Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vài nét về thái độ giáo dục của Đức Phật

28 Tháng Chín 201000:00(Xem: 11057)
Vài nét về thái độ giáo dục của Đức Phật


Rất hiếm các bản luận văn đề cập đến Đức Phật như là một nhà giáo dục lý tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diệntiên tiến

Viết về đức Phật, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng giáo chủ, đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại; hoặc đề cập đến Ngài như là mộ nhà tư tưởng, một nhà tư tưởng cách mạng... Nhưng có rất hiếm các bản luận văn đề cập đến Ngài như là một nhà giáo dục lý tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diệntiên tiến

Trong bài này chúng ta tiềm hiểu đức Phật qua lăng kính giáo dục

Phật giáo qua hơn 25 thế kỷ ảnh hưởng đã đóng góp nhiều vào văn hóa nhân loại. Sự kiện đóng góp này soi tỏ Phật giáo như là một hệ thống giáo dục.

Giáo dục 

Giáo dục hiểu theo nghĩa rộng rãi, như là con đường hai chiều của dạy và học của con người kể từ khi sinh ra cho đến khi chết, và có mặt ở ba môi trường sinh hoạt gia đình, học đường và xã hội. Thuyết nghiệp (kamma) của nhà Phật xem sự hình thành của thân ngũ uẩn này như là kết quả của các hành động trong quá khứ. Từ đây, nghiệp mới được hình thành qua các hành động cố ý của thân, khẩu và ý. Chủ trương của Phật giáogiải thoát nghiệp; chuyển đổi từ nghiệp ác qua nghiệp thiện, và từ nghiệp thiện đến giải thoát. Thế có nghĩa là Phật giáocon đường giáo dục con người đủ hai mặt nhận thức và hành động từ khi sinh cho đến khi chết, ở khắp các môi trường sống.

Nói đến giáo dục là nói đến niềm tin căn bản của nó, cái niềm tin mở hướng phát triển muôn thuở cho giáo dục, tin tưởng rằng trong con người có khả năng gần như vô tận, có thể tiếp thu nhiều kiến thức và có thể điều chỉnh mọi lệch lạc của tâm lý, vật lý, sinh lýtư duy của tự thân. Ðây là lý do mà học đường đã mở dạy rất nhiều môn học cho mọi người, gồm cả những người chậm trí.

Nguồn khả năng ấy, Phật giáo gọi là khả năng giác ngộmọi người đều có thể vận dụng qua nỗ lực của tự thân. Ðạo đế trong Tứ đế của Phật giáocon đường vận dụng khả năng ấy. Có thể nói đây là cái thấy biết và là niềm tin vô ngã được mở ra từ lời dạy của đức Phật: "Hết thảy các pháp là vô ngã" (Sable Dhamma Amatta - Dhp. 279) . Do vì nhận thứcvô ngã và các pháp là vô ngã nên mới có thể thực hiện sự chuyển hóa nhận thức về các pháp, và mới có các công trình sáng tạo.

Nếu các pháp gồm nhận thức, là hữu ngã, thì không bao giờ có nguồn sáng tạo xuất hiện, và không bao giờ công cuộc giáo dục được thực hiện.

Giáo lý vô ngã của Phật giáo, như thế, quả đã dựng nên niềm tin căn bản của giáo dục.

Mục Tiêu Giáo Dục

Một đường hướng giáo dục tốt luôn luôn nhắm đến hai mục tiêu: đào tạo con người xã hộicon người chính nó. Con người xã hội đáp ứng các nhu cầu như kinh tế, văn hóa, giáo dục, quốc phòng, chính trị; con người chính nó là con người toàn thể của vật lý, tâm lý, sinh lý, ý chí, trí tuệ và tình cảm đang trôi chảy. Một hệ thống giáo dục thiếu một trong hai mục tiêu ấy là một nền giáo dục không hoàn chỉnh.

Thế Tôn đã giáo dục con người đầy đủ các mặt ấy. Về mặt xã hội, kinh Sigala (Trường bộ kinh số 31) và kinh Thiện sinh (Trường A Hàm số 16) nói lên việc xây dựng sáu mối tương giao tốt của xã hội: tương giao giữa cha mẹ và con cái, giữa thầy và trò, giữa vợ và chồng, giữa cá nhân và bạn bè, bà con, láng giềng, giữa chủ và thợ, giữa tu sĩcư sĩ.

Kinh Tăng chi, chương bảy pháp, đề cập đến bảy điều làm cho một quốc gia cường thịnh. Chương mười pháp nói đến một nội các (hay một chính phủ) tốt cần thực hiện tốt 10 điều gọi là "thập vương tử pháp":

1. Ðộ lượng, bố thí, bác ái.
2. Không tham ái, không tham lam tiền củatài sản.
3. Không sát sinh, không bóc lột, không trộm cắp, không tà dâm, không say sưa.
4. Hy sinh tất cả cho lợi ích của dân chúng, sẳn sàng từ bỏ mọi tiện nghi cá nhân.
5. Hiền từ và hòa ái.
6. Khắc khổ trong nếp sống.
7. Không được sân hận, không được tư thù.
8. Nhẫn nhục trước mọi khó khăn, trước mọi chỉ trích mà không để mất bình tĩnh.
9. Không hại người; Ðề cao hòa bình, ngăn chặn chiến tranh và những bạo động phá hoại sự sống.
10. Không chống lại ý muốn của nhân dân, mà thuận ý dân.

Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống (Trường bộ kinh III số 26) cho rằng nghèo đóinguyên nhân chính của trộm cắp, hung ác, thù hằn, bạo độngvô luân. Ðể cải thiện tình trạng xã hội ấy, cần phải cải thiện kinh tế bằng cách cung cấp hạt giốngphương tiện canh tác cho nông dân, cung cấp vốn đầu tư cho thương gia, và trả lương thích đáng cho công nhân. Bấy giờ đức Phật dạy các lễ tế đàn cần được thay thế bằng các cuộc đại chẩn thí cho nhân dân.

Về mặt cá nhân

Ðức Phật dạy đến hạnh phúc của gia đình (Tăng chi IV, tr 220; Tương ưng I, tr 4; Trung bộ kinh III, kinh Nhật Dạ Hiền Giả) mỗi cá nhân cần thực hiện đủ:

- Giỏi tay nghề, siêng năng, biết điều hành công việc.
- Biết quân bình chi và thu; giữ cho sổ thu lớn hơn sổ chi.
- Biết làm ra của cải hợp pháp bằng sức lao động của mình.
- Biết đầu tư.
- Biết làm bạn với hiền (có thí, giới, tín, và tuệ)
- Biết quân bình sức khỏa và tâm lý.
- Biết lo cho đời sau: tín, thí, giới và tuệ.
- Biết sống ngay trong hiện tại: không tiếc nuối quá khứ, không mộng tưởng tương lai, làm chủ suy tư không để cho các tư duy về quá khứ, hiện tại, vị lai sai lệch gây rối loạn sầu muộn.

Bây giờ chúng ta đi vào các tinh thần giáo dục có biểu trưng của Phật giáo:

Tinh Thần Trách Nhiệm Cá Nhân

Trước tiêntinh thần trách nhiệm cá nhân. Thế Tôn không dạy con người phải lệ thuộc Ngài, hay phải phó thác đời mình cho bất cứ một quyền năng nào cả. Ngài dạy: "Ngươi phải làm công việc của ngươi, vì Như Lai chỉ dạy con đường" (Dph XX,4)

-"Ngươi là nơi nương tựa của chính ngươi, ai khác có thể là nơi nương tựa?" (Dph XII,4).

Nói về nghiệp, Tăng chi và Trung bộ kinh chỉ rõ "người là tác nhân, là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp".

Nếu khôngtinh thần trách nhiệm cá nhân, thì nhân quả của Phật giáo không có gì để bàn đến nữa, Phật giáo không còn có lý do để có mặt ở đời. Nếu khôngtinh thần trách nhiệm cá nhân, thì học đường cũng không thể thiết lập giáo dục, và luật pháp xã hội sẽ không có chổ thi hành, cuộc đời sẽ đại loạn.

Tinh thần giáo dục về trách nhiệm cá nhân luôn luôn phải được thực hiện tốt trong một hệ thống giáo dục hoàn bị.

Giáo Dục Theo Căn Cơ

Mỗi học viên có các điều kiện tâm, sinh, vật lý, tình cảm, trí tuệđiều kiện sống khác nhau nên cần được đón nhận các điều kiện và phương thức giáo dục khác nhau.

Tinh thần giáo dục cá nhân này phản ảnh tinh thần giáo gục "khế cơ" của Phật giáo. Ðức Phật đã thực sự áp dụng nguyên tắc khế cơ từ buổi đầu giáo hóa. Hình ảnh hồ sen có những cánh sen chưa ra khỏi bùn, có những cánh sen ở lưng chừng nước, cũng có những cánh sen vươn ra khỏi mặt nước tiếp thu được ánh sáng mặt trời và tỏa ngát hương thơm. Cũng thế con người có những căn trí bất đồng, có người chóng hiểu, có người chậm hiểu có người nặng về tham, có người nặng về sân, si, có người thích tịnh, có kẻ hiếu động... nhưng tất cả qua quá trình giáo dục, lần lượt sẽ như cánh sen vươn ra khỏi nước để trực tiếp tiếp thu giáo lý giải thoát. Thế là đức Phật không ngần ngại lên đường giáo hóa, giảng dạy tùy theo căn cơ, khích lệ khiến cho mọi người đều được lợi ích, an lạcgiải thoát. Thuật ngữ Phật giáo thường nói có đến 84000 pháp môn tu hành là vậy.

Về sau, vào thời kỳ phát triển Phật giáo Bắc tông, tinh thần "khế cơ" lại được xiển dương qua giáo lý ngũ thừa, tam thừa, nhị thừanhất thừa.

Thế Tôn đã vận dụng rất thiện xảo tinh thần "khế cơ" vào cả mặt ngôn ngữ diễn đạt, cung cách diễn đạttâm lý thích ứng đối tượng nghe pháp, mà chúng ta gặp rất nhiều qua các kinh của các bộ phái Phật giáo.

Ðến với nông dân, đức Phật dùng ngôn ngữhình ảnh của nhà nông để trình bày pháp; đến với chúng Sát đế Lợi, Bà la Môn, đức Phật biểu hiện cung cách và ngôn ngữ của chính họ.

Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả. Ý nghĩa này cũng được gồm vào tinh thần khế cơ ấy.

Giới luật cũng được Thế Tôn thiết lập trên nguyên tắc khế cơ: Tăng, Ni và Nam Nữ cư sĩgiới luật riêng của từng đoàn thể.

Các đối tượng tu tập thiền chỉ và thiền quán cũng được dạy khác nhau đối với các căn cơ khác nhau.

Tinh Thần Thực Tiễn, Thực Tế

Một tinh thần giáo dục đặc sắc khác mà Thế Tôn truyền dạy là tinh thần "thiết thực hiện tại", hay tinh thần thực tiễn, thực tế.

Phẩm kinh Cây Lau (tương ưng I, Hán tạng, tập 36.3; Ðại 2.260c; Biệt tập 8.1, Ðại 2) dạy:

"Không tham việc đã qua,
Không mong việc sắp tới,
Sống ngay với hiện tại,
Do vậy sắc thù diệu.
Do mong việc sắp tới,
Do than việc đã qua,
Nên kẻ ngu héo mòn, 
Như lau xanh lìa cành."

Kinh "A Nam Nhất dạ hiền" (Trung bộ III; Hán tạng: Trung A Hàm số 167) ghi:

"Quá khứ không truy tìm, 
Tương lai không ước vọng
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây."

Với nếp sống của con người thì chỉ có hiện tạitương đối có thực. Sống có nghĩa là sống với hiện tại, sống vào hiện tại, hay nói cách khác, chỉ có hiện tại là sống. Sống ngay với hiện tạitinh thần thiết thực. Than thở, tiếc muối quá khứ, hay mơ ước tương lai, chẳng những để mình rơi vào chổ phi thực mà còn để mình vướng mắc vào rối loạn tâm lý, khổ đau, và đánh mất hiện tại đang là cái hiện tại sống động, mới mẻ đầy sáng tạo, đầy nghĩa sống, và có thể hiện tại trở thành vĩnh cửu nếu mình biết nhiếp phục cái tâm chấp ngã tướng.

Nếu không biết tích cực chấp nhận hiện tại như nó đang là để vận dụng hiệu quả khả năng và trí tuệ của mình đi đến an lạc, hạnh phúcgiải thoát, thì như đức Phật đã dạy, dung sắc của mình sẽ khô héo nhanh chóng như lau xanh lìa cành. Có lẽ hạnh phúc của đời mình cũng héo khô như thế.

Chúng ta sẽ thấy rằng phần lớn các rối loạn, sầu muộn của tuổi trẻ, của người lớn đều do tư duy của họ gây ra, nhất là những tư duy về quá khứ không thiết thực, về những tương lai hão huyền. Quan sát đời sống cá nhân, có thể phát biểu rằng 90% cuộc sống mình bị đánh mất bởi các tư duymộng tưởng sai lầm ấy.

Thật là dễ hiểu, những sự kiện không vừa ý xảy đến với mình gây phiền muộn cho mình thì ít, mà tư duy của mình về các sự kiện ấy quấy rầy, phiền hà mình thì nhiều.

Vả lại nghĩ nhiều về quá khứ và tương lai không thiết thực chỉ đánh mất thời giannăng lượng đáng lẽ được dùng vào việc lợi mình và ích người.

Như thế, "hiện tại" và "tại đây" như là hòn đảo an toànđức Phật đã chỉ cho con người nương tựa, để khỏi bị rơi chìm vào trong đại dương phiền muộn của vọng tưởng, để từ đó có thể đi vào nghĩa sống hạnh phúc mà nghìn thu con người tìm kiếm.

Sau khi trở về với hiện tại, con người phải biết làm chủ tư duydục vọng (phần giải thích rộng rãi của tôn giả Ca Chiên Diên) để được lợi ích thiết thực.

Chàng Màlunkyaputta, trong Trung bộ II (Kinh Cùla Màlunkyaputtasuttam) và trong kinh Tiểu dụ (Hán tạng: Ðại 1.917) đặt 10 câu hỏi siêu hình với đức Phật: Thế giới là thường? Vô thường?... Như lai sẽ tồn tại sau khi chết....

Thế Tôn đã im lặng không trả lời. Ngài nói cho Màlunkyaputta, nghe câu chuyện một người bị mũi tên độc. Vấn đề cấp thiết là giải phẩu để giải độc ngay, chứ không phải là vấn đề tìm hiểu ngọn nghành mũi tên, người bắn mũi tên.... Trước khi chịu giải phẫu. Cũng thế, vấn đề cấp thiết của con người là nhổ mũi tên khổ đau, chứ không phải là đi tìm câu trả lời cho các vấn đề siêu hình không thiết thực kia.

Thế Tôn đã từng dạy (Tương Ưng V, và nhiều kinh khác): "Những gì Như Lai biết ví như rừng lá simsàpa, còn những gì mà Như Lai thuyết giảng thì ít như nắm lá trong tay, nhưng đấy là những phương thuốc trừ khổ". Ðây là tính chất thực tiển. Nói về hạnh phúc đời sống gia đình, đức Phật chỉ dạy những bổn phận và những việc phải làm cụ thể, mà không chỉ cho hàng đệ tử đi vào cầu nguyện, cúng lễ. Ngài đã dạy Tế đàný nghĩabố thí, giúp đỡ tha nhân, và Tế đàný nghĩa hơn hết là tu tập: Giới, Ðịnh, Tuệ của chính tự thân. (Trường bộ I; Tăng chi IV, tr 39; Tăng chi II, phẩm Bổn pháp). Ðây là ý nghĩa rất thực tiễn khác.

Tinh Thần Phê Phán

Một tinh thần khác rất là đại học đã làm kinh ngạc các nhà nghiên cứu tôn giáo, là tinh thần phê phán căn cứ vào sự thể nghiệm của chính tự thân giữa cuộc sống trôi chảy này.

Thế Tôn đã dạy các người Kàlamas, những người đang hoang mang trước những lời tuyên bố của ngoại đạo cho rằng họ là số một, rằng: Này các Kàlamas, đừng để bị dẫn dắt bởi những báo cáo, hay bởi những truyền thống, hay bởi tin đồn, đừng để bị dẫn dắy bởi thẩm quyền kinh điển, hay bởi luận lý suông, hay bởi suy lý, hay bởi sự xét đoán bề ngoài, hay bởi sự thích thú trong lý luận, hay bởi những điều "tuồng như có thể xảy ra" hay bởi ý nghĩ: "Ðây là bậc Ðạo sư của chúng ta. Nhưng này, các Kàlamas, khi nào các ngươi tự mình biết chắc chắn rằng những việc này là thiện là tốt, hãy chấp nhận và theo chúng". (A.Colombo, 1929, tr.115)

Kinh Tư Sát (Trung bộ I), đức Phật dạy các đệ tử xem xét ngay cả đức Phật để thấy rõ chân giá trị của Ngài.

Tinh thần phê phán trên đủ để làm chuẩn cho tinh thần phê phán của đại học ngày nay.

Tinh Thần Hướng Dẫn Hay Chỉ Ðường

Như đã trưng dẫn, đức Phật xác nhận đức Phật chỉ là người chỉ đường, còn mỗi cá nhân phải làm lấy công việc của mình. Kinh Gonaka Moggalàna, Trung bộ III, thuật đức Phật từ chối vai trò lãnh đạo của Ngài và xác nhận pháp lãnh đạo chúng Tăng, nương tựa Pháp, Pháp lãnh đạo. Pháp ở đây là con đường đi vào giải thoát. Suốt chặng đường giáo hóa, đức Phật luôn luôn là người chỉ đường mà không bao giờ ra lệnh hay bắt ép ai tuân phục Ngài.

Tinh thần giáo dục "hướng dẫn" là tinh thần đã được đức Phật truyền đạt đã hơn 25 thế kỷ qua. Ðức Phật luôn luôn đề cao thân giáo và khẩu giáo bằng quan sát và phân tích thực tế. Mục đích của việc giảng dạy là giúp đỡ người nghe nhận ra con đường và tự mình quyết định thực hiện con đường.

Tinh Thần Khích Lệ, Tự TínTự Chủ

Ngành tâm lý giáo dục quả quyết con người cần sự tán thán, khích lệ như là cần dưỡng khí để sống. Ngành này nhắc nhở nhà giáo đừng bao giờ quên rằng học trò đang cần sự khích lệ. Thật lạ lùng, đức Phật vận dụng thiện xảo tinh thần khích lệ vào việc thuyết pháp độ sinh.

Khích lệ là sửa soạn để xây dựng tự tín, tự chủ cho hàng đệ tử. Chỉ cho con đường trở về nương tựa chính mình là chỉ dạy con người trở về với tự tín, sự kiện Thế Tôn ra đời và tu tập giải thoát bằng chính nỗ lựcđiều kiện của tự thân con người là sự kiến thiết lập tự tín cho đời.

Lòng tự tín không thể thiếu được đối với người tu tập giải thoát. Nó cũng không thể thiếu sót đối với người đời, không tin người khác thì có thể sống được, nhưng không tin mình thì thật là khó sống. Thánh Tu Ðà Hoàn (quả sa môn đệ nhất) được định nghĩa như là người có niềm tin bất thối vào con đường giải thoát của mình.

Thỉnh thoảng Thế Tôn lại tuyên bố sự chứng đắc A La Hán giữa Tăng chúng của một số đệ tử nhỏ tuổi, tuổi trẻ như là vừa để khích lệ những người chưa chứng đắc nỗ lực.

lãnh vực giáo dục, tự tín là một đức tính mà học đường có trách nhiệm xây dựng cho học viên. Bởi thiếu tự tín thì sẽ thiếu tự chủ, sinh ỷ lại, học sinh sẽ không vận dụng được khả năng của tự thân để giải quyết các vấn đề cá nhân, cũng hoàn toàn không vận dụng được khả năng sáng tạo.

Ði vào lãnh vực quốc gia, một dân tộc hùng cường không thể là kết quả xây dựng của các thế hệ trẻ thiếu tự tin, tự chủ.

Tinh Thần Ðộc Lập, Giải Trừ Nô Lệ

Phật giáo chỉ đường đi vào giải thoát, có nghĩa là chỉ đường đi ra khỏi mọi trói buộc, mọi ách nô lệ, gồm có sự nô lệ cho chính dục vọng của mình. Ðó là con đường "Bát chánh" đi ra khỏi tham, sân, si, đi từng bước tự chủ. Một nền giáo dục như thể hẳn sẽ tạo nên những thế hệ làm chủ xã hộihạnh phúctự chủ của cả cá nhân và của dân tộc, đập vỡ mọi ách trói buộc bên trong và bên ngoài.

Tinh thần giáo dục này rất phù hợp với mục tiêu của xã hội mà học đường ngày nay cần thực hiện nghiêm túc.

Tinh thần giải thoát tham, sân, si còn mang một ý nghĩa tích cực khác: vô tham sẽ dập tắt hiện tượng tham nhũng của xã hội, vô sân sẽ dập tắt các vụ nổi loạn, dập tắt chiến tranh (bởi gốc của chiến tranh là tham lam, sân hận), vô si sẽ mở rộng đường trí tuệ, sáng tạo để xây dựng xã hội.

Tinh thần giáo dục ấy của Phật giáo há lại không đóng góp tích cực và hữu hiệu vào một hệ thống học đường hiện đại sao?

Tinh Thần Giáo Dục Con Người Toàn Diện

Giáo dục cần có một nhận thức ổn định về ý nghĩa con người là gì, trước khi đi vào công việc giáo dục như thế nào và dạy những gì cho con người ấy. Theo giáo lý của đức Phật, con người chỉ là tổng hợp thể của sắc uẩn, thọ, tưởng, hành và thức uẩn (vật lýtâm lý)- sắc uẩn (vật lý), thọ, tưởng, hành và thức uẩn (tâm lý). Ở mặt tương đối của hiện tượng, giáo dục con người có nghĩa là giáo dục để điều hòa và phát triển năm uẩn đó thế nào để đạt được hạnh phúc, an lạcgiải thoát ngay trên cuộc đời này, từ hạnh phúc tương đối đến hạnh phúc tuyệt đối. Ðấy là một hệ thống giáo dục phát triển điều hòa về trí dục, đức dục, thể dục, mỹ dục, tình cảm sinh lý và lao động.

Hạnh phúc như là mục tiêumọi người nhắm đến. Gốc của khổ đau sâu xa nhất thực sự là do chấp thủ ngã tướngtham ái các ngã tướng cho rằng sắc, thọ, tưởng, hành và thức uẩn có tự ngã, và con người tổng hợp của các sắc uẩn đó, có tự ngã. Ðể làm bật tung gốc khổ đau ấy, Phật giáo trao truyền cho người đời nhận thức về vô ngã của mình và về vô ngã của mọi sự vật.

Qua nhận thức vô ngã ấy nghĩa là qua cái nhìn duyên sinh của Phật giáo. Giáo dục Phật giáo đặt ra một số vấn đề rất lớn về giáo dục:

1.- Trí tuệ mà không phải là kiến thức:

Kiến thức chỉ là sản phẩm của tư duy ngã tính, nó không phải là con người toàn diện, nó là gốc của tham ái, chấp thủ dẫn đến khổ đau. Trí tuệ nói giản dị là chánh kiếnchánh tư duy, chánh kiến nói gọn là phải thấy các pháp đều vô ngã, sống vô tham, vô sânvô hại. Do đó, với Phật giáo, giáo dục phải vừa cung cấp kiến thức chuyên môn vừa chỉ rõ lối vào trí tuệ ấy.

2.- Giá trị tiêu chuẩnhạnh phúc mà không phải là giáo điều luân lý:

Nếu mục tiêu của cuộc sống là hạnh phúc, thì hạnh phúc cần được xem là giá trị tiêu chuẩn nhất. Luân lý hay kỷ luật học đường được lập ra là để phục vụ cho mục tiêu hạnh phúc đó. Học đường không thể nhân danh luân lý hay kỷ luật để gây tổn hại đến hạnh phúc con người.

3.- Giáo dục lao động, mỹ thuật, tình cảm, sinh lý:

Các môn học về lao động, mỹ thuật, tình cảm, sinh lý cần được giáo dục tốt cho tuổi trẻ. Ðấy là những gì cần thiết để phát triển con người toàn diện và đem lại hạnh phúc cho con người. Một hệ thống giáo dục tốt không thể đặc nhẹ các môn học này.

4.- Giáo dục đánh thức:

Ðức Phật chỉ là vị chỉ đường, con người phải thực hiện con đường bằng chính nỗ lực của mình. Do đó, giáo dục Phật giáo nổi bật sắc thái đánh thức, mà không nhồi nhét kiến thức. Một nền giáo dục như thế đặt nặng về phương pháp nhận thức và hành động mà không đặt nặng ký ức. Ðây là giáo dục của sáng tạo.

5.- Con người với văn hóa truyền thống:

Văn hóatruyền thống là sản phẩm của con người, nó phải được đặt sau con người. Cái gì của văn hóatruyền thống tốt đẹp, phù hợp với hướng phát triển của con người mới hướng đến hạnh phúc tự chủ thì được giữ lại, cái gì không phù hợp thì loại bỏ. Ðặt văn hóatruyền thống trước con người là "đặt cái cày trước con trâu". Do đó, đức Phật đã dạy: "đừng để bị dẫn dắt bởi truyền thống".

Tinh Thần Giáo Dục Thiền Ðịnh

Giáo dục thiền định là sắc thái giáo dục rất đặt biệt của Phật giáo; nó là con đường giáo dục tâm lýtrí tuệ, dạy con người tinh thần tự chủ, tự tri, tự tínsáng tạo, dạy con người chuyển đổi các tâm lý tiêu cực thành tích cực, chuyển đổi các tâm lý bi quan thành lạc quan, dạy con người huấn luyện ký ức tốt để tiếp thu kiến thức dễ dàng...

Ngày trước vua A Dục (Asoka) ở Aán Ðộ đã dạy thiền định cho dân chúng và đã đem lại một thời kỳ đất nước Aán Ðộ cường thịnh (theo "Bia ký của vua A Dục", Jules Bloels, Paris, 1950).

Thời đại Lý, Trần ở Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm giáo lý thiền định của Phật giáo, đã là thời đại hiển hách của xứ sở, tạo được sức mạnh toàn diện (quốc phòng, văn hóa, kinh tế) để giữ nước và dựng nước.

Trong giới hạn số trang của bài này, bài tiểu luận này không thể trình bày chi tiết hơn về tinh thần giáo dục thiền định, không thể đi sâu vào các tinh thần giáo dục vừa trình bày, và cũng không thể đi xa thêm nữa vào các tinh thần giáo dục đặc biệt khác của Phật giáo, như là tinh thần giáo dục trung đạo, tinh thần vô chấp, tinh thần tùy duyên bất biến, tinh thần "lục hòa", tinh thần "tứ nhiếp"... những tinh thần giáo dục sau chỉ rõ phương thức hành động và lãnh đạo hữu hiệu trong các sinh hoạt của các cộng đồng.

Tinh Thần Giảng Dạy Nêu Ví Dụ Cụ Thể

Nhà giáo dạy giỏi là nhà giáo khéo làm cho học sinh hiểu được những gì mình truyền đạt. Một nội dung tốt để truyền đạt nếu không được truyền đạt bằng một kỷ thuật tốt thì chưa thật tốt. 

Ðức Phật trong phương pháp giảng dạy của Ngài, Ngài vừa áng các nguyên tắc "khế lý", "khế cơ" vừa khích lệ lại vừa dùng các ví dụ cụ thể rất quen thuộc với người nghe để giúp người nghe hiểu được dễ dàng những gì Ngài muốn nói.

Một hình ảnh rất quen thuộc với Phật tửhình ảnh Thế Tôngiáo lý Ngài như chiếc bè để qua sông, mà không phải để mang trên vai (Nikàya, A HàmKim Cang); hay hình ảnh giáo lý chỉ là chiếc bản đồ chỉ đường, hoặc là ngón tay chỉ mặt trăng. Người học đạo phải rời khỏi giáo lý để đi vào thực tại của chứng nghiệm như phải rời khỏi bản đồ để đi vào nơi mình muốn, hoặc rời ngón tay để thấy mặt trăng vậy.

Nói về vị nhất quán của giáo lý đó là vị giải thoát. Ðức Phật dạy, "Như biển chỉ có một vị là vị mặn của muối, giáo pháp ta chỉ có một vị là giải thoát khổ đau".

Các tôn kinh như "kinh ví dụ chiếc lưới" (Phạm Võng), "kinh ví dụ con rắn" (xà dụ), "kinh khúc gỗ", "kinh bánh mật", "kinh gò mối", "kinh Kim cương" "kinh Pháp hoa", "kinh Ðịa tạng".... Nổi bật hình ảnh ví dụ.

Ðức Phật đã sử dụng phương pháp giảng dạy sống động, cụ thểdễ hiểu để truyền đạt giáo lý. Một hôm bên bờ sông Hồng đức Phật chỉ một khúc gỗ đang bị trôi lềnh bềnh trên sông và nói với các Tỳ kheo đang đi theo Ngài về con đường giải thoát. Ngài dạy, nếu khúc gỗ không hư mục, không tấp vào bãi bể, không bị vướng vào nước xoáy, không bị người hay phi nhơn nhặt thì nhất định khúc gỗ sẽ đi thẳng về biển. Cũng thế, nếu người tu sĩ không rơi vào tà kiến (chỉ khúc gỗ mục nát), không đắm các căn trần (chỉ sự tấp vào hai bờ), không ngã mạn kiêu căng (chỉ sự mắc vào nước xoáy), không cầu sinh thiên (chỉ phi nhơn nhặt) thì nhất định sẽ đi thẳng đến Niết bàn, đoạn tận khổ đau (theo Tương Ưng IV, Phẩm Rắn độc)

Trong khi Thế Tôn giảng như thế, một người chăn bò tên là Nan Ðà đứng gần đó và nghe lóm. Nan Ðà thấy rõ con đường tu tập giải thoát liền bạch: "Con sẽ là tu sĩ như khúc gỗ không mục nát trôi thẳng về biển. Xin Thế Tôn cho con xuất gia, thọ Ðại giới". Thế Tôn nhận lời. Quả thật, sau một thời gian tu tập thì Nan Ðà đắc A La Hán quả.

Các vì dụ có rất nhiều trong các kinh điển Phật giáo, ở đây chỉ trưng dẫn vài ví dụ điển hình.

Kèm theo hình ảnh ví dụ, ngôn ngữ diễn đạt cũng có tác dụng quan trọng. Nói về tham dục và sự tác hại của tham dục, khi thì Thế Tôn dạy, "như mái nhà vụng lợp, mưa có thể thấm vào. Cũng vậy, tâm không tu tham dục dễ thâm nhập" (Dhp.13) rất bình dị cho người bình dân. Có khi hình ảnh ví dụ được Thế Tôn diễn đạt thi vị hơn, khiến không gây cảm giác đơn điệu, chán nãn ở người nghe:

"Ai sống ở đời này,
Aùi dục được hàng phục
Sầu rơi khỏi người ấy, 
Như nước rơi lá sen" (Dhp.336)

Có khi lời dạy vừa thi vị, vừa triết lý và vừa rất gợi hình gợi cảm: "Này các Tỳ kheo, mắt là biển của người. Ai vượt qua được biển ấy với nước xoáy, sóng lớn.....thì đến bờ bên kia (Niết Bàn)" (Tương Ưng IV, Phẩm Biển).

Có khi để gây tác dụng đánh thức, Thế Tôn dạy:

"Này các Tỳ kheo tất cả đều bị bốc cháy....., bị bốc cháy bởi cái gì? - bởi lửa tham, sân, si, sinh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não" (Tương Ưng IV, Phẩm bốc cháy).

Kinh Pháp Hoa thì ví dụ tam giới như ngôi nhà lửa; hình ảnh "cùng tử" làm nổi bật thân phật của người đời đối với đạo giải thoát; hình ảnh cơn mưa pháp (trong "Dược thảo dụ") rất sống....

Như thế, chúng ta đã thấy đức Phật xuất hiện như là một nhà giáo dục rất nhân bản, rất lý tưởng qua các tinh thần giáo dục vừa được trình bày.

Còn rất nhiều tinh thần giáo dục rất thiết thực và hữu hiệu khác nữa đã được đức Phật vận dụng trong suốt 45 năm giáo hóa, tất cả đều là những hình ảnh giáo dục rất mẫu mực và rất đáng được thời đại chiêm ngưỡngchúng ta sẽ tìm hiểu vào một dịp khác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13264)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14202)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15527)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13227)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19385)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24656)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15762)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37858)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13495)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13116)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17195)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13218)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17404)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21684)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13268)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14432)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12868)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13681)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28660)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23432)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34418)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28901)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32210)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11338)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12012)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26320)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17405)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14541)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34541)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13140)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12293)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13425)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40552)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26973)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14477)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13271)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13476)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12546)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13166)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12327)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11816)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12597)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17682)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12228)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12766)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18460)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14311)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 13021)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11334)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12170)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13489)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10863)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11089)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10314)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28943)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25322)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26877)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25800)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18692)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23074)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant