Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hội ngộ giữa tâm lý học Tây phươngPhật giáo

27 Tháng Hai 201200:00(Xem: 14440)
Hội ngộ giữa tâm lý học Tây phương và Phật giáo
HỘI NGỘ GIỮA TÂM LÝ HỌC TÂY PHƯƠNGPHẬT GIÁO
Thiền sư Chogyam Trungpa Rinpoche (1939-1987)
Extrait de l’article “The Meeting of Buddhist and Western Psychology”-
The Naropa Journal of Contemplative Psychology- Vol IV. Traduction Karuna-France 2005
Nguyễn Thượng Chánh phỏng dịch



chogyam_trungpa-contentĐôi dòng về Thiền sư Chogyam Trungpa Rinpoche

Chogyam Trungpa Rinpoche (1939-1987) là một trong những đạo sư Tây Tạng đầu tiên mang Phật Pháp đến phương Tây. Năm 1963 được học bổng để du học tại Ðại Học Oxford. Năm 1967 sau khi tốt nghiệp Ngài thành lập Trung Tâm Thiền Samaye-Ling tại Scotland với phương pháp thiền áp dụng vào đời sống hàng ngày. Ngài nhận thấy hình thức cư sĩ thuận tiện hơn trong việc hoằng pháp, sau đó Ngài hoàn tục. Năm 1974 Ngài thành lập Học Viện Phật Giáo Naropa tại Boulder, Colorado. Khóa đầu tiên có 2000 sinh viên ghi danh. Học Viện quy tụ những giáo sư nổi tiếng như: Trungpa (dạy Kim Cang Thừa), Ram Dass (Bhagava Rita), Jack Kornfield (Phật Giáo Nguyên Thủy), Joseph Goldstein, Mahasi Sayadaw, Anagarika Munindra (Nguyên Thủy)” (Trích từ -Công cuộc hoằng pháp tại Hoa Kỳ và những đóng góp của Phật giáo Việt Nam -Trang mạng Tìm Hiểu Đạo Phật Sốngđờithanhthản).

Theo Wikipedia

Ngài là thiền sư, giảng sư và nghệ sĩ. Sanh năm 1939 tại Tây Tạng và mất năm 1987. Ngài là hóa thân thứ 11 của sư trưởng Trungpa Tulku.

Thiền sư Chogyam Trungpa Rinpoche, là một nhà sư Tây Tạng nổi tiếng khắp thế giới. Ngài có những đóng góp đáng kể trong việc truyền bá Phật Giáo Mật Tông tại các quốc gia Tây phương, nhưng đồng thời với việc hoằng pháp, tư tưởng và cuộc sống cá nhân của ngài cũng để lại lắm điều tranh luận…

Chögyam Trungpa Rinpoche (Wylie: Chos rgyam Drung pa; February 28, 1939 – April 4, 1987) was a Buddhist meditation master and holder of both the Kagyu and Nyingma lineages, the eleventh Trungpa tülku, a tertön, supreme abbot of the Surmang monasteries, scholar, teacher, poet, artist, and originator of a radical re-presentation of Shambhala vision.

Recognized both by Tibetan Buddhists and by other spiritual practitioners and scholars as a preeminent teacher of Tibetan Buddhism, he was a major, albeit controversial, figure in the dissemination of Tibetan Buddhism to the West, founding Vajradhatu and Naropa University and establishing the Shambhala Trainingmethod.

Among his contributions are the translation of a large number of Tibetan texts, the introduction of the Vajrayana teachings to the West, and a presentation of the Buddhadharma largely devoid of ethnic trappings. Regarded as a mahasiddha by many senior lamas, he is seen as having embodied the crazy wisdom (Tib. yeshe chölwa) tradition of Tibetan Buddhism. Some of his teaching methods and actions were the topic of controversy during his lifetime and afterwards.(wikipedia).

Mời xem video: “Minh triết điên dại” phim tài liệu về cuộc đời của thiền sư Chogyam Trungpa Rinpoche

Video: Crazy Wisdom: The life & Times of Chogyam Trungpa Rinpoche-Trailer-Shambhala

http://www.youtube.com/watch?v=80jGSadccmY

 ***

thesanitywearebornwith-contentKinh nghiệm trực tiếp và lý thuyết

Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.

Theo quan điểm Phật Giáo, việc học tập về lý thuyết chỉ là một bước đầu tiên mà thôi. Nó cần phải được bổ túc thêm bằng sự huấn luyện về kinh nghiệm trực tiếp, trong chúng ta và trong cả tha nhân nữa.

Trong truyền thống Phật Giáo, khía cạnh thực nghiệm được phát triển bằng thiền định và đây là một sự quán trực tiếp vào trí tuệ. Thiền định trong Phật Giáo không phải là một nghi thức lễ nghi, nhưng nó là phương pháp giúp chúng ta làm sáng tỏ bản chất chân thật của trí tuệ cũng như kinh nghiệm của chính bản thân mình.

Thông thường thiền định gồm có ba phần:

  • Giới luật (Shila, discipline)
  • Định (Samadhi, méditation)
  • Bát nhã, tuệ minh, (Prajna, prise de conscience immediate)

Shila: mục đích đơn giản hóa cuộc sống nói chung và loại bỏ đi những phiền toái vô ích. Để phát triển một kỷ luật tinh thần thật sự, điều cần thiết trước tiênchúng ta hãy tự quán để biết mình không ngớt thay đổi gánh nặng trong các sinh hoạt và công việc bên ngoài.

Samadhi: Định là trọng tâm trong vấn đề tu luyện của Phật Giáo. Phương pháp gồm có tọa thiềntheo dõi hô hấp, và khi nhận biết lúc mình xao lãng nhịp thở (vì vọng tưởng) thì phải kéo sự chú ý trở lại liền. Lúc ngồi thiền, thái độ của thiền giả là phải chú tâm đến tất cả các hiện tượng đang xảy ra như luồng tư tưởng, ý nghĩ, cảm xúc và tình cảm dấy lên trong khắp thân tâm. Có thể nói rằng, thiền địnhcon đường đem tình thân hữu (amitié) đến cho chính mình. Đây là một kinh nghiệm về bất gây hấn (non agression). Thật vậy, phương pháp thiền định thường được gọi là “sống hòa bình” (demeurer en paix). Hành thiền là con đường giúp chúng ta đi sâu vào nền tảng của bản thể, vượt ra ngoài các lược đồ (schémas) sinh hoạt thông thường.

Prajna: là sự nhận thức cấp thời (prise de conscience immédiate), vô khái niệm (non conceptuelle) và đồng thời nó dẫn chúng ta vào việc nghiên cứu tri thức (étude intellectuelle). Khi một cá nhân thật sự thấu hiểu được sự hoạt động của trí tuệ và để làm sáng tỏ thêm họ liền đặt thành tên kinh nghiệm mà họ vừa trải qua. Sự tò mò đó rất là tự nhiên (spontanée), thế sao lại có người cho rằng đó là bản chất của trí tuệ (nature de l’esprit)? Sự nhận thức cấp thời đưa họ vào việc nghiên cứu nhưng đồng thời cũng rất cần phải duy trì một kỷ luật thường trực trong việc hành thiền để những khái niệm không bao giờ chỉ thuần nhất là khái niệm mà thôi. Công việc rèn luyện tâm lý vẫn sống động, tươi mát, và bám rễ chặt chẽ…

Prajna est une prise de conscience immédiate et non-conceptuelle et en même temps, elle nous amène à l’étude intellectuelle. Lorsque quelqu’un a vu comment fonctionne vraiment son propre esprit, il a un désir naturel de clarifier et de mettre en mots ce dont il a fait l’expérience. Cette curiosité est spontanée : comment d’autres personnes ont-elles parlé de la nature de l’esprit? La prise de conscience immédiate mène vers l’étude mais en même temps, il est nécessaire de maintenir une discipline permanente d’entraînement à la méditation de façon à ce que les concepts ne deviennent jamais uniquement des concepts. Le travail psychologique reste alors vivant, frais et bien enraciné.

Shilagiới luật, căn bản của thiền định, Samadhi là định hay con đường ứng dụng còn Prajna là quả hay tuệ minh.

Prajna được khai mở nhờ vào thiền định. Qua kinh nghiệm Prajna, thiền giả giả cảm nhận trực tiếp và cụ thể cách vận hành thật sự của trí tuệ, cũng như cơ chế và phản xạ trong từng giây phút một. Prajna theo thông lệ thường hay được gọi là cái nhìn phân biệt (vision discriminante). Đó không có nghĩa là có sự ưu đãi và chọn lựa. Prajna chỉ nên được xem như sự thấu hiểu không định kiến (sans aucun préjugé) thế giớitrí tuệ của chính mình, nhưng Prajna lại có tính phân biệt (discrimine) giữa sự loạn tâm (không trụ một nơi, confusion) và chứng bệnh thần kinh hay tâm căn (neurosis, névrose).

Shila est la base de la méditation et samadhi est le chemin de la pratique. Le fruit en est prajna, ou la prise de conscience. Elle commence à se développer grâce à la méditation. Dans l’expérience de prajna, la personne perçoit directement et concrètement comment l’esprit fonctionne réellement, ses mécanismes et ses réflexes à chaque instant. Prajna est traditionnellement appelée la vision discriminante, ce qui ne signifie pas que l’on développe des préférences. Prajna est plutôt la connaissance de son propre monde et de son propre esprit sans aucun préjugé. Prajna discrimine en ce sens qu’elle distingue la confusion de la névrose.

Một câu hỏi quan trọng thường được nhắc đến khi các nhà tâm lý học Tây phương bắt đầu nghiên cứu Phật Giáo: “Có phải bắt buộc để trở thành Phật tử khi nghiên cứu Phật Giáo?” Lẽ dĩ nhiên câu trả lời là không, nhưng chúng ta cần hỏi ngược lại họ: “Vậy các người muốn học những gì?”

Điều Phật Giáo thật sự cần truyền đạt đến các nhà tâm lý học Tây phương là họ phải biết làm thế nào để tự liên hệ một cách chặt chẽ vào kinh nghiệm bản thân (relier plus étroitement à sa propre expérience), vào sự tươi mát (fraicheur), tính trọn vẹn (l’entièreté) và sự cấp thời (l’immédiateté) của kinh nghiệm đó.

Ce que le bouddhisme a vraiment à apprendre au psychologue occidental, c’est de savoir comment se relier plus étroitement à sa propre expérience et à la fraîcheur, à l’entièreté et à l’immédiateté de cette expérience.

Muốn được như thế, họ không cần phải trở nên là Phật tử, nhưng cần phải kiên trì áp dụng thiền định.

Rất có thể chỉ cần học lý thuyết về tâm lý học Phật Giáo mà thôi, nhưng như thế thiền giả sẽ hoàn toàn đi bên cạnh yêu cầu của họ.

Nếu chúng ta không dựa vào kinh nghiệm của chính mình, chúng ta chỉ diễn giải các ý niệm Phật Giáo thông qua các khái niệm (concepts) Tây phương mà thôi.

Kinh nghiệm về thiền định sẽ làm phong phú cá nhân mình và người khác.

Đây là một sự trợ giúp quan trọng bất luận mục đích của việc nghiên cứu Phật Giáo là gì.

Về khía cạnh sức khỏe

Tâm lý học Phật Giáo được đặt trên nền tảng là tất cả chúng sanh đều có căn bản tốt hết. Đó là những tính tích cực như khai tâm (ouverture), thông minh, và nhân ái (chaleur). Ý niệm trên xuất phát ra từ kinh nghiệm về lòng tử tế, về giá trị của chính mình và của người khác. Sự hiểu biết này rất quan trọng. Đây là cảm hứng tiên khởi (inspiration primordiale) trong ứng dụng và trong tâm lý học Phật giáo.

Theo nhãn quan Phật giáo, những khổ ải trong cuộc đời nên được xem như là những điều bất hảo tạm thời, phớt sơ ngoài mặt và chúng che lấp bản tính căn bản tốt đẹp của con người. Phương diện vừa nêu ra mang tính tích cựclạc quan, nhưng một lần nữa chúng ta cần phải nhấn mạnh thêm là nó không mang thuần túy tính khái niệm (conceptuel). Nó xuất phát ra từ kinh nghiệm thiền quánsức khỏe. Có nhiều lược đồ thần kinh (schémas névrotiques), thường là tạm thời và xuất phát ra từ quá khứ nhưng chúng ta có thể nhìn thấy và cắt ngang qua chúng được.

Qua việc áp dụng những điều nghiên cứu, chúng ta sẽ tạo ra được sức khỏe căn bản của trí tuệ, cho mình và cho cả người khác nữa. Chúng ta thấy rằng những problèmes của mình cũng không bám rễ đến độ quá sâu. Đúng là có sự tiến bộ. Chúng ta trở nên có ý thức hơn, khỏe mạnh hơn và sáng suốt hơn theo thời gian. Thật là điều vô cùng phấn khởi.

Xu hướng ưu đãi sức khỏetâm từ (bonté) xuất phát ra từ kinh nghiệm vô ngãý niệm này đã gây không ít khó khăn cho các nhà tâm lý học Tây phương. Vô ngã không phải là không có gì hết như nhiều người lầm tưởng. Nó không phải là một hình thức của thuyết đoạn kiến hay hư vô (nihilisme) nhưng ngược lại chúng ta có thể buông xả (lâcher prise) ra khỏi các lược đồ thần kinh thông thường. Khi buông xảchúng ta làm thật sự. Chúng ta không tạo lại một cái vỏ (coquille) khác liền ngay sau đó đâu. Vô ngã, có nghĩa là mình có đủ tự tin để không cần phải xây dựng lại cái gì hết nhờ vậy nó đem đến cho ta kinh nghiệm về sức khỏe và sự tươi mát.

Kinh nghiệm vô ngã (absence d’égo) chỉ có xuyên qua thiền định mà thôi.

Kinh nghiệm này sẽ tạo cho mình một sự đồng cảm (empathie) thật sự đối với tha nhân. Ngã (ego) chen vào trong trường hợp có thể có sự trao đổi thật sự trực tiếp… Và rõ ràng đây là việc rất thiết yếu trong tiến trình tri liệu.

Vô ngã giúp tất cả tiến trình làm việc với người khác trở nên đích thực (authentique), cao quý (généreux) và tự do.

Theo Phật giáo nếu khôngvô ngã (sans absence d’égo), thì không thể nào có lòng từ bi (compassion) thật sự được.

Le point de vue de la santé

La psychologie bouddhiste est fondée sur la notion que les êtres humains sont fondamentalement bons. Leurs qualités les plus fondamentales sont des qualités positives : l’ouverture, l’intelligence et la chaleur. Cette idée prend racine dans l’expérience de la bonté et d’un sentiment de valeur en soi-même et chez les autres. Cette compréhension est vraiment fondamentale. Elle est l’inspiration primordiale de la pratique et de la psychologie bouddhistes.

Dans la vision bouddhiste, les problèmes que nous rencontrons sont considérés comme des imperfections passagères et superficielles qui recouvrent notre bonté fondamentale. Ce point de vue est positif et optimiste mais, encore une fois, nous devons souligner que ce point de vue n’est pas purement conceptuel. Il prend racine dans l’expérience de la méditation et dans la santé qu’elle fait émerger. Il y a des schémas névrotiques habituels temporaires qui se développent à partir du passé mais on peut les voir et couper à travers eux.

Par la pratique associée à l’étude, on fait l’expérience de la santé fondamentale de l’esprit, le nôtre et celui des autres. On peut voir que nos problèmes ne sont pas enracinés si profondément que ça. On remarque qu’on peut vraiment faire des progrès. On découvre que l’on devient plus conscient, que l’on développe plus de santé et de clarté au fur et à mesure qu’on avance. C’est extrêmement encourageant.

Cette orientation qui privilégie la santé et la bonté provient de l’expérience de l’absence d’ego, une notion qui pose un certain nombre de difficultés aux psychologues occidentaux. L’absence d’ego ne signifie pas que rien n’existe, comme certains l’ont pensé. Il ne s’agit pas d’une forme de nihilisme. Cela signifie au contraire que vous pouvez lâcher prise de vos schémas névrotiques habituels et que, quand vous lâchez prise, vous le faites vraiment. Vous ne recréez pas une autre coquille immédiatement après. L’absence d’ego, c’est avoir suffisamment confiance pour ne pas reconstruire du tout et c’est faire l’expérience de la santé et de la fraîcheur qui vont avec le fait de ne pas reconstruire. On ne peut faire pleinement l’expérience de l’absence d’ego qu’à travers la pratique de la méditation.

L’expérience d’absence d’ego développe une véritable empathie à l’égard des autres. L’ego interfère avec la possibilité d’une communication véritablement directe, hors cette communication directe est de toute évidence essentielle dans le processus thérapeutique. L’absence d’ego rend tout le processus de travail avec les autres authentique, généreux et libre dans sa forme. C’est la raison pour laquelle, dans la tradition bouddhiste, on dit que, sans absence d’ego, il est impossible de développer une compassion véritable.

Áp dụng vào trị liệu

Nhiệm vụ của người thầy là giúp bệnh nhân kết nối lại với tâm từsức khỏe cơ bản của họ. Những người có tiềm năng bệnh đến khám với một tâm trạng tha hóa (aliénation) và nghèo nàn bên trong. Chúng tôi phải chỉ mảnh đất sức khỏe chính trong họ và điều này còn quan trọng hơn là phải làm một lô xét nghiệm có tính kỹ thuật hầu giải quyết các vấn đề sức khỏe của họ.

Người ta có thể nghĩ rằng đây là một sự đòi hỏi quá đáng, nhất là khi chúng ta phải đối đầu với công việc chữa trị những cá nhân có bệnh sử tồi tệ và khó khăn. Nhưng căn bản của sức khỏe tâm thần nằm ở trong tầm tay chúng ta và nó có thể được thực nghiệm dễ dàng và đáng khuyến khích.

Để thực hiện điều trên, khỏi cần phải nói là người thầy phải bắt đầu bằng việc thí nghiệm trí tuệ của ông ta.

Thông qua thiền định, sự trong sáng và hơi nóng của người thầy sẽ được phát triển ra và có thể lan rộng qua người bệnh.

Quan điểm Phật giáo đặt tầm quan trọng vào lý vô thường và vào khía cạnh tạm bợ của vạn vật. Quá khứquá khứ, tương lai thì chưa xảy đến, bởi thế chúng ta làm việc với những gì chúng ta đang có sẵn nơi đây và trong giây phút hiện tại. Sự kiện này giúp chúng ta không phân loại (ne pas catégoriser) và không lý thuyết hoá (ne pas théoriser). Hoàn cảnh tươi mát và sinh động (vivante) lúc nào cũng có mặt trong giây phút hiện tại...

Chúng ta không cần phải quay nhìn về quá khứ để biết chúng ta và người khác như thế nào. Câu giải đáp tự nó đã sáng tỏ tại đây và ngay trong giây phút này.

La pratique thérapeutique

La tâche du thérapeute est d’aider les patients à se reconnecter à leur bonté et à leur santé fondamentales. Des patients potentiels viennent à nous avec un fort sentiment d’aliénation et de pauvreté intérieure. Nous devons leur pointer ce terrain fondamental de santé qui existe en eux et cela est plus important encore que de leur donner une batterie de techniques pour combattre leurs problèmes. On pourrait penser que c’est beaucoup demander, surtout lorsque l’on est confronté au travail avec quelqu’un qui a tout un historique de problèmes et de difficultés. Mais la santé de l’esprit de base est en fait à portée de main et peut-être facilement expérimentée et encouragée.

Pour cela, il va sans dire que le thérapeute doit d’abord commencer par faire l’expérience de son propre esprit de cette manière. A travers la méditation, la clarté et la chaleur envers soi-même ont la place de se développer et elles peuvent ensuite être étendues au patient.

Le point de vue bouddhiste donne de l’importance à l’impermanence et au côté transitoire des choses. Le passé est le passé, le futur n’a pas encore eu lieu, ainsi nous travaillons avec ce qui est ici, la situation présente. Ceci nous aide à ne pas catégoriser ou théoriser. Une situation fraîche et vivante existe sans cesse, dans l’instant présent. Avec cette approche qui ne catégorise pas, on est totalement présent plutôt que d’essayer de prolonger un évènement passé. Nous n’avons pas à regarder la passé pour voir de quoi nous et les autres sommes faits. Les choses parlent d’elles-mêmes ici et maintenant.

Phật giáotâm lý học Tây phương

Lúc ở Oxford, một số điểm mạnh của tâm lý học Tây phương đã làm tôi nể phục và tôi vẫn còn như thế cho đến ngày hôm nay. Đó là tính nét khai phóng, mở rộng trước những quan điểmkhám phá mới đồng thời nó cũng duy trì một thái độ biết tự phê bình đối với chính họ. Tâm lý học Tây phương là một trong nhiều ngành nghiên cứu tri thức (étude intellectuelle) dựa nhiều nhất vào kinh nghiệm.

Nhưng đồng thời, nếu xét theo quan điểm tâm lý học Phật giáo, chắc chắn rằng Tâm lý học Tây phương vẫn còn thiếu sót một cái gì đó trong lối tiếp cận của họ.

Phần tử còn thiếu đó, như chúng tôi đã đề cập trong suốt phần nhập đề, là tính tối thượng của kinh nghiệm trong giây phút hiện tại (primauté de l’expérience immédiate)./.

Bouddhisme et psychologie occidentale

Lorsque j’étais à Oxford, j’ai été impressionné par certains points forts de la psychologie occidentale et je le suis toujours. Elle est ouverte à de nouveaux points de vue et à de nouvelles découvertes et maintient une attitude critique envers elle-même. Elle est une des disciplines intellectuelles occidentales qui est le plus basée sur l’expérience. Mais en même temps, du point de vue de la psychologie bouddhiste, il y a certainement quelque chose qui manque dans son approche. Cet élément manquant, comme nous l’avons suggéré dans toute cette introduction, est la primauté de l’expérience immédiate.

Chögyam Trungpa Rinpoche, 1982

(extraits de l’article “The Meeting of Buddhist and Western Psychology”, édité par Nathan Katz dans The Naropa Journal of Contemplative Psychology, Volume IV, texte réédité en 2005 par les éditions Shambhala dans l'ouvrage The Sanity We are Born With (Trí Tuệ Bẫm Sinh)

Traduction Karuna-France, 2005

 

Tham khảo

-La Rencontre de la Psychologie Occidentale et de la Psychologie Bouddhiste-Chogyam Trungpa Rinpoche-Traduction Karuna France-2005
http://www.formation-karuna.com/index.php?option=com_content&view=article&id=44&Itemid=55
-The Sanity We Are Born With: A Buddhist Approach to Psychology. Reviewed by Antonio Wood
http://live.shambhala.com/learn-more/chogyam-trungpa/books-by-chogyam-trungpa/reviews/sanity-we-are-born-with/
-Shambhala-Chogyam Trungpa Rinpoche
http://www.shambhala.org/teachers/chogyam-trungpa.php
Montreal Feb 21, 2012

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8813)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
(Xem: 9323)
Học Phật Nên Biết - Tác Giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm, Pháp Sư Ấn Thuận, Pháp Sư Kim Minh và Phương Khắc Minh; Dịch Việt: Thích Nguyên Thành
(Xem: 11482)
Kinh PHÁP CÚ là một bộ Kinh rất xưa, được xem là kinh Lời Vàng cho những ai có chí nguyện tu tâm, dưỡng tánh để tiến thân trên lộ trình hành đạo giải thoát... Thích Nữ Nguyệt Chiếu
(Xem: 7578)
Lâu nay nói đến các trường Phật họcNam Bộ, người ta thường nghĩ đến Phật học đường Nam Việt, Sài Gòn... Thích Minh Cảnh
(Xem: 12305)
Tự học tiếng Tây Tạng - Tạng Ngữ Hiện Đại - Losang Thonden, Việt dịch: Konchog Kunzang Tobgyal
(Xem: 143690)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 6970)
Với tinh thần đó, trong khi chuyển ngữ ra tiếng Việt thời nay, việc gỡ bỏ ba chữ đó là hoàn toàn hợp lẽ... Hoằng Quảng
(Xem: 11892)
Nội dung tu học Phật pháp nước ta đại bộ phận đều phát xuất từ các kinh điển Hán dịch... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 8634)
Thế giới này là một chuỗi dài nhân duyên nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 19976)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 9294)
Một bản ngã khi muốn có được cái gì từ người khác thường thích đóng vai một nhân vật nào đó để làm cho nhu cầu của nó được đáp ứng... Eckhart Tolle
(Xem: 10837)
Sắc Tức Là Không, Không Tức Là Sắc - Nguyên tác: Cư sĩ Lý Nhất Quang, HT Thích Thắng Hoan dịch Việt ngữ
(Xem: 13595)
Biểu tượng quốc gia của các nước như Thái Lan, Indonesia, và thủ đô Ulan Bator (Mông Cổ) là hình tượng chim thần Garuda... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 11454)
La Sát là từ được phiên âm của Rakshasa/ Raksha (Sanskrit) là một sinh vật thần thoạihình dáng, tính cách của loài người hoặc quỷ thần bất thiện trong Hindu giáo và Phật giáo... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 9369)
Ở xứ ta, sinh vật thần thoại Khẩn Na La, trong kinh văn Phật giáo là một trong “bát bộ chúng”. Trong mỹ thuật cổ, sinh vật thần thoại Kinnara này được giới nghiên cứu gọi là “Tiên nữ đầu người mình chim”... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 14481)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 7280)
Lâu nay mỗi chúng ta theo đạo Phật nhưng có nhiều điểm nghi ngờ, thấy đạo Phật hình như tiêu cực, đa số chùa chiền đều ở trên núi, cách xa thành thị... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 32511)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13146)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 21019)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 39167)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 7143)
Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path” by Khenchen Konchog Gyaltshen, edited by Khenmo Trinlay Chödrön, Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
(Xem: 8984)
Một cơn đau đớn cực độ cũng có thể đưa đến một thể dạng giác ngộ nào đó giúp mình mở rộng tâm thức và con tim hướng vào kẻ khác.
(Xem: 6762)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18/9/2013 đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni ... Hoang Phong
(Xem: 9783)
Bất nhị là không phải hai hay nhiều, cũng không phải một, mà là vô lượng hay không có số lượng. Số lượng là số đếm chỉ có trong thế giới tương đối, nhị nguyên... Truyền Bình
(Xem: 9494)
Thầy Tuệ Sỹ viết: “Bởi vì con cá dưới lòng sông không làm sao hiểu nổi chuyện kể đầy tính hoang đường của con rùa sau những chuyến du hành trên đất liền..." Đặng Công Hanh
(Xem: 8059)
Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới... Nhụy Nguyên
(Xem: 11811)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 16182)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 9634)
Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc cao minh tôn túc chỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là không thể nào tránh khỏi được.
(Xem: 12257)
Theo kinh điển, hai truyền thống Nam truyền và Bắc Truyền đều thừa nhận Đức Phật có đầy đủ 32 tướng quý... Thụy Nguyên
(Xem: 8825)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diện cuộc đời sanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật... Đương Đạo
(Xem: 15590)
Giáo Khoa Phật Học (3 Tập) Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ, Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
(Xem: 8036)
Trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu...
(Xem: 17873)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 8684)
Lương Vũ Đế, tự Tiêu Diễn, lên ngôi vào năm 37 tuổi, tại vị 49 năm, thọ 86 tuổi. Là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lương (502-556) trong giai đoạn Nam Bắc triều (420-589) của Trung Hoa.
(Xem: 8335)
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”... Nguyễn Xuân Chiến
(Xem: 10543)
Nguyệt San Phật Giáo Việt Nam - Do Tổng hội Phật Giáo Việt Nam xuất bản năm 1956
(Xem: 15866)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 17539)
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
(Xem: 7952)
Đại chúng bộbộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 13034)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 8061)
Phật dạy 20 điều khó không mang một sắc thái bi quan hay chán chường, mà nhằm chỉ dạy chúng ta phải ý thức rằng sự sống này phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống trên nền tảng của nhân quả... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 8626)
Đạo Phậtcon đường dẫn đến an vui giải thoát. Đức Phật là bậc đạo sư, là người dẫn đường chứ không phải là vị thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai... Hoàng Nguyên
(Xem: 9794)
Tam Nguyệt San Hải Triều Âm - Cơ quan phát khởi nền quốc học, Phật học, và Văn hóa Việt Nam do Tổng Vụ Văn Hóa GHPGVNTN chủ trương từ 1973 đến 1975
(Xem: 10371)
Mục đích duy nhấtcuối cùng của con đường học Phật, tu Phật chính là thoát khỏi sinh tử. Trên đường đi tới điểm đích ấy, nền tảng chủ yếu hướng dẫn người tu Phật xuất gia lẫn tại gia không bị lạc lối được xem là sự nghiệp trí tuệ... Đoàn Ánh Loan
(Xem: 23308)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19397)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 10076)
Tuần San Đuốc Tuệ 1965 - Cơ Quan Phát huy tinh thần Phật Giáo, Khai triển văn hóa dân tộc - Miền Vĩnh Nghiêm trong GHPGVNTN 1965
(Xem: 8284)
Đặc San Hoằng Pháp Dharmaduta - Cơ Quan Truyền Bá Chánh Pháp Của GHPGVNTN 1973
(Xem: 24224)
Từ Điển Pháp Số Tam Tạng - Nguyên tác: Pháp sư Thích Nhất Như, Cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
(Xem: 8872)
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
(Xem: 8477)
Có thể nói rằng quan điểm bình đẳng về khả năng giải thoát tâm linh do Đức Phật đưa ra có một ý nghĩa cách mạng xã hội đáng kể...
(Xem: 8020)
Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát... Quán Như
(Xem: 17784)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 9526)
Hãy hướng tâm vào bên trong và cố gắng tìm niềm vui ở bên trong. Chỉ khi tâm đã được kiềm chế và dẫn dắt đúng hướng thì nó mới có ích cho chủ của nó và xã hội.
(Xem: 8221)
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
(Xem: 24396)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 24730)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 8423)
Triết học Trung quán kêu gọi sự chú ý của chúng ta, như một hệ thống đã tạo nên cuộc cách mạng trong đạo Phật và qua đó, toàn lĩnh vực triết học Ấn Độ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant