Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đại cương về học phái PGVN trong học phái PGTG

29 Tháng Chín 201000:00(Xem: 11011)
Đại cương về học phái PGVN trong học phái PGTG

Trên dòng chảy Phật giáo Việt Nam, tiếp theo những loạt bài trước, chúng tôi đã cùng với quí vị lần lược trải qua 1000 năm đầu Phật giáo Việt Nam. Đến đây chúng ta bước sang chặng đường thứ 2, trên dòng chảy nầy, chúng ta sẽ tìm hiểu về những chủ đề theo từng lãnh vực, đi từ tổng quát đến chuyên sâu.

Chúng tôi thiết nghĩ, một quan niệm sử học sẽ chủ đạo cho nghiên cứu sử học, và định hình cho trình bày sử học. Chính vì vậy, những công trình nghiên cứu sử học của những bậc thầy đi trước như HT. Thích Mật Thể, học giả Tâm Minh-Lê Đình Thám, HT. Thích Thiện Hoa, Thầy Thích Trí Siêu, v.v... Quí Ngài hầu như đều dựa theo quan niệm phân kỳ mà cho ra đời những tác phẩm đóng góp chung cho ngôi nhà sử học Phật giáo Việt Nam ngày thêm khởi sắc.

Ngày nay, thế giới trước sự phát triển của khoa học-thông tin đã tạo cho sinh hoạt xã hội một bộ mặt mới, rằng không gian được thu nhỏ lại và thời gian cũng ngắn hơn. Cho nên cách học ngày nay có khác cách học ngày xưa. Trong thời Phật giáo chấn hưng của những năm 1920, với cách học Gia giáo, đã đào tạo nên những hiểu biết đi từ chuyên sâu đến tổng quát thì ngày nay cách học kiêm cả hai mặt sâu và rộng tương tác lẫn nhau. Nội dung bài nầy, theo mô hình đã giới thiệu, chúng tôi sẽ đi từ tổng quát đến chuyên sâu, và sẽ trình bày Đại cương về Học phái Phật giáo Việt Nam trong Học phái Phật giáo thế giới bao gồm trong 2 phần chính với nội dung như sau:

1. Đại cương về Học phái

Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển và Phật giáo Hội nhập. Rồi theo sự phát triển, mỗi nước lại có nét riêng của từng khu vực khác nhau. Ở đây giới thiệu 4 khu vực, đó là: Phật giáo Ấn ĐộTây Tạng; Phật giáo Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cambodia; Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản; và Phật giáo Việt Nam, để qua đó tìm hiểu về tính chất đặc thù của Học phái từng vùng-miền khác nhau.

a. Vấn đề tên gọi

Vấn đề tên gọi về học phái Phật giáo có vẻ như còn xa lạ với người mới bước vào lãnh vực nghiên cứu Phật học. Để có sự nhất quán về tên gọi cho chủ đề nầy, ở đây, chúng tôi đề nghị một hình thức tên gọi học phái Phật giáo như sau: Học phái là ngành học bao gồm những loại hình nghiên cứu về những hình thức tổ chức Phật giáo qua trình tự thành hình và phát triển của nó, chúng được ghi nhận như sau: Buổi đầu, chúng tahình thức Giáo đoàn rồi đến Bộ phái, đến Trường phái, đến Tông phái, đến Dòng phái, đến Chi phái, đến Hệ phái, đến Giáo phái, v.v… Như vậy, Học phái là ngành học nghiên cứu về việc tìm hiểu tính chất Phật học của Giáo đoàn, của Bộ phái, của Trường phái, của Tông phái, của Dòng phái, của Chi phái, của Hệ phái, của Giáo phái như đã trình bày ở trên. Tổng quan thì Học phái là tên gọi chung mà qua đó mỗi giai đoạn phân kỳ, mỗi khu vực, vùng-miền lại biểu hiện nét riêng của nó.

 b. Phân Kỳ Học phái

Từ trước, phân kỳ Phật giáo có nhiều hình thức thật phong phú, thế nhưng thuyết phân kỳ ấy lại được nhiều nhà chuyên môn sử dụng rộng rãi, đó là thuyết 3 thời: Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Tiểu thừa, Phật giáo Đại thừa. Khuôn mặt sáng giá thuộc nhóm này là Kimura Taiken (Bác sĩ Mộc-Thôn-Thái-Hiền), người Nhật Bản với tác phẩm Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận; Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận; Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận. (Xem bản dịch Thích Quảng Độ, Tu thư Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1972). Thuyết này dù được phần đông chấp nhận nhưng về tên gọi của ba thời kỳ thì việc nầy còn gây nhiều tranh cãi; thậm chí vấn đề tranh cãi nầy có lúc lên đến đỉnh cao và nó được đưa vào chủ đề tham luận của hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ 2, năm 1952 tại Tokyo, Nhật Bản. Hội nghị đã đi đến nhất trí là không dùng tên gọi Tiểu thừa Phật giáo, Đại thừa Phật giáo để tránh ngộ nhận mà thay vào đó là dùng tên gọi Phật giáo Phát triển để gọi cho hai thời kỳ nầy. Thuyết này được dùng rộng rãi trong giới Phật học. Nay bước vào thế kỷ 21, các hoạt động xã hội đều phát triển theo qui luật hội nhập toàn cầu, do đó Phật học thế giới cũng biểu hiện sự dung hợp rõ nét. Vì vậy, ba giai đoạn của thuyết phân kỳ Phật giáo trên đây được thay thế bằng tên gọi: Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển, Phật giáo dung hợp. Với tên gọi như vậy dễ được chấp nhận hơn.

c. Phân thời Học phái

Có thể chia ra làm 5 thời kỳ cho dòng chảy Phật giáo thế giới. Một là từ thời Phật còn tại thế đến sau Phật vào Niết-bàn 100 năm, đây là thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy. Hai là từ sau Phật Niết-bàn 100 năm đến sau Phật Niết-bàn 300 năm, đây là thời kỳ Bộ phái phát triển. Ba là thời kỳ Trường phái Phật giáo mà ngài Mã Minh-Long Thọ và Vô Trước-Thế Thân của Ấn Độtiêu biểu. Bốn là thời kỳ Tông phái Phật giáo mà ngài Trí Giả (Trí Khải), Huệ Năng, Thần Tú của Phật giáo Trung Hoa là tiêu biểu. Năm là thời kỳ các tông dung hợp, nó được định hình từ thế kỷ thứ 6 TL và càng rõ nét hơn là vào những năm đầu của thế kỷ 20 khi phong trào Phật giáo thế giới chớm nở.

d. Phân khu Học phái

Theo tính chất địa lý từng khu vực văn hóa, Học phái Phật giáo thế giới cũng được phân bổ theo vùng-miền mà nhìn trên tổng thể ta thấy: Phật giáo Ấn Độ - Tây Tạng; Phật giáo Tích Lan - Thái Lan - Miến Điện - Lào - Cambodia; Phật giáo Trung Hoa - Hàn Quốc - Nhật Bản; Phật giáo Việt Nam; Phật giáo Thế giới. Sự phân khu, phân vùng như thế chỉ là hình thức, trong khi đó trong hoằng pháp thì sự phân vùng nầy mang tính mở rộng và luôn dung hợp.

2. Đại cương về Học phái Phật giáo Việt Nam

Nhìn về mặt tổng thể thì Học phái Phật giáo Việt Nam được biểu hiện qua những hình thức: Dòng phái, Chi phái, Giáo phái (hệ phái), v.v… Ngay từ buổi bình minh của thời mới vào, trên dòng chảy 2000 năm Phật giáo Việt Nam, ghi nhận thấy có dòng Thiền Khương Tăng Hội (280); dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi (594); dòng Thiền Vô Ngôn Thông (860); dòng Thiền Thảo Đường (TK 12); dòng Thiền Trúc Lâm (1308); phái Thiền Tào Động (TK 17); phái Thiền Lâm Tế (TK 17); chi phái Liên Tông (Bạch Mai-Hà Nội). Cho đến những năm 1920, nhiều hiệp hội Phật giáo ra đời, qua đó mở rộng con đường hoằng pháp khắp 3 miền: Bắc, Trung, Nam. Rồi từ Hiệp hội đơn lẻ, tổ chức Phật giáo dần chuyển mình sang hình thức Tổng hội rồi Giáo hội.

Bên cạnh đó cũng phải nói đến một Vu Đạo Thúy (TK thứ 4) là thành viên thuộc Trường phái Bát-nhã Phật giáo Trung Quốc tại Giao Châu, Đạo Thúy đưa ra một quan niệm mới về học lý Bát-nhã của thời bấy giờ.

Tính chất Học phái cho thấy: dòng Thiền Khương Tăng Hội có tính Phật giáo quyền năng; dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi mang tính Thiền-Mật; dòng Thiền Vô ngôn Thông biểu hiện tính triết học có màu sắc thi ca; dòng Thiền Thảo Đườngý hướng Tam giáo đồng qui; dòng Thiền Trúc Lâm thể hiện tính dân tộc; phái Thiền Tào Động có nét Thần bí; phái Thiền Lâm Tế nổi bật nét Hạnh-Giải tương ưng; chi phái Liên Tông muốn thể hiện tịnh độ nhân gian.

Như vậy ngoài nét đặt thù riêng, mỗi Dòng phái, Chi phái, Giáo phái đều biểu hiện nét dung hợp trong “chân dung toàn cảnh” Phật giáo Việt Nam.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5826)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 5002)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4388)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4681)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4722)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5881)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3321)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5290)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2954)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4171)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5315)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4286)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3342)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6376)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5364)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4651)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6270)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6125)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3916)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6051)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4652)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4816)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3405)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6301)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4971)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3562)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3499)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5710)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4269)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 6026)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5270)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3706)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3794)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3723)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3548)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5392)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4045)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4399)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5846)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3146)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3090)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3902)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4882)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3591)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3073)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4607)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4764)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3476)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 4013)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4751)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3597)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3622)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5173)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4182)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3307)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 3016)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3052)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3131)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3130)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3504)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant