩ Bình Anson có dẫn đoạn kinh do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, trong đó sử dụng cách đặt câu theo văn phạm của thể điều kiện (conditional sentence), nghĩa là “đối với thế này... thì có thể thế kia...”

Do vậy, chúng ta sẽ thấy nghĩa dị biệt ở:

- câu hỏi và trả lời đều ở thì hiện tại (2 bản dịch từ Bán Tạng),

- câu hỏi và trả lời đều ở thì tương lai (bản Việt dịch từ Pali của HT Thích Minh Châu)

- câu giải thích của Đức Phật ở bản dịch của HT Thích Minh Châu là ở thể điều kiện.

Nếu tìm đọc bản Anh Văn dịch từ Tạng Gandharan, chúng ta sẽ thấy dùng ở thì tương lai. Học giả Linda Blanchard, trên trang nhà http://justalittledust.com/blog/?p=768 với bài viết nhan đề “Revisiting Dona the Brahmin” (Đọc Lại Kinh Về Bà La Môn Dona) đã nói về một số cổ bản trong tạng kinh bằng tiếng Gandharan, được khám phá và lưu giữ năm 1994 bởi British Library (Thư Viện Anh Quốc).

Các kinh văn tìm được này được suy đoán là đã giấu trong các nồi đất sét, chôn xuống đất thay vì quăng bỏ đi sau khi chép lại từ một thư viện ở nơi bây giờ là vùng viễn đông Afghanistan, trong khoảng giữa Jalalabad và Peshawar, một khu vực từng có nên văn hóa cường thịnh có tên là Gandhara. Các bản văn Phật Giáo tìm được còn một phần đọc được, được ước tính là đã viết từ giữa thế kỷ đầu tiên, tức là khoảng năm 50 sau công nguyên, trong đó có kinh AN 4.36 (Kinh Tăng Chi Bộ 4.36).

Theo Linda Blanchard, bản viết bằng ngôn ngữ Gandharan xưa cổ hơn bản Pali.

Riêng bản kinh AN 4.36 này, sử dụng ở thì tương lai, từ câu hỏi của Bà La Môn cho tới câu trả lời của Đức Phật. Nơi đây, người viết sẽ dịch ra Việt ngữ bản Anh văn do Blanchard diễn lại từ cổ bản Gandharan. Ghi nhận, toàn văn dùng thì tương lai, chỉ duy câu cuối Đức Phật nói là dùng thì hiện tại.

Trích dịch, nơi đây sẽ theo sát nghĩa từng chữ:

Đức Thế Tôn, đang đi giữa các thị trấn, đã bước ra khỏi đường lộ. Ngồi gần một gốc cây, ngài an nghỉ trong ngày.

Gần như cùng lúc đó, một Bà La Môn tên là Dhona đi cùng một đường lộ. Dhona nhận thấy các hình bánh xe trên dấu chân của Đức Phật trên mặt đường lộ trước mặt, hình dấu bánh xe ngàn cánh, mọi phần đầy đủ, sắc nét, chói sáng. Theo dấu chân Đức Phật, Dhona thấy Đức Phật trước đó đã đi trên đường lộ, đã bước ra khỏi đường lộ và ngồi gần một gốc cây. Tướng diện Đức Phật đẹp, bình an, phong thái bình an, đạt mức cao nhất an bình của luyện tâm... một người bảo vệ, được huấn luyện, được kiểm soát, với mọi căn kềm chế, như một mặt hồ vắng lặng, trong sáng.

Thấy Đức Thế Tôn, Bà La Môn tới gần, và nói:

“Thưa ngài, ngài sẽ là một vị trời?”

“Bà La Môn, ta sẽ không là một vị trời.”

“Thưa ngài, ngài sẽ là một càn thát bà?”

“Bà La Môn, ta sẽ không là một càn thát bà.”

“Thưa ngài, ngài sẽ là một dạ xoa?”

“Bà La Môn, ta sẽ không là một dạ xoa.”

“Thưa ngài, ngài sẽ là một người?”

“Bà La Môn, ta sẽ không là một người.”

“Được hỏi là, ‘Thưa ngài, ngài sẽ là một vị trời?’ ngài nói rằng, ‘Bà La Môn, ta sẽ không là một vị trời.’ Được hỏi là, ‘Thưa ngài, ngài sẽ là một càn thát bà?’ ngài nói rằng, ‘Bà La Môn, ta sẽ không là một càn thát bà.’ Được hỏi là, ‘Thưa ngài, ngài sẽ là một dạ xoa?’ ngài nói rằng, ‘Bà la Môn, ta sẽ không là một dạ xoa. Được hỏi là, ‘Thưa ngài, ngài sẽ là một người?’ ngài nói rằng, ‘Ta sẽ không là một người.’ Vậy rồi, thưa ngài, ngài sẽ là ai?”

“Bà La Môn, ta là Bậc Giác Ngộ. Ta là Bậc Giác Ngộ.” (hết trích dịch)

Chú ý câu cuối: “Brahmin, I am the Awakened One. I am the Awakened One.” Có thể dịch là Người Giác Ngộ, tuy nhiên để không nhầm với câu ‘ta sẽ không là một người’ nên được dịch là Bậc Giác Ngộ.

Như thế, bản Gandharan viết ở thì tương lai.

Trong bản Anh ngữ dịch từ Tạng Pali bởi nhà sư Thanissaro Bhikkhu, Kinh Anguttara Nikaya AN 4.36 “Dona Sutta: With Dona” (link: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/an/an04/an04.036.than.html) sẽ được người viết dịch ra Việt ngữ như sau để đối chiếu. Ghi nhận, các câu hỏi và đáp đều ở thì hiện tại, nhưng lời giải thích của Đức Phậtvăn phạm dùng ở thể điều kiện (would be = có thể là), song song cách dùng ‘if they were not abandoned” (nếu chúng không bị loại bỏ) nhưng cách đặt câu này là điều kiện cách không có thật (were not), nghĩa là đã không xảy ra, rồi kế tiếp là dùng câu “those are abandoned by me” (chúng đã bị ta loại bỏ) là thì hiện tại và là chuyện có xảy ra. Trong văn phạm Việt ngữ, không được minh bạch như Anh ngữ chỗ này.

Trích dịch như sau:

Một hôm, Đức Phật đang đi trên đường giữa Ukkattha và Setabya, trong khi Bà La Môn Dona cũng đi cùng đường như thế. Dona thấy dấu chân Đức Phật. in hình bánh xe ngàn cánh với cọng và trục in đầy đủ trên lộ. Khi thấy, Dona chợt nghĩ, “Tuyệt vời! Thực tuyệt vời! Đây không phải dấu chân của loài người!”

Rồi Đức Phật rời đường lộ, tới ngồi dưới gốc một cây – chân xếp bằng, thân thẳng. tâm chú niệm trước mặt. Dona theo dấu chân, thấy Đức Phật ngồi nơi gốc cây: tự tin, gợi lên tự tin, các căn bình an, tâm bình an, đạt sự kiểm soátan tĩnh cao nhất, thuần thục, cảnh giác, các căn phòng hộ, một đại nhân. Thấy Đức Phật, Dona bước tới và nói, “Thưa Thầy, ngài là một vị trời?”

“Không, bà la môn. Ta không là một vị trời.”

“Ngài là một càn thát bà?”

“Không...”

“... một dạ xoa?”

“Không...”

“...một người?”

“Không, bà là môn. Ta lhông phải là một người.”

“Khi được hỏi, ‘Ngài là một vị trời?” ngài trả lời, ‘Không, ta không phải một vị trời.’ Khi được hỏi, ‘Ngaì là một càn thát bà?’ ngài đáp, ‘Không, bà la môn. Ta không phiả là một càn thát bà.’ Khi được hỏi, ‘Ngài là một dạ xoa?’ ngài đáp, ‘Không, bà la môn, ta không phải là một dạ xoa.’ Khi được hỏi, ‘Ngài là một người?’ ngài trả lời, ‘Không, bà la môn. Ta không phải là một người.’ Vậy rồi ngài là gì?”

“Bà la môn, các lậu hoặc mà bởi chúng -- nếu chúng không bị loại bỏ -- ta có thể là một vị trời: Những lậu hoặc bị ta loại bỏ, gốc rễ chúng đã bị hủy diệt, làm y hệt như gốc rễ cây palmyra, bị nhăn chận các điều kiện để phát triển, không để cho khởi dậy tương lai. Các lậu hoặc mà bởi chúng -- nếu chúng không bị loại bỏ -- ta có thể là một càn thát bà... một dạ xoa... một người. Những lậu hoặc đó đã bị ta loaị bỏ, gốc rễ chúng đã bị hủy diệt, làm y hệt như gốc rễ cây palmyra, bị nhăn chận các điều kiện để phát triển, không để cho khởi dậy tương lai.

“Cũng y như một hoa sen đỏ, xanh hay trắng -- mọc trong nước, lớn trong nước, vươn cao trên mặt nước -- đứng không bị nhiễm ô bởi nước, tương tự như thế ta – sinh trong thế gian, lớn trong thế gian, đã vượt qua thế gian -- sống không nhiễm ô bởi thế gian. Bà la môn, hãy nhớ rằng ta ‘đã giác ngộ.’” (hết trích dịch)

Trong phần ghi chú, nhà sư học giả Thanissaro nói rằng, Bà La Môn Dona đặt câu hỏi trong thì tương lai, nên đã gây ra nhiều cuộc thảo luận rằng có phải Dona hỏi về tương lai hay hiện tại của Đức Phật. Thanissaro dẫn ra cuốn văn phạm tiếng Pali “Introduction to Pali” trong đó A.K. Warder nói rằng thì tương lai thường dùng để chỉ sự ngạc nhiên về một điều gì đó ở hiện tại. Nơi đây, đó là sự ngạc nhiên của Dona khi thấy dấu chân Đức Phật.

Nhưng Thanissaro cũng nói, có thể rằng các câu trả lời của Đức Phật đối với các câu hỏi của Dona là một hình thức ‘chơi chữ’ – nên đã được đặt trong thì tương lai (ta sẽ không là...) nhưng hàm cả nghĩa hiện tại và tương lai.

Thanissaro cũng ghi nhận rằng Đức Phật trong kinh đã nhiều lần không tự xem như là ‘một người,’ bởi vì, theo Thanissaro:

 “...một người đã giác ngộ không thể bị định nghĩa ở bất kỳ cách nào hết. Về điểm này, hãy xem Trung Bộ Kinh MN 72, Tương Ưng Bộ Kinh SN 22.85, Tương Ưng Bộ Kinh 22.86, và bài ‘"A Verb for Nirvana" (Một Động Từ Cho Niết Bàn). Bởi vì, một tâm có chỗ để dính mắc thì bị ‘trụ’ vào bởi sự dính mắc đó, một người đã giác ngộ không có chỗ nào trong bất kỳ thế giới nào: đó là lý do vì sao người đã giác ngộ không bị nhiễm ô bởi thế gian, y hệt hoa sen không nhiễm ô bởi nước.” (hết trích dịch)

Tất cả những trình bày nêu trên không có ý nói rằng đã có vị nào dịch sai, hay dịch không chính xác, cũng không dám có ý nói rằng các bản Hán Tạng, Gandharan và Pali có gì chính xác hơn khi so với nhau. Chuyện đó là chuyện của những người khảo sát văn bản.

Nơi đây, chúng ta muốn nói rằng thêm hay bớt một chữ (như chữ ‘sẽ’) là bản văn có thể đã có nghĩa khác.

Do vậy, nếu dịch bằng phần mềm, cho dù được điều chỉnh lại bởi các học giả, là công việc cần sự chú ý cực kỳ cẩn trọng. Chúng tathể không cần dịch ngược (back-translation) để dò sự chính xác, nhưng đời sau có thể sẽ tranh cãi chỉ vì những sơ suất của một bản dịch.

Cả nước đang chờ đợi một Đại Tạng Kinh Việt Ngữ, và công trình phiên dịch của giáo hội chắc chắn đang để lại một dấu ấn rất lớn trên dòng lịch sử của Phật Giáo Việt Nam.

 

GHI CHÚ:

Xem thêm ở: http://en.wikipedia.org/wiki/Translation

Ý kiến độc giả:

Được gửi bởi người đọc (Guest) vào 02/03/2012
Kính,

Nếu dùng google để dịch Hán-Việt thì có thể phần chính xác cao hơn vì đặc điểm gần gũi giữ ngôn ngữ. Hay cách tốt nhất là chỉ dịch Hán sang Hán-Việt thì dộ chính xác có thể lên đến hơn 90%.


Tuy nhiên nếu dùng các máy dịch để chuyển ngữ Kinh luận từ ngôn ngữ khác tiếng Hán ... thì người viết bài này thật sư khuyên là không nên vì độ chính xác xuống đến chừng 40% là cùng. Nếu có cần có lẽ chỉ nên mượn tạm máy di-ch làm bàn gõ sau đó cần dịch giả điều chỉnhhiệu đính lại.


Người viết bài này hiện là một chuyên gia về computer science đã đóng góp khá nhiều bài viết và khoa học máy tính cho nên hy vọng không đến nỗi nào viết sai ở đây.


Để chứng minh cho quý độc giả thấy sư "sai lạc" đến cở nào trong khi dùng google để dich thì xin trích dẫn một đoạn lấy trong Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận của Ngài Tsongkhapa bản Anh ngữ (Xin miễn cười)


"As it states here, by the time he was twenty-one, he had become a full-fledged scholar after training in the topics of knowledge common to Buddhists and non-Buddhists, the four knowledges—of grammar, logic, the crafts, and medicine. More specifically, the great Dro-lung-ba (Gro-lung-pa) said that at age fifteen, after hearing Dharmakirti's Drop of Reasoning (Nyaya-bindu-prakarana) one time, Atisha debated with a famous scholar, a non-Buddhist logician, and defeated him, whereby his fame spread everywhere." (P. 37 Vol 1 The Great Treatise on the Stages of the Path to Enlightenment: The Lamrim Chenmo. Tsongkhapa. Snow Lion. 2000).


Đã đươc dịch thành:

"Khi nó nói ở đây, bởi thời gian ông là 21, ông đã trở thành một học giả chính thức sau khi được đào tạo trong các chủ đề kiến thức chung cho các Phật tử hay không Phật tử, bốn kiến thức của logic, ngữ pháp, hàng thủ công, vày học.Cụ thể hơn, vĩ đại Dro phổi-ba (Gro-lung-pa) cho biết rằng ở tuổi 15, sau khi nghe Drop Dharmakirti của lý luận (Nyaya-bindu-prakarana) một thời gian, Atisha tranh luận với 1 học giả nổi tiếng, 1-phi Phật giáologic học, và đánh bại anh ta, nhờ đó mà danh tiếng của ông lan rộng ở khắp mọi nơi."

Thật sự có nhiều chỗ máy dịch không phân định nổi một chữ là danh từ hay động từ chẳng hạn chữ "states" là dộng từ chia trong ngôi 3 số ít rất hay dùng nhưng nhiều lần người dịch thấy được dịch thành "các bang", "các trạng thái".


Hy vọng rằng các ĐH hãy nên cẩn thận vì máy là máy, không có chút hiểu biết nào về các lắt léo trong ngôn ngữ.


Trở lại, có một dịp người viết bài cũng đã đọc được 1 bản dịch Kinh Bát Nhã bằng máy trong đó, bản chữ Hán-Việt nguyên thủy sau khi "bị sửa" người hiệu đính hay người dịch không biết vì lý lẽ nào đã tự ý thêm vào đó vài chữ Hán-Việt ở cuối một câu, khiến cho nguyên bản tiếng Hán vốn trung dung đã trở thành bản dịch "Hán-Việt" thuần theo chủ trương Duy Thức tông. Đây thật là điều đáng ngại.


Tuy nhiên người viết bài không hề có ý chê bay chỉ nên lên vài khúc mắc mà có lẽ nếu người tổ chức dịch có trách nhiệm "nên" tham cứu cẩn thận qua nhiều giai đoạn kiểm sóat để lỡ tam sao thất bản thì rất đáng tiếc.


Kính chúc các công trình dịch thuật này được thành công


Nam mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21874)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 7991)
Thiều Chửu và Đoàn Trung Còn đều không giải thích được lý do tại sao chữ VẠN quay theo chiều này thì cát tường, quay theo chiều ngược lại thì nguy hại... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 7682)
Một trong những nền tảng quan trọng của đạo đức Phật giáotuân theo tinh thần bất bạo động... Tác giả: Charles K. Fink; Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 8803)
Đức Phật đã thuyết giảng như thế nào về sự đau đớn? Ngài bảo rằng sự bất an của chúng ta gồm có hai thể dạng khác nhau... Ajahn Brahmavamso, Hoang Phong dịch
(Xem: 7092)
Không là một khái niệm xuất hiện khá sớm trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, trải dài đến Phật giáo Đại thừa... Thích Nữ Nhuận Bình
(Xem: 9309)
Tác phẩm “Tuệ Sanh Định” là một trong số ít tác phẩm được viết bởi Bậc Thầy Maha Boowa (Bhikkhu Ñanasampanno)... Nhất Như dịch Việt
(Xem: 8749)
Nguyên tác tiếng Anh của Darwinism, Buddhism and Christanity được đăng trong tạp chí The Maha Bodhi, Sri Lanka, Tập 82 Dec 1974 Thích Nữ Liên Hòa dịch
(Xem: 10215)
Trong Kinh Duy-Ma-Cật, khi Phật bảo Ngài Duy-Ma-Cật thị hiện cõi nước Diệu-Hỷ có Vô-Động Như-Lai, các Bồ-Tát, và đại chúng nước ấy cho đại chúng xem... Toàn Không
(Xem: 8175)
Chân Nguyên kết luận: “Đức Phật Thích Ca đã tự chính mình đem thánh hiệu mà dạy cho hai người già, điều đó không còn có thể nghi ngờ gì nữa”... Thích Phước An
(Xem: 9516)
Một sự kết hợp thú vị giữa đạo đức chính trực, sự phục tùng, lòng khoan dung, cầu nguyện, khả năng tự lực, tự thanh lọc và tình yêu... Mai Thục
(Xem: 6925)
Mũi tên biểu trưng cho một sự đau đớn trên thân xác, nhưng cũng có thể là nguyên nhân gây ra một sự hoảng sợ trong tâm thần... Hoang Phong
(Xem: 7975)
Yết-ma, được phiên âm từ karmam[1] của tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự tác pháp”, được định nghĩa: “Vạn sự do tư thành biện cố”... Thích Minh Cảnh
(Xem: 8348)
Quảng bản kinh được Pháp Nguyệt dịch năm 732, rồi đến Bát NhãLợi Ngôn tái dịch năm 790. Cho đến Thi Hộ đời nhà Tống dịch lần chót là có tất cả 7 bản... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 8628)
Bồ tát hành đạo bắt đầu từ giữa lòng xã hội nên sự tiếp cận với mọi thống khổ nhân sinh là lẽ tất nhiên... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 8387)
Thiền sư Vĩnh Bình Đạo Nguyên, hoặc Đạo Nguyên Hy Huyền (1200-1253), là vị tổ sáng lập ra dòng Tào ĐộngNhật Bản... Ngọc Bảo dịch
(Xem: 8495)
Một cách vắn tắt, đó là vị trí của nữ giới trong Phật Giáo. Người phụ nữ xứng đáng có một chỗ đứng danh dự ngang hàng với nam giới... Piyadassi Mahathera; Dịch giả: Phạm Kim Khánh
(Xem: 11238)
Người vợ cần quán chiếu tâm mình thật cẩn thận trong một thời gian và từ đó đi đến quyết định đúng cho cuộc đời của mình... Mithra Wettimuny; Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
(Xem: 8547)
Đức Thế Tôn là người đầu tiên đòi quyền lợi cho giới nữ, đưa vị trí giới nữ ngang bằng nam giới... Thích Hạnh Bình
(Xem: 10674)
Hội Phật giáo Trung Quốc ước tính rằng hiện có khoảng 180,000 tăng niTrung Quốc... Nguyên tác: Tịnh Nhân; Thích Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 9438)
Ngài đã gọi dứt khoát, rõ ràng “tự phá thai mình” là một tội, phải chịu quả báo hết sức nặng nề và kéo dài... Chân Minh
(Xem: 9221)
Làm thế nào để những cha mẹ Phật tử có thể dạy tốt lời dạy của Phật giáo cho con em của họ?... Helmuth Kalr; Thích Minh Diệu
(Xem: 9540)
Rồi lần lượt không bao lâu, khi Ðức Phật đúng 80 tuổi đời, 45 tuổi đạo, Ngài cũng giã từ Tứ chúng để an hưởng quả vị Vô Dư Niết-bàn... Thích Thiện Minh
(Xem: 10310)
Con người không bao giờ ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên để mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình... Tuệ Sỹ
(Xem: 16173)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19146)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 8661)
Long Thọ (Nagarjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán mà ngài còn được coi là vị Phật thứ hai sau đức Thế Tôn trong lịch sử phát triển Phật giáo.... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 8014)
Như thế giải thoát cho vô số vô biên chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào được giải thoát... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 24121)
Cúng dườngbố thí vốn cùng một nghĩa "cho". Cái gì của mình mà có thể đem ra "cho" người khác, thì gọi là "cho"... TT Thích Nhất Chân
(Xem: 9371)
Lịch Sử Văn Học Phật Giáo Tiếng Sanskrit (Literary History of Sanskrit Buddhism - Nguyên tác: J. K. Nariman; Thích Nhuận Châu dịch Việt
(Xem: 7630)
Yết-ma là phiên âm từ karman của tiếng Phạn. Hán dịch là «biện sự tác pháp», và thường được các luật sư Trung quốc giải thích rằng «Vạn sự do tư thành biện cố.»... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 10520)
Chúng ta có thể thấy được đức tính của những khóm tre cây trúc, của những dòng sông, của cây mai, của đất, của áng mây... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17670)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 6930)
Giáo dục Phật giáo – nền giáo dục minh triết, vốn ở cao, ở trên triết học... Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Xem: 8857)
Đọc công trình của Francois Jullien những độc giả "Tây giả" (Á và Âu) có thể thấy được rằng người bà con nghèo của triết học có những sở đắc... Nguyên Ngọc dịch
(Xem: 12334)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 7693)
Chúng ta thường nghĩ là mình đã hiểu nhưng thật ra có lẽ ta chưa hiểu rõ thế nào là quy y Tam Bảo... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 14583)
Tăng đoànhình ảnh của Đức Phật, mang trọng trách thừa Như Lai sứ, hành Như Lai sự... Thích Phước Sơn
(Xem: 8239)
Ðại Tạng Kinh là một công trình tập thành tâm huyết của bao nhiêu thế hệ Tổ Sư, cổ đức Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Ly... Liên Hương kính ghi
(Xem: 7773)
Trong Phật giáo đại thừa nói rất rõ: Phiền não tức bồ đề, Niết bànsinh tử. Niết bànsinh tử là một cặp bài trùng, không có cái này thì không có cái kia...
(Xem: 8840)
Có thể nói “tâm” là cơ sở và động lực giải nghiệp, giải hạn khổ ách đối với con người trong mọi không giannăng lực chuyển nghiệp.
(Xem: 14786)
Tổ tiên ta đã Phật hóa gia đình, giáo dục con cháu phải biết chia sẻ hạnh phúc, ban rải tình thương đến mọi người, mọi loài... TT Thích Lệ Trang
(Xem: 9250)
"Khi cúng dường tứ sự đến cho một vị tỳ-khưu, hai vị tỳ-khưu, cận sự nam nữ đừng nghĩ đến cá nhân vị ấy mà cứ khởi tâm cúng dường Tăng..." Tâm Tịnh
(Xem: 12310)
Từ Trạch Pháp này rất quen thuộc trong Phật Giáo, nhưng đã có mấy người Phật tử chịu tìm hiểu tận tường... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 8490)
Theo Phật giáo, con người sinh ra từ vô thủy (thỉ) đến giờ đã trải qua vô lượng đời, và sẽ còn tiếp nối vô số đời nữa ở tương lai cho đến vô chung... Toàn Không
(Xem: 14490)
Hoa dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền-Trang; Việt dịch: HT Thích Trí-Quang; Anh dịch: Buddhist Text Translation Society
(Xem: 12451)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 8387)
Chúng tôi xin bàn về một số điểm liên hệ, nhất là làm rõ về niên đại Hán dịch của tác phẩm, từ đó chúng tôi xin ghi nhận một số từ ngữ, thuật ngữ Phật học đã được Hán dịch vào thời ấy... Đào Nguyên
(Xem: 10123)
Dù tâm mộ đạo, nhưng Phật tử còn theo nghi lễ xa xưa và kinh điển cổ ngữ, nên việc tu tập không còn phù hợp với nhu cầu của thời đại mới... Johan Galtung, Đỗ Kim Thêm
(Xem: 7739)
Trong việc quảng bá sự hiểu biết, vai trò của người Thầy thật hết sức cần thiết, thế nhưng người Thầy thì cũng phải có đầy đủ khả năng... Hoang Phong
(Xem: 16009)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý. ... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8196)
Nói đến văn hóa tức là nói đến tổ chức đời sống của một dân tộc, trong đó bao gồm các mặt kinh tế, xã hội, luật lệ, văn chương, mỹ thuật, tôn giáo, v.v... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8257)
Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt... Lâm Như Tạng
(Xem: 7851)
Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 11157)
“Bản Giác : Tâm thể của chúng sinh tự tánh thanh tịnh, lìa mọi vọng tưởng, sáng tỏ vằng vặc, có đức giác tri. Đó chẳng phải do tu thành mà như thế, mà chính là tính đức tự nhiên bản hửu, nên gọi là Bản Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 9121)
Thượng tọa Thích Thuyền Ấn trình bày tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào ngày 9-4-1967. Sau đó, bài diễn thuyết này được in trong tập Diễn Đàn Vạn Hạnh, số 1, do Ban Tu thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành năm 1967.
(Xem: 9258)
Bản Chất Của Tâm Thức - Tác giả: His Holiness the Fourteenth Dalai Lama, Anh dịch: Alexander Berzin, Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 8387)
Niết bàn, nirvana (S), nibbana (P), trong Sanskrit và Pali có nghĩa bóng là, một "thể trạng dập tắt". Hình ảnh của một ngọn lửa đã bị dập tắt qua việc không còn nhiên liệu nữa... Tác giả Alexander Berzin; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 7542)
Long Thọ nói, giáo pháp của Chư Phật y trên hai chân lý, tương đối hay thế tục đế, và tuyệt đối hay thắng nghĩa đế. Những ai không phân biệt được hai chân lý này, không thể hiểu thấu giáo pháp thâm sâu... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 7982)
Kinh Hoa nghiêm, nói một cách đơn giản, là bộ kinh nghiên cứu về Pháp giới và cách phát khởi trí tuệ để thể nhập Pháp giới. Trong Pháp giớilý sự vô ngạisự sự vô ngại... Hồng Dương
(Xem: 8788)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant