Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thức biếnchuyển thức

12 Tháng Ba 201200:00(Xem: 17203)
Thức biến và chuyển thức
THỨC BIẾNCHUYỂN THỨC
Nguyễn Thế Đăng

1. Thức biến

Duy Thức tông, y cứ vào kinh, nói: Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức.

Chúng ta hãy lấy một ví dụ cụ thểđơn giản. Tôi đang thấy một cây dừa. Tại sao nói cây dừa này là do thức biến?

Trước hết là năm thức của giác quan (tiền ngũ thức). Nhãn thức do sự tiếp xúc, tương tác của căn (giác quan mắt) và trần (đối tượng hiện diện của con mắt) mà sanh khởi. Đây là một liên hệ duyên sanh. Căn trần thức là một bộ ba duyên sanh, nương dựa vào nhau mà có. Thiếu một cái thì chẳng thành cái gì, một cái biến đổi thì hai cái kia biến đổi theo. Nhãn thức như thế này của tôi là do nhãn căn (con mắt) được cấu tạo theo kiểu người mà có, và trần (đối tượng để thấy và được thấy) cũng tùy thuộc vào nhãn căn của tôi. Trần là trần của một loại nhãn căn nào đó, không có một cái trần khách quan tuyệt đối. Như cây dừa, con chó chỉ thấy có hai màu đen trắng, con rắn thì thấy bằng hơi nóng (như chúng ta nhìn qua ống dòm hồng ngoại tuyến, con dơi thì thấy bằng sóng điện như ra đa…­). Giác quan mắt của mỗi loài khác nhau nên đối tượng được thấy cũng khác nhau.

Trần là trần đối với một loại giác quan nào đó, không có trần khách quan tuyệt đối. Và thức cũng là thức của một loại giác quan và một loại trần nào đó do hệ thống cấu tạo của giác quan quy định.

Như vậy cấp độ thức biến thứ nhất là sự khác biệt của các nhãn căn của các loài khác nhau, đưa đến nhãn thức khác nhau. Nhưng năm thức giác quan chỉ là những dữ liệu nguyên sơ, phái có ý thức để đối tượng được định hình rõ hơn. Ý thứcnhận thức bằng phân biệt, so sánh, dựa vào trí nhớ và cả trí tưởng tượng. ý thức này cũng phân biệt chủ thể và đối tượng, ngã và pháp.

Bắt đầu ở ý thức này mà có thương ghét, có thiện ác, xấu tốt, có phiền não, có ý thức, có hôn trầm, có niệm, có định… Chức năng của ý thứcsuy nghĩ, tập trung và tưởng tượng. Ý thứcchức năng chính yếu của con người. Thế giới ngày nay có một góc nào mà không có sự sắp đặt, sáng tạo của ý thức con người?

Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi nhiều hơn gây ra nhiều méo mó khác biệt hơn, nhiều “ô nhiễm” cho tâm thức hơn. Chẳng hạn, cũng lấy ví dụ cây dừa, nếu hồi nhỏ tôi trèo lên và gặp rắn rồi té. Lớn lên uống nước dừa thường đau bụng. Thế nên, hình ảnh cây dừa, với tôi, đi liền với sự nguy hiểm bất ngờ, với một thức uống đáng ngại. Cho nên hình ảnh cây dừa gây cho tôi một ngại ngùng so với các cây khác. Sự bất bình đẳng, sự méo mó, đậm nhạt trong ý thức của tôi đã có từ những kinh nghiệm rất riêng tư của tôi đối với đời sống. Cây dừa không còn là cây dừa khách quan nữa. Nó đã bị biến đổi theo kinh nghiệm chủ quan của tôi. Và cứ thế, tất cả mọi sự vật của cuộc đời này đều bị biến đổi theo kinh nghiệm chủ quan của tôi.

Thế giới trở thành “toàn là gò đống, hầm hố, chông gai, sỏi đá, núi non, dơ bẩn đầy dẫy”, như ngài Xá-lợi-phất đã nói trong phẩm Phật quốc, mở đầu cho kinh Duy-Ma-Cật. Cách giải quyết vấn đề này là: “Đấy là do tâm ý của ngài có cao có thấp, không nương theo trí huệ Phật để thấy cõi này vốn là thanh tịnh. Thưa ngài, Bồ tát đối với tất cả chúng sanh thảy đều bình đẳng, thâm tâm thanh tịnh y theo trí huệ Phật nên thấy cõi Phật này là thanh tịnh”. Đức Phật kết luận: “Bồ tát nếu muốn được cõi Phật thanh tịnh, phải làm cho tâm thanh tịnh, tùy theo tâm thanh tịnh đến đâu thì cõi Phật thanh tịnh hiện ra đến đó”.

Như vậy, năm thức giác quan và ý thức-sáu thức này luận Thành Duy Thức gọi là liễu biệt cảnh-đã biến đổi thực tại thành không gianthời gian riêng của chúng, thành một cái tôi chủ quanmột thế giới chủ quan mà chúng lầm tưởng là ở bên ngoài chúng.

Cũng chính ý thứctác nhân chủ yếu biến đổi trở lại thế giới méo mó của nó thành thế giới như thực. Đó là con đường phản bổn hoàn nguyên, con đường của đạo Phật, con đường giải thoát khỏi ngã và pháp vọng tưởng để thấy ra thực tại không có ngã và pháp. Nói theo Duy thức học, đó là con đường xa lìa Biến kế sở chấp tánh để trở lại Viên thành thật tánh.

Thức thứ bảy là Mạt-na-thức, còn gọi là Ý. Thức này là sự phân biệt vi tế- mà luận Thành Duy Thức gọi là tư lương- phân biệt không cần có ý thức, phân biệt một cách vô thức, nằm trong vô thức. Mạt-na là sự chấp ngã vi tế, theo luận Thành Duy Thức thì thức này, “Tương ưng bốn phiền não, là ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái”.

Sinh ra đời đã cảm nhận có tôi (mạt-na-thức). Rồi với thời gian, với sự hỗ trợ của ý thức và năm thức giác quan, cái tôi càng ngày càng rõ rệt, càng cứng đặc, phân biệt gay gắt, tạo thành những bức tường ngăn cách tôi với thế giới, với người khác. Nhưng dù tôi không cố tình phân biệt (ý thức), thì cái mạt-na này vẫn liên tục âm thầm hoạt động, kể cả trong giấc mộng hay khi thiền định.

Thức biến thứ tám là A-lại-da, thức căn bản, thức nền tảng của bảy thức trước. Nó bao gồm, chứa đựng bảy thức trước. Nó được gọi là hàm tàng thức, chứa đựng, giữ gìn tất cả mọi kinh nghiệm, mọi hành động (nghiệp) , mọi khuynh hướng, ước muốn, mọi hoạt động xấu tốt đã được gieo trong tất cả mọi kiếp sống. Nó được gọi là “dị thục”, vì nó gìn giữ nhân để chín muồi (dị thục) thành quả. Nó được gọi là “nhất thiết chủng” vì nó thu nhậngiữ gìn tất cả các hạt giống.

A-lại-da là vô phú và vô ký. Phú nghĩa là nhiễm ô, bất tịnh. Nó không nhất địnhnhiễm ô, bất tịnh, vì nó có thể mang giữ hạt giống thanh tịnh, không nhiễm ô. Nó là vô ký vì không nhất định là thiện hay bất thiện, do đó nó có thế chứa hạt giống thiện lẫn bất thiện. Vì hai tính chất này, nó như một kho chứa vô thức, không chọn lựa, mà các thức trước muốn bỏ vào đó thứ gì cũng được, nó chỉ việc mang giữ để chờ chín thành quả. Thỉnh thoảng, không vì lý do gì, không có sự kích động của ý thức và năm thức giác quan, một hình ảnh xa xôi nào đó lại khởi lên. Đó là sự biểu lộ của những hạt giống khuất xa đâu đó trồi lên trên bề mặt ý thức.

Đến thức A-lại-da thì sự chuyển biến trở thành vi tế nhất. Như kinh Giải Thâm Mật nói về thức A-đà-na (tức A-lại-da) như sau:

Thức A-đà-na sâu và tế
Những chủng tử như dòng nước xiết
Ta không chỉ dạy cho người thường
Vì họ sẽ chấp nó làm ngã.

Đó là sơ lược tám thức của Duy Thức tông.

Tám thức này sanh diệt, cho nên nằm trong vòng sanh tử. Vậy cái gì thoát ngoài sanh tử? Riêng về Duy Thức tông, A-lại-da được tịnh hóa thì A-lại-da trở thành Như Lai tạng, hay còn được gọi là Bạch tịnh thức hay Vô cấu thức (mà có nhà Duy thức gọi là thức thứ chín). Đây là cái mà Đại thừa nói chung gọi là tánh Không, pháp thân, Chân Như, Niết bàn… Như thế tám thức sanh diệt này, cái mà chúng ta gọi là sanh tử này, luôn luôn sanh diệt trên Niết-bàn, tánh Không, Pháp thân… bổn lai thanh tịnh. Đây chính là con đường giải thoát của Đại thừa.

Một thức là duyên sanh. Tám thức nương vào nhau mà hiện hữu nên cũng là duyên sanh. Luận Thành Duy Thức, kệ 15 và 17 nói:

Nương dựa thức căn bản
Năm thức theo duyên hiện
Đồng thời khởi hoặc không
Như sóng nương biển cả.

Tám thức chuyển biến thành

(Cái) phân biệt, (cái) bị phân biệt

Do đây (cái phân biệt), kia (cái bị phân biệt) đều không:

Nên tất cả duy thức.

Kinh Lăng Già nói:

Phàm phu không trí huệ
Tàng thức như biển cả
Nghiệp tướng ví như sóng
Y thí dụ mà hiểu.
Nếu nói về chân thật
Tâm kia không chân thật
Ví như biển hiện sóng
Bóng trong gương và mộng
Tất cả đồng thời hiện
Tâm, cảnh giới cũng thế.

Tất cả những gì chúng ta thấy nghe hay biết, tất cả thế giới đều là do thức biếnhiện có ra. Biến (Skt: parimana) có nghĩa là chuyển biến, biến thái, biến đổi, biến động.

Biến có nghĩa là động. Thức biến là thức động, thức sanh khởi và diệt chìm. “Cái sanh diệt là thức, cái chẳng sanh diệt là Trí” (Kinh Lăng Già).

Biến có nghĩa là sanh ra, biến hiện ra. Ba cõi được sanh ra, được hiện ra do thức chuyển biến. Kinh Lăng Nghiêm nói: “A-nan, tất cả chúng sanh luân hồi trong thế gian đều do hai cái Vọng Thấy điên đảo phân biệt. Ngay nơi Tâm Tánh mà phát sanh, nương theo nghiệp mà xoay vần. Thế nào là hai cái Vọng Thấy. Một là cái Vọng Thấy Biệt Nghiệp của chúng sanh. Hai là cái Vọng Thấy Đồng Phận của chúng sanh”.

Mỗi thức và hợp thể tám thức tạo thành thân tâm đều là duyên sanh, chuyển biến, sanh diệt, hợp tạo. Chẳng hạn, thức A-lại-da là do các chủng tử hợp thành; nếu khôngcác chủng tử thì không có thức A-lại-da.

Tất cả các thức đều duyên sanh, chuyển biến nên vô tự tánh.

Tất cả các thức đều duyên sanh, chuyển biến nên như huyễn.

2. Chuyển thức

Chúng ta đã đi lạc vào trong một thế giới hạn hẹp, phân mảnh, sanh diệt, và do đó không thật, bất toại nguyện_những đặc tính của Khổ đế. Nguyên nhân của thế giới không thật, bất toại nguyện ấy là do thức biến. Với một tâm thức đầy ô nhiễm bởi phiền não, thành kiến, chia cách, phân mảnh, tham sân, hôn trầm, loạn động… chính tâm thức ấy đã biến hiện ra thế giới không thật và bất toại nguyện này. Bởi thế, để hoàn nguyên lại thế giới thực, thế giới đúng như nó là, chúng ta phải giải trừ đi đến loại bỏ sự biến hiện méo mó của thức, chúng ta phải chuyển hóa thức.

Sự chuyển hóa này Duy Thức tông gọi là “chuyển thức thành Trí”. Thức A-lại-da chuyển hóa thành Đại viên cảnh trí, thức Mạt-na chuyển hóa thành Bình đẳng tánh trí, ý thức chuyển hóa thành Diệu quan sát trí, và năm thức giác quan chuyển hóa thành Thành sở tác trí. Luận Đại thừa Khởi Tín nói là chuyển Sanh diệt môn thành Chân Như môn.

Kinh Lăng Nghiêm nói là “Chuyển năm uẩn, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới, bảy đại về Như Lai Tạng”.

Hệ thống Bát Nhã gọi là “chuyển sắc, thọ, tưởng, hành, thức… thành tánh Không”. Vì vô tự tánh nên quán Không, vì như huyễn nên quán Huyễn.

Hệ thống Tantra mẹ của Mật giáo nói là “chuyển tất cả các thức về Tịnh Quang, Ánh Sáng Căn Bản, Tâm Nền Tảng” (Skt: prabhasvara. TT: odgsal. Clear Light).

Quá trình chuyển hóa này được các tông phái gọi chung là sự “tịnh hóa”.

Ngài Trí Khải, người sáng lập Thiên Thai tông, phân định quá trình thực hànhLục Diệu Pháp Môn: Sổ tức, Tùy tức, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh.

Đại sư Pháp Tạng của Hoa Nghiêm tông gọi là “Vọng tận hoàn nguyên quán”.

Đại sư Khuy Cơ của Duy Thức tông nói Duy Thức có năm lớp quán là: Khiển hư tồn thật, Xả lạm lưu thuần, Nhiếp mạt quy bổn, Ẩn liệt hiển thắng, Xả tướng chứng tánh.

Tóm lại, những phương pháp thực hành của Phật giáo đều để “chuyển sanh tử thành Niết bàn”. Chuyển “cái thấy lầm con rắn” trở thành “cái thấy đúng sợi dây thừng”. Chuyển cái thấy phân biệt “tất cả chỉ là sóng xung đột nhau” thành cái thấy “tất cả sóng đều là nước đại dương bình an một vị”. Chuyển tâm thức đóng băng cứng đặc trở lại thành nước. Chuyển muôn ngàn bóng thương ghét trở thành gương. Thấy hoa đốm loạn xạ giữa hư không cũng chính là hư không… Chuyển tướng thành tánh, thấy tất cả các tướng chính là tánh.

Nguyên nhân của thức biến, tạo ra kết quả là hiện ra một thế giới với không gianthời gian hạn hẹp, đứt đoạn mà chúng ta gọi là sanh tử. Không sanh diệt biến thànhsanh diệt, thanh tịnh biến thành bất tịnh, không thể phân chia biến thành phần hạn xung đột nhau.

Cái chúng ta gọi là không gian, Kinh Lăng Già nói:

“Thấy nhiều hình tướng khác nhau, ví như vàng chuyển biến thành các đồ dùng thì thấy có nhiều thứ hình dạng, mà chẳng phải tánh vàng có biến đổi… Nên biết vọng tưởng chuyển biến cũng như bơ và sữa, rượu và trái cây… đã chín mà thành. Hoặc có hoặc không, tất cả đều do tự tâm hiện, vô tự tánh, thật ra chẳng có sự chuyển biến. Đại Huệ, như thế, chúng sanh phàm phu tự vọng tưởng mới sanh ra sự tu tập. Đại Huệ, không có pháp hoặc sanh hoặc diệt, tất cả giống như thấy sự vật sanh trong mộng huyễn vậy”.

Về thời gian của chúng ta, Kinh Lăng Già nói:

“Sát-na (khoảnh khắc) là A-lại-da trong Như Lai tạng, thức cùng ý chung sanh là tập khí sát-na. Tập khí vô lậu thì chẳng phải sát na, chẳng phải chỗ người thường có thể biết. Người thường chấp trước sát-na luận, chẳng biết tất cả sát-na chẳng phải là (phi) sát-na, rồi khởi đoạn kiến phá hoại Vô vi Niết bàn”.

Kinh Lăng Già kết luận: “Khéo biết tự tâm hiện, chẳng đắm trước. Lìa tất cả vọng tưởng của tâm, ý, ý thức, gọi là Niết Bàn”.

Phương pháp thực hành nào cũng đều có mục đích chuyển thức cả. Chẳng hạn, Bố thí Ba la mậtbố thíy cứ trên tánh Không.

“Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh” là Bồ-đề tâm nguyện và Bồ-đề tâm hạnh của người tu đạo Bồ-tát. Công việc ấy không rời lìa tánh Không vô tự tánhnhư huyễn.

Lòng bi không rời tánh Không vô tự tánhnhư huyễn thì mới là Đại Bi, nghĩa là Đại Bi thì hợp nhất với tánh Không.

Kinh Kim Cương nói: “Thiện nam tử, thiện nữ nhân nào phát tâm vô thượng Bồ đề thì phải sanh tâm như vầy: ta phải độ thoát tất cả chúng sanh, độ thoát tất cả chúng sanh rồi, mà thật không có một chúng sanh nào đã được độ thoát”.

Vì sao thế? Bởi vì, “Chúng sanh, chúng sanh ấy, Như Lai nói rằng chẳng phải chúng sanh, đó gọi là chúng sanh”.

Chúng sanh mà thật chẳng phải chúng sanh, đây là sự chuyển thức được Duy thức học nhấn mạnh nhiều nhất. Với sự nhấn mạnh ấy, Duy thức học đóng góp rất nhiều cho con đường tu Bồ-tát đạo. Một thí dụ: vô tự tánh, như huyễn giống như sự biết bơi. Người không biết bơi không thể nhảy xuống dòng sông sanh tử để cứu người. Còn người biết bơi, có cái thấy vô tự tánh, như huyễn, thì có thể nhảy xuống nước, hoạt động trong nước mà không chìm để cứu người.

Có lẽ, bất cứ người nào thực hành Bồ-tát đạo cũng thường ngân nga trong lòng mình câu kệ mở đầu Kinh Lăng Già. Ngân nga như một bài ca của con đường Bồ-tát:

Thế gian lìa sanh tử
Như hoa giữa hư không
Trí chẳng đắc có không
Mà hưng tâm đại bi.

Tất cả pháp như huyễn
Xa lìa khỏi tâm thức
Trí chẳng đắc có không
Mà hưng tâm đại bi.

Xa lìa tưởng đoạn thường
Thế gian hằng như mộng
Trí chẳng đắc có không
Mà hưng tâm đại bi.

Biết nhân-pháp vô ngã
Phiền não chướng, sở tri
Thường thanh tịnh vô tướng
Mà hưng tâm đại bi.

Tất cả không Niết bàn
Không có Niết bàn (của) Phật
Không có Phật Niết bàn (nhập diệt)
Xa lìa giác, sở giác
Hoặc có hoặc không có
Là tất cả đều lìa.

Thấy Mâu-ni tịch tĩnh
Ấy là xa lìa sanh
Đây gọi là chẳng thủ
Đời này đời sau tịnh.

 

(Văn Hóa Phật Giáo 132)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9641)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
(Xem: 23124)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
(Xem: 8114)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20521)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19534)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18407)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16272)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15949)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19063)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14312)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9629)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8723)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8221)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8919)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 10983)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9151)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8886)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 7965)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9099)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35639)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8562)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15100)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8716)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15304)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9188)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8850)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9362)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8458)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10303)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7667)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9544)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7520)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17234)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15023)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9513)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20909)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9222)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7180)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17726)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17640)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25836)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7836)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9930)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7275)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9657)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8151)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9125)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7424)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8795)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7942)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8367)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7552)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8741)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8172)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8902)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7303)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 14017)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7117)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
(Xem: 10373)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
(Xem: 7700)
Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant