Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đôi điều về thực dưỡng Osawa và Phật tử

29 Tháng Hai 201200:00(Xem: 21685)
Đôi điều về thực dưỡng Osawa và Phật tử
ĐÔI ĐIỀU VỀ THỰC DƯỠNG OSAWA VÀ PHẬT TỬ 
Trí Lập

amduong-osawa-contentPhật tử, đương nhiên phải giữ giới, chí ít là năm giới của cư sĩ, dĩ nhiên chay tịnh là điều không cần phải bàn cãi. Thực tế ngày nay, chay tịnh đã vượt ra khỏi ranh giới đạo Phật, khi nhiều tổ chức khoa học uy tín xác nhận ăn chay chẳng những vô hại mà còn có lợi cho sức khoẻ…

Ăn chay ngày nay đã trở thành “mốt”, nó phục vụ đông đảo quần chúng thuộc nhiều đối tượng khác nhau, từ những người mẫu, ca sĩ, thí sinh hoa hậu cần giữ co, giữ eo, đến những người bị chứng béo phì muốn giảm cân. Ngoài ra, còn phải kể đến các Linh mục Công giáo, họ ăn chay theo kiểu Phật giáo một cách rất “hồn nhiên” theo cách nói của các tác giả trên conggiaovietnam.net, với mục đích rõ ràng, thực hiện “hội nhập văn hóa” để “đối thoại liên tôn” theo chủ trương của Vatican. Có người còn tích cực hơn với gạo lức muối mè theo thực đơn số 7 như Linh mục thi sĩ Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh…

Do xã hội thực sự có “cầu”, nên “cung” cũng được đáp ứng nhanh chóng bởi sự bén nhạy của các doanh nghiệp, hàng loạt các công ty cung cấp thực phẩm chay ra đời, nhiều nhà hàng chay được mở ra chào đón khách với những món “chay qúy tộc” mà giá thành có thể mắc gấp đôi so với các món mặn khác…

Đối với Phật tử, thực dưỡng Osawa là một lựa chọn đúng đắn, vừa tiết kiệm ngân quỹ gia đình, vừa phòng chống bệnh tật, giúp cơ thể khoẻ mạnh để có thể thăng tiến tu học.

Phương pháp dưỡng sinh Osawa được biết đến từ thập niên 60 dựa trên căn bản quân bình âm dương của thực phẩm… Bẵng đi một thời gian khá lâu, đến nay phong trào rộ nở mà công đầu thuộc về một nhà sư trẻ, một trong những đệ tử xuất chúng của HT Thích Thanh Từ: Đại đức TTH... Từ đó, tài liệu, băng đĩa được phát hành phục vụ cộng đồng, không chỉ trong nước mà còn được đồng bào người Việt hải ngoại đón chào nồng nhiệt.

Tuy nhiên, do nhận thứctừ lâu người ta chỉ chú trọng đến mặt dưỡng sinh để trị bệnh mà không quan tâm đến khía cạnh tâm linh”, nên thầy TTH đã đặt trọng tâm nghiên cứu thực dưỡng Osawa trên khía cạnh này. Điều đó không có gì sai trái. Rất tiếc, thầy lại quá sa đà vào lý thuyết âm dương, mà quên đi đối tượng chính của mình là các Phật tử, những người tin lời Đức Phật dạy: con người sinh ra trong nhân quả, sống trong nhân quả và chết đi trong nhân quả… Thay vì lấy “nhân quả làm nhân cho phương pháp luận của mình, thầy lại chọn “âm dương”, một học thuyết phi Phật giáo. Dưới đây là vài nhận định.

Nếu nói rằng: Đức Phật hiểu thấu nguyên lý âm dương, bằng chứng khi Ngài dạy nằm thế Kiết Tường, đầu phải quay về hướng bắc, chân xuôi hướng nam, mặt xoay hướng tây lưng dựa hướng đông… Ngài đã nắm vững quy luật âm dương trong thế nằm Kiết Tường, nhưng “Ngài không nói ra”!  Thầy TTH lập luận như thế chẳng khác mấy so với lập luận của Linh mục Cao Phương Kỷ về cái gọi là “tinh thần biện chứng của cây thánh giá”, với trục tung vươn lên tận trời, trục hoành vươn dài về hai phía đến vô tận. Với hàm ý, Giêsu cũng thấu suốt tất cả những vấn đề về triết học và toán học, nhưng Ngài cũng “không nói ra”!?... 

Tôi chợt nhớ lời một vị Tôn túc đáng kính: Người ta đã đặt vào miệng Phật những điều Phật không nói. Quả vậy! những lời Phật chưa hề nói mà dám gán cho “Phật thuyết”, huống hồ là thế giới siêu tưởng, sản phẩm của tưởng tri, tưởng giải, cũng gán cho Phật đã biết, đã chứng. Đây chính là điều Đức Phật đã cảnh báo trong Kinh Tăng Chi I (Anguttara Nikàya). Phẩm Người Ngu: “Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai. Thế nào là hai? Người nêu rõ Như Lai có nói, có thuyết là Như Lai không nói, không thuyết, và người nêu rõ Như Lai không nói, không thuyết là Như Lai có nói, có thuyết. Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai.”

Đã có quá nhiều thân tầm gửi sống bám trên cơ thể Phật giáo. Mạt pháp chính là chỗ ấy… Ngoại trừ Tuệ Tam Minh, với trí tuệ phàm phu của chúng ta hiện nay, khó có thể kiểm chứng sự lạc dẫn mà người ta cố tình gán cho “Phật thuyết”, nhằm làm chệch hướng lộ trình giải thoát mà Đức Thích Ca Mâu Ni đã phát hiện sau bốn mưới chín ngày dưới cội bồ đề…

Tôi không biết Chúa Giêsu có hiểu biết về toán học và triết học hay không? Nhưng tôi dám khẳng định Đức Thích Ca Mâu Ni, với trí tuệ Tam Minh, nếu Ngài muốn biết bất kỳ vấn đề gì thì Ngài sẽ biết. Tuy nhiên, có nhiều vấn đề Ngài không cần biết, vì nó không mang lại lợi ích cho mục tiêu giải thoát của chúng sanh… Chính vì thế Ngài luôn nhắc nhở: những gì cần biết phải biết, những gì cần tu học phải tu học… Điều đó có nghĩa là nếu quy luật âm dương, ngũ hành không phải là pháp môn giải thoát, Ngài sẽ không biết và không cần biết…

Theo quan kiến của cá nhân tôi, lý thuyết âm dương chỉ có giá trị tương đối, không có một tiêu chuẩn nào để thẩm định một vật là âm hay dương… Hiểu biết về âm dương cho đến nay vẫn còn là vấn đề tranh cãi giữa những nhà Dịch học.

Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”. Nhưng hiện nay, người ta vô tình hay hữu ý tầm thường hóa chân lý ấy. Chữ “khổ” trên cửa miệng của nhiều người đã trở thành câu chuyện nhàm chán: “khổ lắm… biết rồi… nói mãi…”. Người ta đã tầm thường hóa, dung tục hóa, bi hài hóa một chân lý dưới nhiều hình thức như văn chương, thi ca, kịch nghệ kiểu “chuyện tình Lan và Điệp”, nhằm khỏa lấp khoảng trống vô vị của cuộc đời… Thậm chí có vị Thiền sư thời danh đã dạy Phật tử: con người có sẵn sự an lạc mà không chịu hưởng, lại đi nhận nghiệp, nhận khổ. Vị Thiền sư này khẳng định: bên cạnh cái “khổ” của Tứ đế còn có cái “lạc”. Ngài còn dạy cách “chế tác lạc” nhằm đối trị “khổ”!?... Ngài quên rằng Thế Tôn chỉ dạy “Khổ thánh đế”. Thế Tôn không bao giờ chế tác “lạc thánh đế”!... 

Đức Phật dạy: đời là bể khổ, không có khổ chắc chắn không có đạo Phật. Không có khổ chắc chắn Thái tử Tất Đạt Đa đã kế nghiệp vua cha cai trị sơn hà xã tắc của Ngài, chứ không trở thành Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni tôn kính của chúng ta ngày nay. Nhưng vì có khổ, khổ là một sự thật hiển nhiên của mỗi con người cụ thể, không mơ hồ, trừu tượng. Nhận thức rõ ràng điều đó nên Ngài đã bỏ cung vàng điện ngọc ra đi với mục đích duy nhất, giải quyết rốt ráo vấn nạn này và Ngài đã thành công. Vì thế, bài pháp đầu tiên Ngài giảng cho năm anh em ông Kiều Trần NhưTứ Thánh Đế, đế đầu tiên Ngài dạy là KHỔ THÁNH ĐẾ. Sao “Khổ” mà gọi là “Thánh”? Chính nhờ trí tuệ siêu việt Ngài đã liễu tri như thực khổ, xác chứng chân lý đầu tiên của đạo Phật.

Nhưng khổ từ đâu sanh? Câu trả lời vắn gọn chính là từ tham dục… Vì tham dụccon người phải trôi lăn, hết tham dục thì hết trôi lăn, hết trôi lăn đương nhiên phải hết khổ. Đơn giản chỉ có thế! Điều này được xác tín qua lời dạy của Đức Phật: “Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ một pháp. Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh. Thế nào là một pháp? Tham, này các Tỷ-kheo, là một pháp, các Thầy hãy từ bỏ! Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.” (Tiểu bộ kinh. Bài kinh Một Pháp). Đối với sân và si, Ngài cũng dạy y như thế…

Kính thưa thầy T.T.H. Thầy có tin không? Tin rằng, nếu từ bỏ được tham sân si, Đức Phật bảo đảm không còn tái sanh! Tin không? Nếu tin sao thầy dạy Phật tử những điều ngược lại? Rằng: "Nếu một người tu theo đạo Phật mà không thấu triệt âm dương thì không thể đạt đến đỉnh cao của tâm linh…" Rằng: "Thực dưỡng Osawa không chỉ dừng ở chỗ dưỡng sinh mà còn nhìn sâu hơn đến Giác Ngộ Giải Thoát." Và khẳng định: "đó là mục đích cuối cùng của phương pháp dưỡng sinh Osawa…"

Tôi không tin tất cả các bậc Tôn túc hiện nay đều “thấu triệt lý thuyết âm dương”, nếu thế các vị sẽ “không thể đạt đến đỉnh cao tâm linh”?, không thể “nhìn sâu hơn đến giác ngộ giải thoát”?, các vị không thể đạt đến “mục đích cuối cùng” của đạo Phật!…

Lại nữa, nhiều Linh mục Công giáo như Lương Kim Định, Trần Văn Đoàn… là nhưng người rất am tường học thuyết âm dương, ngũ hành, họ cũng đã từng chia sẻ những trải nghiệm tâm linh giải thoát, nhưng là giải thoát trong “Chúa quan phòng” của họ!…

Có thể tạm kết luận, thực dưỡng Osawa và triết lý âm dương có thể dẫn đến “giác ngộ giải thoát”, nhưng giải thoát theo kiểu gì thì còn tùy, kiểu của các Đạo sĩ hoặc Nho sĩ? kiểu của Tiên sinh Osawa hay kiểu của các Linh mục Công giáo?… Riêng đối với đạo Phật, câu trả lời dứt khoát là “Không thể”. Giải thoát của đạo Phậtly dục, ly ác pháp, ly tham sân si, như đã được khẳng định trong bài kinh “Một pháp” thuộc kinh Tiểu Bộ, với sự bảo đảm chắc chắn của chính Đức Phật: Hãy từ bỏ tham, ta bảo đảm với các thầy sẽ không còn tái sanh…” 

Thật ngạc nhiên trước lời dạy: "Khi tọa thiền, vận dụng hơi thở để tại đan điền ở mạch nhâm, mà quên mạch đốc ở phía sau sẽ bị mất quân bình âm dương... người ngộ tánh là người phải hiểu được nguyên lý âm dương…" Có thể thầy T.T.H. đã dạy đúng, nhưng là đúng pháp của một vị Tổ sư nào đó, chứ không thể đúng pháp mà Đức Phật đã dạy trong Nikaya. Trong kinh Niệm xứ (Satipatthàna sutta) Đức Phật dạy rất rõ: "tuệ tri hơi thở vô, hơi thở ra với mục đích thấy như thật tánh sanh khởi, tánh sanh diệt, tánh diệt tận trên cả bốn trụ xứ thân, thọ, tâm, pháp," chứ Ngài không hề dạy vận dụng hơi thở tại đan điền, mạch nhâm, mạch đốc để quân bình âm dương… Đặc biệt đối với thân, vì trên thân có đầy đủ cả thọ, tâmpháp. Vì thế Đức Phật dạy: “"Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời…” Đã không nương tựa bất cứ việc gì trên đời, có lý nào lại nương tựa vào âm dương, mạch nhâm, mạch đốc?...

Luận thiền, luận đạo của các vị Tổ sư, của các tông phái không phải là mục đích của bài viết này. Người viết chỉ đưa ra những nhận định dựa trên lời dạy của chính Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni trong Nikaya với một tín lực đã được khẳng định: “Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn…” Chính vì thế, những lời dạy kiểu: "một người ngồi thiền không thể vào định được nếu không ngộ được nguyên lý âm dương…" chỉ có thể là thiền tưởng, định tưởng của một tôn giáo nào đó, chứ không thể là thiền định do chính Đức Phật dạy… Cái gọi là: không thể vào định! Định gì mà vào? Trong 37 phẩm trợ đạo Định Giác Chi và Định Như Ý Túcpháp thành tựu chứ không phải pháp hành. Pháp hành chính là: ngăn ác, diệt ác pháp. Sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp (Tứ chánh cần) và ly xả ngũ triền cái, thất kiết sử trên thân, thọ, tâm, pháp (Tứ niệm xứ). Do công năng ly và xả thật sạch mà Định Giác Chi và Định Như Ý Túc tự thành tựu. Nếu ngộ được nguyên lý âm dương mà vào được định, thì đây chỉ có thể là định tưởng. Về Thiền cũng thế, bằng chánh niệm tỉnh giác, ly tham dục, ly bất thiện pháp một cách triệt để, với tầm và tứ, cánh cửa Thiền thứ nhất sẽ được mở ra, chứ không thể ngồi quay mặt về hướng bắc cho đúng với từ trường âm dương mà có thể mở được cánh cửa Thiền này.

Từ bỏ tham như thế nào? Đạo Phật rất thực tế, rõ ràng cụ thể, không phải mớ lý luận siêu hình. Bài kinh 62. Ðại kinh Giáo giới La-hầu-la (Mahà Ràhulovàda sutta) Đức Phật dạy: "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập…” Dĩ nhiên không phải “quán”“ly” được ngay, mà từng giờ, từng phút, từng giây, chánh niệm tỉnh giác trên mỗi hơi thở ra, thở vô mới có cơ may quét sạch tham dục.

Cũng cần nói thêm để tránh ngộ nhận. Từ “quán” trong câu “quán ly tham” không phải pháp quán thông thường như mọi người thường hiểu, mà là pháp môn tạo ý thức lực mạnh mẽ gọi là “Như lý tác ý đệ nhất pháp” như chính Đức Phật đã dạy pháp môn này rất nhiều trong suốt bộ kinh Tăng Chi: “Này các Tỷ-kheo, nếu như lý tác ý, thời dục tham chưa sanh không sanh khởi, và dục tham đã sanh được đoạn tận…” Đây chính là pháp môn “Đoạn Triền Cái”… 

Nếu chúng ta “tu cầm chừng”, chỉ với mục đích gieo duyên với chính pháp, có thể thủng thỉnh, tà tà, vừa “tu" vừa nghiên cứu âm dương ngũ hành, áp dụng vào thực dưỡng đúng cách để có một cuộc sống tốt đẹp với một cơ thể khỏe mạnh. Điều này không có gì sai trái… Nhưng nếu chúng ta ý thức Sanh Tử Là Việc Lớn, thôi thúc bức bách sau lưng ta, buộc ta phải quyết định lựa chọn, đấu tranh một mất một còn với giặc sanh tử, liệu có thời gian chăng để nghiên cứu âm dương áp dụng cho đúng phép thực dưỡng?

Nếu quyết định chọn con đường giải thoátĐức Phật đã khẳng định “duy nhất, không có con đường thứ hai” như đã được biết trong kinh Niệm xứ Satipatthàna sutta thì hãy buông xả tất cả, hãy trả âm dương về cho thái cực, tứ tượng, bát quái, để nó vận hành, điều hòa vũ trụ theo cách của nó mà chúng ta không cần quan tâm… Vả lại, Đức Phật cũng đã từng dạy: “thừa tự Pháp không thừa tự thực phẩm…” (Kinh Thừa tự Pháp. Dhammadàyàda sutta. Trung bộ kinh).

Bệnh tật là một chướng ngại pháp tồn tại trên thân, nó sinh ra từ tham dục. Nếu tham ăn, tham uống, tham hút, chắc khó tránh các bệnh thuộc hệ hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa… Nhờ có chánh kiến, chánh tư duy, người Phật tử biết do nhân tham mà có quả bệnh, nhân quả rất rõ ràng, giả sửliên quan đến âm dương ngũ hành, cũng không phải là nguyên nhân chính.

“Có bệnh thì vái tứ phương, có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Kinh nghiệm dân gian được đúc kết nhiều đời đã khẳng định một giá trị thực tiễn: “có kiêng có lành”. Nếu thân bệnh mà biết kiêng cữ đúng cách cũng có thể ngăn chặn các biến chứng một cách đáng kể. Về mặt này, lý thuyết âm dương quân bình thực phẩm trong phương pháp dưỡng sinh Osawa cũng có mặt tích cực của nó. Người Phật tử đang áp dụng phép thực dưỡng này, có thể nghiên cứu nếu có điều kiệnthời gian. Nhưng không được phép nhầm lẫn bởi sự lạc dẫn do vô tình hay cố ý của ai đó đã cho rằng đây cũng là pháp môn “giác ngộ giải thoát” của đạo Phật.

Đối với thân bệnh, đạo Phật cũng có cách ngăn ngừa, hạn chế bệnh tật đơn giảnhiệu quả, đó là: thiểu dục tri túc. Từ đó hướng tới một giải pháp tích cực hơn, quét sạch tất cả mọi chướng ngại pháp trên cả bốn trụ xứ thân, thọ, tâm, pháp. Tất nhiên không dễ dàng gì vì tham dụcbất thiện pháp đã đổ bê tông cốt thép dày đặc trên đó, chúng đã khằn cứng từ nhiều đời kiếp, chỉ còn cách nhiệt tâm học làm nghề “khoan cắt bê tông”, tích cực khoan, đục, chặt các kiết sử, mài mòn dần các triền cái trên cả bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp. Nếu quét sạch được, lúc đó hành giả có thể ca khúc khải hoàn: “sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong…”

Điều sau cùng muốn chia sẻ là: tu giới và giữ giới là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Giới là pháp môn tu học chứ không phải là tín điều buộc phải giữ. Một người giữ giới, trường chay ba mươi năm, người này chưa chắc đã tu giới. Ngược lại, một người tu giới, người đó chắc chắn đã giữ giới. Điều này dễ hiểu vì dù trường chay nhiều năm, nhưng dục ăn vẫn còn, nghiệp đói của thân chưa xả bỏ. Ngoài dục ăn, còn nhiều thứ dục vi tế khác khó nhận biết, ví như thực phẩm phải vừa tương phản, vừa hài hòa về màu sắc, vừa kết hợp quân bình âm dương, tạo nên một món ăn đạt chuẩn thẩm mỹ mà người ta vẫn gọi là “nghệ thuật ẩm thực” với triết lý: ăn không chỉ bằng miệng mà còn bằng mắt… Đối với đạo Phật, chính tại chỗ này, dục của mắt, của mũi, của lưỡi phát sinh… Tu giới không chỉ là giữ giới mà chính là ly dục. Đây chính là chỗ khác biệt giữa người tu giới và người giữ giới.

Trí Lập

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6104)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9981)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7082)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7330)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6978)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9341)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5830)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7098)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6513)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6091)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7159)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14372)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20417)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9460)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7858)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8179)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7443)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9368)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7441)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7476)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7648)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9466)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8764)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7364)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7955)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7004)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7658)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9850)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8280)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8828)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7665)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8824)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8627)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 7997)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 8997)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9421)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8719)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8877)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7219)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9168)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8594)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7887)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9606)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10159)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8749)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8358)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7619)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9320)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7468)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15345)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7294)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8471)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12223)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7296)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11490)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8309)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8031)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7901)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8916)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7405)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant