Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa Giác Ngộ Trong Đạo Phật

02 Tháng Mười 201000:00(Xem: 38772)
Ý Nghĩa Giác Ngộ Trong Đạo Phật

Danh từ giác ngộ nhiều người đã biết, nhưng thật ra biết cạn chớ không được sâu. Thế gian có những trường hợp, như người say mê rượu chè được bạn bè khuyên nhắc, họ bỏ rượu thì người ta nói anh ấy giác ngộ. Như vậy giác ngộ theo thế gian là bỏ tật xấu tập hạnh tốt. Giác ngộ đó chưa phải nghĩa giác ngộ của đạo Phật. Đạo Phật nói giác ngộthấu triệt được lẽ thật nơi con người từ ban sơ cho tới cuối cùng, tìm được cái từ xưa đến giờ chúng ta chưa từng biết.

Đọc lịch sử đức Phật, chúng ta thấy Thái tử bỏ ngôi vua quyết chí đi tu là do thấy cái gì? Thấy cảnh sanh, già, bệnh, chết của con người. Ngài tự biết rõ rằng người kia già rồi ta cũng phải già, người kia bệnh rồi ta cũng phải bệnh, người kia chết rồi ta cũng phải chết. Sanh, già, bệnh, chết là một qui luật không ai chối cãi được. Thấy rõ như vậy nên Ngài quyết chí đi tu, với mục đích phăng tìm cho ra con người có mặt đây là lần số một hay đã vô số lần? Mai kia nhắm mắt đi về đâu? Muốn ra khỏi sanh tử phải làm sao? Đó là những thắc mắc băn khoăn lớn của đức Phật. Như vậy, Ngài xoáy thẳng vào con người, trước khi có mặt và sau khi mất thân này, phăng cho ra manh mối đó.

Khi tu gặp các vị tiên dạy từ Sơ thiền tới Tứ thiền, Ngài chứng qua hết nhưng chưa giải quyết được ba vấn đề trọng đại của con người mà Ngài đang phăng tìm, nên Phật bỏ đi. Đến thầy khác dạy Ngài tu chứng định Tứ khôngKhông vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Chứng được Tứ không rồi Ngài vẫn chưa giải quyết được vấn đề con người, nên cũng bỏ đi. Rõ ràng đức Phật đi tu là để giải quyết vấn đề con người, chớ không muốn tỏ ra mình là một nhà bác học gì hết, mà phải tìm cho được manh mối của con người.

Những vấn đề của Phật nêu lên ngày xưa, bây giờ chúng ta có thắc mắc không? Có người thắc mắc, có người thờ ơ. Đa số chấp nhận thôi phải sao chịu vậy, có mặt đây thì cứ ở đây, mai kia đi đâu cũng mặc. Đó là thái độ thờ ơ cho thân phận mình. Đức Phật không đành lòng như vậy, Ngài quyết tâm phải phăng tìm cho ra manh mối. Đến dưới cội Bồ-đề, Ngài nhập định bốn mươi chín ngày đêm. Đêm cuối cùng, canh thứ nhất đức Phật chứng được Túc mạnh minh, bừng sáng chuyện của mình từ vô lượng kiếp tới giờ. Trong kinh kể, Ngài nói: “Ta nhớ vô số kiếp về trước như nhớ chuyện mới xảy ra hôm qua”. Ngài biết rõ rằng con người không phải chỉ có mặt ở đây một lần, mà đã có vô số lần.

Quí vị tin điều đó không? Nếu không tin thì chúng ta sẽ không giải quyết nổi tại sao cùng một gia đình, cùng một cha mẹ sanh ra năm bảy anh em, mà không ai giống ai. Nói theo khoa học ngày nay, gien nào sanh ra giống hệt gien đó như khuôn đúc. Nhưng trên thực tế có khuôn đúc không? Không. Đó là nói về thể xác. Còn tinh thần, người thì thích cái này, người lại ưa cái khác, không ai giống ai hết. Vậy những ưa thích đó từ đâu ra? Cha mẹ không dạy, xã hội không dạy, nhưng ta lại ưa thích. Người ưa văn học, người ưa toán học, nên vào trường mỗi người giỏi mỗi môn, không ai giống ai. Như vậy để thấy sự tích lũy từ trước vẫn còn đó, bây giờ ra đời nhớ lại những cái cũ mình thích. Do thích nên học hành đúng sở thích thì giỏi, thế gian thường gọi là khiếu thông minh. Như người tu chúng tôi, cha mẹ có dạy lớn lên đi tu đâu, sao lớn lên lại đi tu. Để thấy rằng, những gì chúng ta mang từ quá khứ vẫn còn đây, nên gặp duyên ta thích việc đó, chớ không phải ai dạy hết. Con người không phải mới có mặt lần này, mà đã vô số lần rồi, vì vậy trong mỗi chúng ta mang mỗi quá khứ còn tồn động từ trước.

Từ canh hai đến canh ba, Ngài chứng được Thiên nhãn minh, thấy rõ chúng sanh sau khi chết theo nghiệp đi trong sáu đường luân hồi, như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy kẻ qua người lại một cách rõ ràng. Như vậy, chúng ta chết rồi có mất không? Không mất, mà đi theo nghiệp. Nên nhà Phật nói nhân quả, nghiệp báo để cho chúng sanh tu. Những gì Phật thấy mới dạy, chớ không phải Ngài suy lý như những nhà triết học. Do thấy rõ nên Ngài nói không một chút ngờ vực.

Từ canh ba tới canh năm, khi sao mai mọc Ngài chứng được Lậu tận minh, dứt hết mầm sanh tử tức là giải thoát sanh tử. Từ đó Ngài mới dạy chúng sanh phương pháp tu để giải thoát sanh tử. Đức Phật đã chứng, đã biết, đã thấy rõ ràng, mới đem ra dạy cho mọi người.

Đức Phật xoáy thẳng nơi con người, tất cả đều xoay lại nhìn ở con người. Cho nên, cái giác của Ngài là giác ngộ thẳng về con người. Chúng ta mê cũng là mê nơi con người, thấy thân này thật, trong khi Phật thấy thân này giả. Phật thấy thân giả nên Ngài giác, chúng ta thấy thân thật nên mê. Bởi cho thân này thật nên quí thân, những gì nó ưa thích đều muốn được thỏa mãn. Mình muốn thân mình thỏa mãn, người khác cũng muốn thân họ thỏa mãn, tất cả đều muốn vậy thành ra giành giựt nhau. Nhỏ giành giựt theo nhỏ, lớn giành giựt theo lớn. Như anh em trong gia đình, cha mẹ chết chia của cải, anh nhiều em ít không chịu, phải giành phần cho bằng cho hơn, không chịu thua. Vì vậy thấy thân thật là nhân đau khổ.

Ngược lại, nếu thấy thân giả thì sao? Đa số sẽ nói tiêu cực. Giả thì lo chi, cần gì làm việc. Bồ-tát thấy thân mình giả, thân chúng sanh giả, các Ngài lăn xả vào đời cứu độ chúng sanh không niệm ngán sợ. Tại sao? Cái giả mà chúng sanh lầm cho là thật nên giành giựt, giết hại lẫn nhau, các Ngài có bổn phận phải đánh thức họ, chỉ cho biết giả đừng lầm lẫn nữa. Như vậy các Ngài càng biết giả càng thương những người mê. Chúng ta thấy thân thật nên ít thương ai. Chỉ thương những người thân thuộc của mình, còn chung quanh mặc kệ, không thương. Bồ-tát thấy cuộc đời tạm bợ, con người có đó rồi mất đó, không bền lâuchúng sanh lại chìm đắm đau khổ trong ấy nên các Ngài dấy khởi lòng từ bi muốn cứu độ chúng sanh. Nhờ giác ngộ mới có từ bi, nếu không giác ngộ sẽ không có từ bi.

Chúng ta làm việc thiện nhưng không phải từ bi mà là ích kỷ. Ví dụ nói bố thí giúp người nghèo, sau sẽ được phước giàu sang. Như vậy bố thí vì mình chớ không phải vì người. Bố thí ấy không phải từ bi. Từ bi là vì người chớ không vì mình. Chúng ta mê lầm ở chặng thứ nhất là thấy thân này thật, nên cấu xé giành giựt, làm khổ cho nhau. Nếu thấy thân giả thì anh em trong nhà có mặt đây tạm bợ vài chục năm rồi cũng đi, tranh gia tài làm chi, thôi thì chia nhau sống tạm mà. Đối với xã hội cũng vậy, mọi người cùng sống trong cõi tạm, biết rõ như vậy thì phải bảo bọc nhau sống ngày nào vui ngày ấy, giành giựt chi cho khổ. Nhờ biết đúng lẽ thật, chúng ta dễ thương nhau hơn. Đó là lẽ thật người Phật tử phải biết.

Mê thứ hai là mê tâm mình. Chúng ta nghĩ tâm là phần tinh thần. Khi thương ai nói tôi thương người đó, ghét ai nói tôi ghét người đó, giận ai nói tôi giận người đó. Một trăm thứ, nghĩ cái gì cũng tôi hết, khởi nghĩ là tôi. Chấp thân tạm bợ là tôi, chấp tâm sanh diệt đổi thay là tôi. Tâm sanh diệt đổi thay cho là tôi thì có bao nhiêu cái tôi? Vô số. Tâm ấy là một dòng suy nghĩ sanh diệt, không phải cái thường còn. Cái sanh diệt làm sao chân thật được. Tâm sanh diệt không thật mà chấp thật nên khi nghĩ điều gì cho là đúng, ai phản bác mình giận, ai hoan nghênh mình vui. Thế gian không biết bao nhiêu cái đau khổ, vì người ta cho là lý tưởng. Thọ, tưởng, hành, thức, Phật bảo là không, chúng ta lại nói thật, rồi đặt thành lý tưởng. Thế là lý tưởng này chống lý tưởng kia. Một hai người chống nhau chỉ mới là luận chiến, nhiều người chống nhau thì kéo quân đánh ầm ầm. Như vậy con người chấp thân nên giành vật chất để hưởng, chấp tâm nên giành lý tưởng tốt về mình, do đó mà tranh đấu không dừng nghĩ. Đó là cái khổ của nhân loại.

Chúng ta giác ngộgiác ngộ cái gì? Trước nhất giác ngộ thân này giả, kế đến giác ngộ tâm sanh diệt là giả. Biết hai cái đó giả rồi thì sự tu hành dễ như trở bàn tay. Sở dĩ chúng ta tu chậm tiến là vì cứ nhớ những chuyện liên hệ tới thân. Hôm qua mình bị ai rầy, hoặc làm ăn thất bại, tiền của suy giảm, lý luận với ai bị thua, làm sao cho hơn họ…, cứ nhớ đi nhớ lại những thứ ấy. Do chấp thân, chấp tâm nên ngồi thiền không yên. Khi đã biết thân giả, biết tâm sanh diệt giả chúng ta ngồi thiền dễ yên lắm.

Biết thân giả, tâm sanh diệt giả, lúc đó là giác, mà giác thì thành Bồ-tát con rồi. Bồ-tát là phần giác tức giác ngộ từng phần. Như vậy Bồ-tát cách chúng ta xa gần? Chỉ như trở tay thôi. Chiều này là mê, lật ngược lại là giác chớ có gì đâu. Ai nhìn đúng lẽ thật là giác, nhìn sai lầm là mê. Trong kinh Kim Cang Phật dạy rất đơn giản: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai”. Nghĩa là những gì có tướng đều hư dối, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức là giả, đó là thấy Phật, vì Phật là giác.

Chúng ta học Phật, hiểu Phật là phải đi sâu vào trí tuệ vô sư. Chúng ta ngồi thiền để định. Định cái gì? Định tâm điên đảo sanh diệt của mình, cho nó dừng lại. Nó dừng hoàn toàn rồi thì trí tuệ sẵn có hiện đủ. Có người nói ngồi thiền bỏ hết vọng tưởng rồi ngu sao? Vì họ cho rằng cái khôn đối đãi sanh diệt là khôn thật. Đó là hiểu sai lầm. Trí tuệ chân thật chỉ xuất hiện khi tâm an định.

Kinh Kim Cang Phật nói, giả sử có người đem của bảy báu nhiều bằng núi Tu Di bố thí, không bằng người trì bốn câu kinh Kim Cang. Nhẹ làm sao! Trì tụng bốn câu kinh Kim Cang có khó gì? Còn của báu chất bằng núi Tu Di, muôn kiếp mình cũng chưa làm được nữa. Vậy tại sao Phật lại nói thế? Đó là để chỉ dạy chúng ta mê thân thật thì mê cảnh thật, mê tất cả sự vật hình tướng bên ngoài đều thật. Nhưng thật ra những gì có tướng đều do duyên hợp, tạm bợ, đủ duyên còn, hết duyên mất, chớ không còn mãi. Vậy được bao nhiêu cái giả đi nữa cũng chỉ là giả. Đem cái giả tạm đổi lấy cái thật thì không có gì sánh nổi. Trì bốn câu kinh Kim Cang tức là nhận và sống với cái thật của mình. Nắm được chân lý thật mà sống thì mới siêu thoát, vượt hơn tất cả. Nếu chúng ta nhìn sự vật đúng với con mắt thức tỉnh thì kinh Phật nói rõ như ban ngày, không có gì nghi ngờ hết.

Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê. Cho nên trọng tâm đặt ở con người. Tất cả chúng ta học Phật là học đạo giác ngộ, mà không chịu giác thì không biết học cái gì? Có người càng học lại càng mê, nên mới đi cúng chỗ này chỗ kia, cầu xin ông này bà nọ đủ thứ hết. Đó là sai lầm lớn của người học Phật. Đạo Phậtcon đường, là phương pháp đưa chúng ta tới giác ngộ. Đã đi con đường giác ngộ mà lại trở thành mê, thật không có lý chút nào.

Giác ngộ rồi mới tới giải thoát, không giác ngộ thì không bao giờ giải thoát được. Trong kinh Viên Giác, Bồ-tát Văn Thù hỏi Phật: “Thế nào là vô minh?” Đức Phật dạy: “Chấp thân tứ đại là thật, chấp tâm sanh diệt duyên theo bóng dáng sáu trần là thật, đó là vô minh”. Vô minh là gốc của luân hồi sanh tử. Nếu thấy thân tứ đại không thật và tâm hư dối không thật, đó là minh. Như vậy vô minh với minh ở cạnh một bên, không xa xôi gì hết. Chúng ta tu muốn cầu cái gì? Cầu minh bỏ vô minh, cầu giác bỏ mê. Cầu ở ai? Ở mình, tất cả gốc từ mình mà ra. Thay đổi cái nhìn, từ sai lầm chuyển qua thức tỉnh thì hết mê. Hết mê là giác, giác một phần là Bồ-tát nhỏ, Bồ-tát con. Như vậy từ một kẻ phàm phu chuyển qua Bồ-tát có khó không? Không khó, rất là dễ. Cho nên một hôm ông bán thịt nghe lời thiền sư dạy, liền thức tỉnh làm kệ:

Tạc nhật dạ xoa tâm,

Kim triêu Bồ-tát diện,

Dạ xoa dữ Bồ-tát,

Bất cách nhất điều tuyến.

Hôm qua mê là tâm dạ xoa, ngày nay giác là mặt Bồ-tát. Bồ-tát với dạ xoa không cách một đường tơ. Như vậy tại sao chúng ta cứ sợ khó ? Chớ chi có cái gì ngăn trở mình chuyển không được mới là khó, đằng này mình trọn quyền chuyển mê thành giác, không thần thánh nào xen vào ngăn cấm cả, chuyển không được là tại chúng ta không quyết chí chuyển thôi. Nếu đã trọn quyền thì không kêu trời kêu đất, việc gì đến là lỗi tại mình, chớ không phải trời Phật xui khiến đâu. Hiểu như vậy mới thấy tu Phật có một sức mạnh phi thường.

Nói đến giải thoátgiải thoát cái gì? Nếu thân không thật, tâm suy nghĩ không thật, còn gì để chúng ta giải thoát? Cái gì ra khỏi sanh tử luân hồi? Tâm. Tâm nào? Đó là vấn đề sâu sắc tế nhị mà người đời không biết. Đức Phật khi thành đạo, Ngài trù trừ không chịu đi giảng, trải qua thời gian năm mười ngày. Khi chư thiên xuống yêu cầu xin Thế Tôn mở phương tiện để giáo hóa chúng sanh. Phật bảo vì cái thấy của ta nói người khác không hiểu. Chư thiên năn nỉ nhiều lần Phật mới chấp nhận dùng phương tiện để độ chúng sanh. Sau đó Ngài đến vườn Lộc Uyển nói pháp Tứ đế. Ngài không chỉ thẳng cái mình thấy, mà dạy pháp khác. Như vậy hai cái có khác không? Kinh Phật thường hay nói: “Giáo lý của Ta như ngón tay chỉ mặt trăng hay như bè đưa khách qua sông”. Đó là phương tiện, không phải cứu kính. Thấy mặt trăng thì phải bỏ ngón tay, qua bờ rồi phải bỏ thuyền bè. Biết được phương tiện chúng ta mới khỏi hiểu lầm. Như vậy chỗ Phật thấy nhưng không nói được là chỗ nào? 

Tôi dẫn câu chuyện trên hội Linh Sơn, đức Phật ở trước đại chúng đông vầy không nói một lời, đưa cành hoa sen lên rồi nhìn khắp đại chúng. Mọi người đều ngơ ngác, tới ngài Ca Diếp thì Ca Diếp mỉm cười. Phật nói: “Ta có chánh pháp nhãn tạng Niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, nay trao cho Ca Diếp”. Lúc đó Phật có nói lời gì đâu mà trao. Chỗ này quí vị không suy gẫm nổi, suy gẫm là trật. Đây là chỗ bí hiểm, nhưng thật ra không bí hiểm chút nào hết mà tại chúng ta quên. Phật đưa cành sen lên không nói gì hết, mọi người không hiểu, tới ngài Ca Diếp, ngài cười. Cười tức là biết Phật muốn nói gì rồi. Chỉ có cái chân thật từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý hiện tiền nên ta mới thấy. Vậy mà mình quên, chạy theo suy nghĩ lăng xăng trong đầu, nên không nhận ra cái biết thường trực đó. 

Phật muốn chỉ cho đại chúng cái lâu nay mình có nhưng lại quên. Song vì nó không hình tướng nên thật khó chỉ. Vì vậy Ngài mượn phương tiện đưa cành hoa sen lên, ai khéo sẽ nhận ra cái hay thấy thường trực nơi mình. Phật dạy chúng ta dừng cái biết suy nghĩ, để cái biết chân thật hiện ra. Cái biết chân thật không tướng mạo nên trùm khắp, luôn hiện tiền không vắng thiếu nên nó thường trực. Cái thường trực không sanh, không diệt, không tướng mạo, làm gì có vô thường!

Hiện giờ chúng ta là những người đáng thương, quên cái thật chạy theo cái giả, chấp cái giả là thật nên không nhận ra được cái thật. Vì vậy Phật dạy ngồi thiền để chặn dòng suy nghĩ lăng xăng, bao giờ chúng lặng rồi thì cái biết chân thật trùm khắp hiện tiền. Khi tâm trong sáng không bị che lấp gì hết, chúng ta mới giải thoát sanh tử. Nói tới giải thoát, tôi dẫn câu chuyện sau:

Tổ Tăng Xán ở Trung Hoa, một hôm gặp chú sa di mới mười hai tuổi tên là Đạo Tín. Đạo Tín thưa “Bạch Hòa Thượng, xin Hòa Thượng dạy con pháp môn giải thoát”. Tổ hỏi: “Ai trói buộc ông?” Đạo Tín nhìn lại thưa “Dạ không ai trói buộc”. Tổ bảo “Không ai trói buộc, cầu giải thoát làm gì?” Ngay đó Đạo Tín liền ngộ. Không ai trói buộc mình, chỉ vì chúng ta có cái thật nhưng quên. Bây giờ nhận ra cái thật là giác ngộ, giác ngộ thì giải thoát.

Thật ra quí vị nói tu khó tôi rất thông cảm. Tại sao? Vì một người tỉnh ở trong trăm ngàn người mê. Người tỉnh nói thì những người mê bảo điên, thành ra nói không được, riết người tỉnh cũng mê luôn. Đó là cái khó. Chớ nếu người tỉnh nói với những người tỉnh thì dễ biết mấy. Ví dụ, có một Phật tử đi chợ, vô cớ có người kiếm chuyện mắng nhiếc. Sau Phật tửanh chị em đi theo. Người tu khá nhịn bỏ qua không cãi lại, nhưng mấy anh chị em đi theo chê chị ngu quá hoặc anh ngu quá. Nghe chê ngu, Phật tử tức cũng cãi lại, rốt cuộc ngu cả đám. Cho nên tu hành nên gần gũi những bạn lành để huynh đệ cùng nhau sách tấn, như vậy mới giữ được niệm hiền lành chân thật của mình. Ngược lại cứ ở trong đám mê hoài thì khó mà tu tiến.

Chỗ tu hành nhất là tu thiền, ít ai hiểu được. Như Lâm Tế hồi xưa tới Tổ Hoàng Bá hỏi: “Bạch Hòa thượng, thế nào là đại ý Phật pháp?” Hoàng Bá đập cho một gậy, không nói lời nào hết. Tàn nhẫn chưa! Năm ba hôm sau thầy Thủ tọa xúi Ngài hỏi Hòa thượng nữa đi. Ngài lên hỏi cũng ăn gậy nữa. Hỏi ba lần, ngài Hoàng Bá đều cho ăn gậy cả ba, Ngài chùi nước mắt lui xuống, trong lòng nghĩ chắc hết duyên rồi nên định cuốn gói đi. Thủ tọa biết nên bảo trước khi đi huynh lên từ giã Hòa thượng. Ngài Hoàng Bá hỏi “Ông tính đi đâu?” Ngài thưa “Vì con hết duyên ở đây nên phải đi nơi khác, chớ không biết đi đâu?” Hoàng Bá bảo “Ông qua Đại Ngu sẽ chỉ cho”.

Lâm Tế đi tới thiền sư Đại Ngu. Đại Ngu hỏi “Ông từ đâu đến?” Lâm Tế thưa “Con ở chỗ Hoàng Bá đến”. Đại Ngu hỏi “Hoàng Bá đã dạy gì?” Lâm Tế thuật lại: “Con ba lần hỏi thế nào là đại ý Phật pháp, ba lần đều ăn đòn. Không biết con có lỗi hay không lỗi?” Đại Ngu nắm hai vai Lâm Tế đẩy, nói “Ông được Hoàng Bá chỉ chỗ tột cùng mà còn nói có lỗi không lỗi”. Nghe đến đây Lâm Tế liền ngộ, nói “Phật pháp Hoàng Bá rất ít”. Đại Ngu nắm đứng hỏi “Khi nãy nói có lỗi không lỗi, bây giờ thấy cái gì mà nói Phật pháp Hoàng Bá rất ít”. Lâm Tế liền thoi cho Đại Ngu một thoi. Đại Ngu xô ra, nói: “Thầy ngươi là Hoàng Bá, chẳng can hệ gì tới ta”. Lâm Tế trở về Hoàng Bá, sau trở thành vị khai Tổ nổi tiếng tông Lâm Tế, dòng thiền này truyền thừa tới Việt Nam.

Cũng ý đó, tôi dẫn một thiền sư Việt Nam. Vua Lê Dụ Tông hỏi thiền sư Hương Hải “Thế nào là ý của Phật?” Thiền sư Hương Hải đáp bằng bốn câu thơ:

Nhạn quá trường không,

Ảnh trầm hàn thủy,

Nhạn vô di tích chi ý,

Thủy vô lưu ảnh chi tâm.

Dịch:

Nhạn bay qua trong không,

Ảnh hiện đầm nước lạnh,

Nhạn không ý lưu bóng,

Nước không tâm giữ nhạn.

Ý nói chim nhạn bay qua trong không, bóng hiện dưới hồ, dưới sông. Chim nhạn không có ý lưu bóng dưới hồ, dưới sông. Nước sông cũng không có ý giữ lại bóng nhạn. Đó là Phật ý.

Tổ Lâm Tế hỏi đại ý Phật pháp bị đánh, vua Dụ Tông hỏi ý Phật được trả lời bằng bốn câu thơ: chim nhạn bay trên không, bóng rơi xuống dưới nước, nhạn không có ý lưu bóng dưới nước, nước cũng không có ý giữ bóng của nhạn. Đó là ý Phật. Hiểu được ý này thì hiểu cái đánh của tổ Hoàng Bá.

Sự truyền pháp của Trung Hoa và Việt Nam về hình thức có khác, nhưng nội dung không khác. Nếu chim nhạn bay qua có ý để bóng dưới nước hay nước có ý giữ bóng chim nhạn, thì hai bên đều có ý dính mắc. Ở đây nhạn không có ý, nước cũng không ý, để nói rằng đối với tất cả cảnh, ta và cảnh không vướng mắc. Chim nhạn ví cho người, nước ví cho cảnh. Người, cảnh thấy là thấy, nghe là nghe, đừng thêm niệm đẹp xấu, khen chê, thì cái thấy, cái nghe đó là ý Phật.

Hỏi thế nào là đại ý Phật pháp, đập cho một gậy là chỗ không suy nghĩ được. Vừa khởi nghĩ là trật rồi không phải ý Phật, cho nên đánh một gậy cho bặt không còn nghĩ gì hết. Nhưng Lâm Tế cứ nghĩ vì ngài chưa hiểu. Tới chừng thiền sư Đại Ngu hỏi, ngài nói không biết con có lỗi hay không lỗi. Đại Ngu bảo Hoàng Bá là tâm lão bà chỉ tột cho ông, mà còn thấy có lỗi không lỗi, là còn hai bên. Nghe đến đó ngài liền ngộ, chỉ chỗ không hai bên, không có niệm suy nghĩ mới là chỗ thật. Ngài Đại Ngu hỏi ông thấy gì mà nói Phật pháp Hoàng Bá rất ít, Lâm Tế thoi cho một thoi vì chỗ đó nói không được, chỉ còn thoi thôi. Các Tổ ở Trung Hoa rất bạo, còn chư Tổ Việt Nam hiền lành hơn, dùng thơ nói vậy thôi, nhưng cũng đều chỉ cái ấy.

Chúng ta tu Phật không gì khác hơn là trở về cái chân thật của chính mình. Cái chân thật đó gọi là Phật tánh, Pháp thân v.v… Khi nhận và sống được tánh Phật rồi, ta có đầy đủ tất cả diệu dụng. Cho nên, Lục Tổ Huệ Năng khi ngộ được Phật tánh, có người hỏi từ tám thức tu chuyển thành tứ trí là thế nào? Ngài giải thích, khi sống được với tánh thật rồi thì thức thứ tám là Tàng thức tức thức chứa tất cả chủng tử thiện ác chuyển thành Đại viên cảnh trí, thức thứ bảy là Mạt na thức chuyển thành Bình đẳng tánh trí, thức thứ sáu chuyển thành Diệu quan sát trí, năm thức trước mắt, tai, mũi, lưỡi, thân chuyển thành Thành sở tác trí. Như vậy là chuyển thức sanh diệt trở thành trí mầu nhiệm bất sanh bất diệt, chớ đâu phải tu tới đó hết.

Chúng ta đừng sợ không suy nghĩ là mất mình. Chính mình dừng suy nghĩ rồi mới đạt tới chỗ chân thật. Khi đạt đến chân thật viên mãn rồi có những diệu dụng phi thường, tức là chơn không mà diệu hữu, do công năng chuyển thức thành trí. Tóm lại khi được giải thoát, không phải là hết mà chúng ta có cái biết chân thật, không sanh diệt gọi là Chân tâm, Phật tánh lưu xuất ra vô số diệu dụng.

Hiểu sâu như vậy, trên đường tu chúng ta không nghi ngờ gì nữa, quyết chí tu cho tới khi nào giác ngộ viên mãn mới thôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13276)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14216)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15553)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13257)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19413)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24668)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15771)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37873)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13499)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13129)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17204)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13223)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17433)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21718)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13279)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14446)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12900)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13711)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28672)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23448)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34457)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28912)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32228)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11341)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12033)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26346)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17422)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14550)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34584)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13155)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12300)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13430)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40568)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26993)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14497)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13295)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13498)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12577)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13196)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12342)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11822)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12608)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17688)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12241)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12790)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18470)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14324)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 13023)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11341)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12203)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13517)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10877)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11111)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10317)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28953)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25334)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26890)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25808)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18702)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23083)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant