Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hình Tướng của Đức Phật

05 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12329)
Hình Tướng của Đức Phật

Hình Tướng của Đức Phật

Như Nguyện dịch


Xem hình

Đức Phật nhập diệt đã hơn 2500 năm rồi, sanh trong thời đại mạt pháp của chúng ta không thể chính mắt chiêm ngưỡng được dung nhan của Đức Phật, như vậy khiến ta nhớ đến lời của người xưa: “Lúc Phật tại thế thì chúng ta còn trầm luân, Phật diệt độ rồi chúng ta mới ra đời; sám hối bao nhiêu nghiệp chướng của thân này, không thấy được kim sắc của Như Lai”.

Sau khi kim dung của hoá thân Phật nhập niết bàn, chúng ta chỉ có thể chiêm ngưỡng thánh tượng của Đức Phật, như vậy rốt cuộc Đức Phậthình tướng như thế nào? Ai biết được?

1. THÁNH TƯỢNG CỦA ĐỨC PHẬT
Các loại thánh tượng: Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều, có loại dùng gỗ đá để điêu khắc, có tượng dùng vàng để tạc, có loại vẽ trên giấy. Thánh tượng có tượng ngồi tượng đứng thậm chí có cả tượng nằm. Bất luận là tuợng điêu khắc bằng đá bằng gỗ tạc bằng vàng kim, thêu trên vải hay vẽ trên giấy, bất luận là tượng đứng ngồi hay nằm đều thể hiện từ bi trang nghiêm tôn sùng vĩ đại của Đức Phật làm cho người ta nhìn thấy thì khởi tâm kính ngưỡng hâm mộ.
Thánh tượng của Đức Phật tại sao có tượng ngồi? tượng đứng? tượng nằm? có thể nói mỗi một hình thức đều bao hàm ý nghĩa sâu sắc tượng trưng cho một loại tinh thần, một loại thánh cách của Đức Phật.
Trước, chúng ta nói đến thánh tượng theo hình thức ngồi của Đức Phật. Trong tượng ngồi có ngồi kiết già đó là tượng của lúc đang ngồi thiền; có tượng thì tay trái đặt trên đùi chân, tay phải đưa lên lòng bàn tay hướng ra ngoài đó là tượng của hình thức đang thuyết pháp. Trước có thể nói tượng trưng cho tự giác của Phật, sau có thể nói tượng trưng cho giác tha của Phật. Tự giác là nói Đức Phật sở dĩ thành Phậttrải qua tu hành tương đương, tư duy quán chiếu, thâm nhập thiền định mới có khả năng chứng đắc quả vị; Giác tha là nói Đức Phật từ Thể mà khởi Dụng, lấy chân lý rộng làm lợi ích chúng sanh, lấy pháp thuỷ tịnh hóa nhân quần.
Kế đến chúng ta nói thánh tượng theo hình thức đứng: tượng đứng có hình dạng rũ cánh tay xuống, là trong lúc tiếp dẫn chúng sanh, có tượng một chân bước trước đó là diễn tả lúc bận việc giáo hóa. Cánh tay xuống tiếp dẫn chúng sanh, nhìn thấy cánh tay từ bi duỗi ra của Đức Phật, những con người phiêu bạt trong biển khổ thế nào mà không có mong muốn quay đầu trở về quy y Phật? Bận việc giáo hoá, đó là thể hiện Đức Phật với thể nghiệm chân lý nhân sanh của Ngài, tràn đầy nhiệt huyết, tuy Ngài công hạnh viên mãn nhưng cần dùng chân lýchúng sanhphục vụ.
Sau cùng chúng ta nói về thánh tượng theo hình thức nằm của Đức Phật: Trong tượng nằm có loại nằm theo dáng kiết tường khi ngài nhập niết bàn, niết bàn là phước hụê vẹn toàn đạt đến cảnh giới bất sanh bất diệt. Tượng Đức Phật niết bàn có thể nói lên ý ngĩa do động quy về tịnh. Đức Phật lúc tại thế thuyết pháp giáo hoá đó đều là do tịnh sanh động, động có lúc cũng ngưng, tịnh thì vô cùng dài. Sanh mệnh của Đức Phật len lỏi khắp trời đất, lưu nhập trong thời gian vô tận nên gọi là do động quy tịnh. Bởi vì trong thánh tượng của Phật, có một dạng thị hiện niết bàn, nhưng Phật vĩnh viễn sống trong tâm của chúng ta, sáng mãi với thời gian, song hành cùng trời đất.
Khởi nguyên của việc khắc tượng: Vấn đề điêu khắc tượng Phật bắt đầu từ khi nào? Theo quyển 28 kinh Tăng Nhất A Hàm và quyển 5 Đại Đường tây vực ký nói rằng: “Vào một mùa an cư của năm nọ, tăng đoàn không nhìn thấy Đức Phật, Ngài đi đâu không ai biết được, chư vị đệ tử đến hỏi tôn giả A Nan, ngài A Nan cũng không biết. Nhưng tôn giả Anan giới thiệu mọi người đến thỉnh ý bậc thiên nhãn đệ nhất là ngài A Nan Luật. Sau khi tôn giả A Nan Luật nhập định quan sát liền nói với mọi người rằng: Đức Phật đã lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho hoàng hậu Ma Gia”.
Đức Phật vì sao không nói mà đi lên cung trời Đao lợi thuyết pháp? một là, Ngài muốn báo đáp công ơn dưỡng dục của thánh mẫu; hai là, vì Đức Phật thường ở bên cạnh chúng đệ tử, nên một số người ỷ lại không thích nghe phật thuyết pháp; ba là vì trong tăng đoàn có một số việc tranh chấp nên Ngài ra đi thời gian khiến cho những người tranh chấp có thể thật lòng ăn năn tỉnh ngộ. Đại chúng trong giáo đoàn sau khi biết được Đức Phật lên cung trời Đao Lợi trong lòng hoang mang. Người nhớ Phật nhiều nhất là vua Ưu Điền nước Bạt Sa, vua Ưu Điền sau lần đầu được vương phi hướng dẫn quy y Phật, đối với Phật sanh tâm cung kính cúng dường vô tận. Bây giờ nghe tin Phật đi xa nhiều ngày không gặp trong lòng lo buồn mà sanh bệnh. Khi vua lâm bệnh, các đại thần bàn bạc nhau các phương pháp trị bệnh cho vua, trong đó có kiến nghị mời các vị thợ điêu khắc nỗi tiếng tạc tượng Đức Phật, để tiện sớm tối chiêm ngưỡng lễ bái. Vua vui mừng khôn xiết liền thỉnh ngài Mục Kiền Liên bậc thần thông đệ nhất dùng sức thần thông đưa người thợ điêu khắc lên tận cung trời để đích thân nhìn thấy kim dung diệu tướng của Phật sau đó dùng gỗ chiên đàn khắc thánh tượng Phật cao 5 mét, tôn giả Mục Kiền Liên đã phải trực tiếp hướng dẫn người thợ 3 lần, thánh tượng chiên đàn mới hoàn thành. Vua Ưu Điền nhân đó mà hết bệnh vui mừng khôn tả.
Đức Phật thuyếp pháp ở cung trời Đao lợi 3 tháng, và sau đó ngài trở lại nhân gian, Thánh tượng chiên đàn dựng để nghinh đón Đức Phật, Ngài mỉm cười nhìn thánh tượng an ủi rằng; “ Ngài giáo hoávất vả lắm không? Chúng sanh đời mạt pháp thật là nhờ vào sự hóa độ của ngài đó”! Do đó mà nói điêu khắc thánh tượng không phải là sau khi Phật niết bàn mà ngay khi Phật tại thế đã có tạc tượng cúng dường rồi. Điêu khắc chiên đàn thánh tượng để nghinh đón Phật đó là biểu trưng cho: dù là kim thân Phật hay thánh tượng đều là sống một cách linh hoạt tại thế gian này.
Khởi nguyên của việc đúc tượng: những vấn đề đến việc đúc tượng phật, có từ khi nào? Theo quyển 28 kinh Tănh nhất A HàmCăn bản thuyết Nhất thiết hữu bộ ni đà na có chép rằng: “một là, vua Ba Tư Nặc nước Kiều Tát La nghe vua Ưu Điền Dùng gỗ chiên đàn khắc thánh tượng Phật, cũng vì lòng cung kính và thích làm nổi nên dùng vàng đúc thánh tượng cao 5 mét, đó là việc đúc tượng Phật sớm nhất vậy.
Hai là, trưởng giả Cấp Cô Độc. Có một lần sau khi Đức Phật thuyết pháptịnh xá Kỳ Viên, trưởng giả đến trước đảnh lễbạch Phật rằng: “bạch Thế Tôn khi có thánh tượng của Ngài dựng ở trong giáo đoàn, mọi việc trở nên trang nghiêm, uy nghi, thanh tịnh như pháp mà sanh hoạt; có lúc Phật đi nơi khác giáo hoá, ở đây không có ngài làm trung tâm nên thấy thiếu một điều gì đó và tăng chúng từ trong tâm linh của mỗi người cũng cảm thấy trống trải hiu quạnh. Chúng con khẩn cầu Ngài cho chúng con đúc tượng Ngài để mỗi khi Ngài đi hoằng hóa ở xa chúng con có thể chiêm ngưỡng và xem thánh tượng như nhìn thấy chính Ngài, như vậy mới có thể duy trì được sự thanh tịnh của giáo đoàn, làm cho uy đức của Phật luôn luôn chiếu sáng chúng ta”!
Sau khi Đức Phật nghe xong, ngài vui vẻ đồng ý ý kiến của Cấp Cô Độctừ bi chỉ dạy: “Bệ hạ vì Phật Pháp mà đưa ra mong cầu như vậy, Ta đồng ý tâm nguyện của Ngươi”. Cấp Cô Độc lại bạch Phật “bạch Đức Thế Tôn! Bên cạnh chỗ đúc thánh tượng chúng con muốn treo tràng phan bảo cáihương hoa cúng dường xin Phật hứa khả cho. Đức phật nói: “tùy ý các người thôi”.
Từ hai đoạn kinh trên chúng ta thấy khi Phật còn tại thế có rất nhiều vị quốc vương, đại thần, trưởng giả ,cư sĩ,… phát tâm đúc thánh tượng cúng dường chiêm ngưỡng rồi.

Khởi nguyên của việc họa tượng: những vấn đề liên quan đến việc vẽ tượng có từ khi nào? Ở “Đại Đường nội điển lục” có chép rằng “Tần Cảnh thời Hán trên đường trở về nước Nguyệt Chi nhìn thấy tượng chiên đàn của vua Ưu Điền liền nhờ hoạ sĩ y theo đó mà vẽ một bức sau đó mang đến Lạc Dương, nhà vua nhìn thấy liền ra sắc lệnh để tại của thành Tây Dương cúng dường từ đó lưu truyền đến nay.
Ngoài ra “Hành sự sao” cũng có ghi “sau thời Hán các vị tăng Trung Quốc đến Ấn Độ du học đông, lúc trở về họ đều muốn thỉnh tượng chiên đàn về để cúng dường. Thời đó các vị quốc vương của Ấn Độ rất cung kínhbảo vệ thánh tượng này không cho mang ra khỏi nước, nhưng Phật Pháp lưu thông phải có cái gì để biểu trưng, Vua liền mời hoạ sĩ đến y theo tượng chiên đàn mà vẽ, ngày nay có lưu truyền sự việc hoạ tượng là nguyên nhân từ đó.
Theo đó mà biết thì họa tượng Phật khoảng sau Phật niết bàn hơn 1000 năm nay nhưng ngoài ra trong “kinh a hàm” cũng có chép: “khi Phật niết bàn, tôn giả Ca Diếp lo vua A Xà Thế nước Ma kiệt Đà nghe được tin này sẽ quá bi thương mà sãy ra những việc ngoài ý muốn nên cùng với đại thần Vũ Xá thương luợng hoạ thánh tượng Phật để giúp vua bớt nỗi đau thương, đại khái đó là việc họa tượng sớm nhất vậy!
Nhưng những năm gần đây tại viện bảo tàng Anh quốc hoàng gia có lưu giữ rất nhiều bức hoạ tượng Phật, trong đó có một bức tượng được xem là quốc bảo, đó là bức tượng lúc Phật 41 tuổi do tôn giả Phú Lâu Na tự tay họa, màu sắc vẫn giữ nguyên đến ngày nay. Một vị trù trì chùa Vĩnh Bình Nhật Bản đến nước Anh chụp hình mang về và sao ra nhiều tấm nên hiện tạiĐài Loan chúng ta có thể nhìn thấy tượng này. Chiếu theo thuyết nay thì họa tượng Phật là có sớm nhất và còn sớm hơn cả điêu khắcđúc tượng mấy năm cũng không chừng.
Họa tượng Phật trong quyển thượng Du Gìa nghi quỹ có ghi “các bức tượng họa trên vải trên lụa lớn nhỏ tuỳ ý, đều ngồi kiết già trên đài sen hai tay để ngang rốn như lúc nhập định”. Họa tượng rất phương tiện, tín chúng có thể ở nhà mà lễ bái cúng dường, hào quang của Phật chiếu sáng mọi nhà, người họa tượng có công đức vô lượng”.
Đảnh lễ thánh tượng: thánh tượng Đức Phật được điêu khắc trên gỗ hoặc đá, họa vẽ trên vải lụa, có người nói đó chỉ là cái tượng phỗng, tại sao phải hướng về đó mà đảnh lễ? Có một vài linh mục thiên chúa giáo phê phán Phật giáo vì sao lạy những tượng gỗ đá vải lụa làm gì? Chúng ta cũng không phủ nhận chúng ta lễ bái tượng này, bởi vì tất cả đều không lìa khỏi lễ bái tượng gỗ… Chúng ta thấy đấy, mọi người trên toàn thế giới đều hướng về lá cờ quốc gia (quốc kỳ) của mình kỉnh lễ, mà quốc kỳ không là giấy thì cũng là vải, tại sao chúng ta lại kính lễ giấy hay vải như thế? Nên biết lá cờ đó là trung tâm của toàn dân một nước nó không phải là giấy hay vải mà là đại biểu tượng trưng cho một quốc gia. Tín đồ thiên chúa lại hướng về thập tự giá mà cầu nguyện. Trên thập tự giá còn đóng đinh một Giesu rất đáng thương và tội nghiệp, thập tự giá và Giesu không phải làm bằng gỗ bằng sắt hay vẽ trên giấy đó sau, vì sao tín đồ thiên chúa giáo lại hướng về gỗ sắt giấy đó mà quỳ xuống cầu xin.
Cho nên, tất cả mọi người đều không lìa khỏi việc lễ bái tượng gỗ,… hướng về tượng gỗ lễ bái chẳng có gì là không tốt. Một giới trong 10 giới của tín đồ thiên chúa là không lễ bái tượng gỗ, …đó chỉ là một trong trăm ngàn những điều mâu thuẫn trong giáo lý của họ mà thôi.
Một mảnh vải nếu làm thành mũ thì đội trên đầu, nếu làm thành giày thì mang dưới chân, vải chưa có giá trị là quý hay hèn mà khi làm thành vật rồi thì mới có giá trị; một trang giấy nếu in thành hình của ba mẹ thì mình nên trân quý cung kính và cất giữ, nếu trang giấy đó chỉ là hình vẽ chơi của trẻ con thì chúng ta tuỳ ý vất bỏ cũng không thấy có gì là không phải, như vậy giấy có quý có tiện không? Đó chỉ là do tâm chúng ta khởi lên có quý có tiện mà thôi. Các vật thể thuộc vàng hoặc nguyên liệu hóa học nếu tạc thành tượng Phật Thánh thì nên tôn kính lễ lạy, nếu làm thành đồ chơi cho trẻ con thì giống như con lật đật để trên mặt đất đá qua đá lại làm trò cười cũng không có gì không được. Tất cả vật chất đều như nhau làm thành gì thì thành đó. Thánh tượng của Phật cũng làm từ vàng gỗ đá vải giấy nhưng cái đó trong tâm của chúng ta không phải vàng gỗ… mà là Thánh tượng đại trí đại giác của Phật Đà!
Xin hỏi tín đồ thiên chúa giáo nếu đem hình cha mẹ các bạn, tượng Giesu của các bạn khinh bỉ vất bỏ, trong tâm bạn sẽ cảm thấy thế nào? Các bạn đối với tượng gỗ… có khởi tâm phân biệt không? Xin các tín đồ thông minh của thiên chúa phản tỉnh một chút. Sùng bái tượng gỗ không có gì là chẳng tốt đó là biểu hiện quan niệm trong lòng có thánh hiền của chúng ta.
Từ trên sự tướng mà nói, chúng ta tu hành nên có mục tiêu, tượng gỗ có thể làm cho chúng ta phát khởi tín tâm, trợ giúp việc tu trì của chúng ta, lúc chúng ta chiêm ngưỡng thánh tượng từ bi của Phật trong tâm ta đình chỉ vọng nịêm tham sân; Lúc chúng ta đảnh lễ tướng hảo trang nghiêm của Phật, hành vi trở nên đoan chánh không dám buông lung. Chúng ta đối trước thánh tượng cung kính lễ bái chắc chắncảm ứng.
Từ trên pháp tánh mà nói, là tín đồ Phật giáo chân chánh không có quan niệm tượng gỗ…, xem một công án của thiền sư thì sẽ rõ.
Đan Hà thiền sư, lúc tá túc qua đêm ở một ngôi tự viện, khí hậu khắc nghiệt, thời tiết rét lạnh, tuyết rơi xối xả. Đan Hà thiền sư liền lên điện Phật lấy tượng gỗ xuống chẻ ra đốt sưởi ấm. Thiền sư giữ chùa nhìn thấy tức giận la lớn: “đồ đáng chết, thế nào có thể đem tượng Phật xuống đốt sưởi ấm chứ?”
Đan Hà thiền sư từ tốn trả lời: “Tôi không đốt sưởi ấm mà đốt tìm xá lợi”
Thiền sư giữ chùa lại hùng hổ la lên: “nói bậy, tượng Phật gỗ mà có xá lợi à?”
Đan Hà thiền sư từ từ cầm lấy bức tượng để vào trong lửa nói: “đã là gỗ sao không lấy mà sưởi ấm chứ”.
Đan Hà thiền sư mới đúng là người đệ tử chân chánh của Phật giáo, Ngài mới là bậc thánh liễu ngộ được Phật và giác ngộ đạo lý Tâm -Phật- Chúng sanh tuy ba nhưng không sai biệt. Lúc chưa giác ngộ chúng ta kính lễ thánh tượng, sau khi giác ngộ rồi ngoài tâm không có Phật, đó có thể nói thánh tượng ở trong tâm mình.
Đường Tuyên Tông lúc chưa đăng cơ là một chú tiểu nhìn thấy Hoàng Phách Hy Vận thiền sư lễ Phật ở giữa chánh điện thì đứng phía sau chăm chú nhìn, bỗng nhiên nhớ lại lời thiền sư thường nói liền bạch thiền sư rằng: “Ngài thường nói không cầu Phật, không cầu Pháp, không cầu tăng, bây giờ Ngài lạy Phật là để làm gì?”. Thiền sư nghe thế nhướng mắt nhìn Tuyên Tông nói: “không cầu Phật, không cầu Pháp, không cầu tăng, nên như thế mà làm”!
Lời của Hy Vận thiền sư những người căn cơ thấp kém khó mà thể hội được chân lý, chúng ta nên hướng về thánh tượng Đức Phậtđảnh lễ, chúng ta nên lạy tượng gỗ,… bởi vì như thế thì tâm phàm phu chúng tatâm Phật mới có thể giao hòa hợp nhất.

2. KIM DUNG CỦA ĐỨC PHẬT
Kim thân Phật: Hình tướng chân thật của Phật là pháp thân thanh tịnh vô vi, từ pháp thân lý thểhiển thị diệu dụng, đó là kim dung của Hóa thân. Pháp thân của Phật, các bồ tát đăng địa không có khả năng lường biết được, đệ tử Phật chỉ có thể từ tướng hảo của kim dunghiểu biết được sự vĩ đại của Phật.
Kinh Tâm Địa Quán có nói: “tướng trăm phước chói sáng trang nghiêm,chúng sanh trông thấy phát tâm kính mến hoan hỷ”. Hơn 2500 năm trước Giáo chủ Thích Ca vì một đại sự nhân duyên mà đản sanh ở thế giới này, có tướng tốt trăm phước trang nghiêm, đó là 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp thánh tướng của Phật. Thân của Phật là màu huỳnh kim cao một trượng 6 thước, kinh A Hàm nói: “kim dung Phật là vầng trăng tròn sáng”. Trong chúng đệ tử của Phật, có rất nhiều vị thánh đệ tử, chưa nghe Phật thuyết Pháp, chỉ mới nhìn thấy kim dung của Phật liền quyết chí quay về quy y rất nhiều. Tôn giả Đại Ca Diếp, là một bậc hào phú Bà la môn ở tháp Đa Tử gặp Phật tĩnh tọa ở dưới cội bồ đề, ngài bị kim dung tướng hảo của Phật nhiếp thọ bất tri bất giác hướng về đảnh lễtuyên thệ gia nhập giáo đoàn của Phật. Trưởng giả Tu Đạt là vị khách phương nam, trong một đêm gặp Đức Phật, dưới ánh trăng chiếu sáng Ông nhìn thấy thánh tướng của Phật liền cảm động quỳ xuống, thỉnh cầu Phật về quê hương mình tuyên truyền chân lý phổ độ chúng sanh.
Trong sự nghiệp truyền giáo của Phật, Ngài nhiếp phục những người cực ác quay đầu, cảm hoá những người ngoan cường quy y, có rất nhiều người cũng do tướng tốt uy nghiêm từ bi của Phật mà được nhiều lợi ích. Một tên phản đồ là Đề Bà Đạt Đa mua chuộc 6 tên cướp đi hành khích Phật nhưng bị kim dung của Phật phát ra ánh sáng oai đức chinh phục, 6 tên cướp này đều lập tức bỏ dao quỳ xuống trước Phật cầu xin sám hối; Ương Quật là một tên ma vương giết người không gớm tay. Đức Phật cố ý gặp ông ta trên đường, một tên đội trời đạp đất như Ương Quật mà vừa nhìn thấy kim dung Phật liền trong lòng kinh ngạc cúi đầu thành khẩn xin phật hứa giúp cho mình cải ác hành thiện làm lại cuộc đời. Khỉ vượn trong rừng hái trái cúng dường trước kim thân Phật, voi điên nhìn thấy kim dung của Phật cũng rơi lệ ăn năn. Kim dung của Phật sáng như mặt trời mặt trăng, tướng Phật trang nghiêm vạn đức khiến cho những người hung ác khởi tâm từ bi, những người tàn ác trở nên từ hòa. Trong 50 năm truyền giáo những người được cứu độ từ kim dung của Phật nhiều vô số kể.
Kim dung tướng hảo: Hình dung kim dung tướng hảo của Phật, trong kinh đều có nói Phật có “32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp” đó là hình trạng vi diệu, tướng hảo của Phật, có thể vừa nhìn là hiểu tướng của Phật, không dể mà có điều tốt làm người ta vừa nhìn thấy khởi tâm kính mến hoan hỷ. 80 vẻ đẹp là do 32 tướng tốt mà có.
Tướng viên mãn 32 tướng tốt này không phải do trời sanh như vậy mà do Phật trải qua 91 đại kiếp tu hành mới thành tựu được. Nên kinh Bách Phước Trang Nghiêm nói: tu 100 phước mới trang nghiêm được một tướng. Sau đây chúng ta tìm hiểu 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Phật như trong kinh đã ghi.
Trước chúng ta nói về 32 tướng tốt:
  1. Dưới lòng bàn chân bằng thẳng không có lồi lõm.
  2. Dưới lòng bàn chân có hình bánh xe, với ngàn tăm xe trục xe, vành xe đầy đủ.
  3. Chân tay mềm mại không thô cứng.
  4. Ngón tay nhỏ dài trắng nỏn như tuyết.
  5. Tay chân có màng da lưới.
  6. Gót chân thon tròn đầy không có lồi lõm.
  7. Có mắt cá tròn.
  8. Ống chân tròn đầy như con nai chúa.
  9. Tay dài quá gối, lưng thắng như núi.
  10. Nam căn ẩn tàng bên trong.
  11. Tướng lưỡi rộng dài.
  12. Mỗi chân lông chỉ mọc 1 sợi lông có màu xanh và thoảng ra mùi thơm.
  13. Lông mọc xoáy lên và xoáy về hướng mặt.
  14. Thân hình có màu sắc như vàng kim.
  15. Thân có hào quang, phát ra các phía.
  16. Da mịn trơn nhu nhuyến như dầu.
  17. Hai vai bằng thẳng không khuyết.
  18. Hai nách đầy đặn không có lõm.
  19. Thân cao thẳng, uy nghi đỉnh đạc.
  20. Thân hình đoan chánh không có cong vẹo uốn éo.
  21. Lòng bàn tay chân bằng thẳng.
  22. Có đủ 40 răng.
  23. Răng đều đặn và trắng đẹp.
  24. Răng bằng thẳng không hở khuyết.
  25. Hai má tròn đầy như má sư tử.
  26. Trong cổ họng thường tiết ra nước bột đầy đủ cam lồ mỹ vị.
  27. Lưỡi rộng, dài và mềm mại.
  28. Âm thanh như tiếng chim Ca lăng tầng già, ở xa cũng có thể nghe.
  29. Mắt màu tím thẫm, trong như nước biển.
  30. Lông mi đặc thù phi phàm.
  31. Giữa hai lông mày có lông trắng phóng hào quang.
  32. Trên đảnh đầu có nhục kế, và không nhìn thấy đảnh đầu.
Thứ đến là 80 vẻ đẹp:
  1. Không thấy đảnh tướng.
  2. Mũi cao thẳng, lỗ mũi không lộ.
  3. Lông mày như trăng non.
  4. Trái tay rũ xuống.
  5. Thân rắn chắc.
  6. Khớp xương chắc như móc khoá.
  7. Mỗi lúc trở mình chuyển hình như voi chúa.
  8. Đi cách đất và có ấn dấu chân.
  9. Móng như màu đồng đỏ.
  10. Xương đầu gối tròn đẹp.
  11. Thân trong sạch.
  12. Da mềm mại.
  13. Thân cao đẹp không cong vẹo.
  14. Ngón tay tròn thon nhỏ.
  15. Vân tay ẩn kín.
  16. Mạch sâu chẳng hiện.
  17. Mắt cá ẩn.
  18. Thân mềm mại mượt mà.
  19. Thân hình tròn đầy.
  20. Không uốn éo.
  21. Dung nghi đầy đủ.
  22. Đi đứng khoan thai.
  23. Đứng không động.
  24. Uy chấn hết thảy.
  25. Người thấy được an lạc.
  26. Khuông mặt vừa vặn.
  27. Dung mạo đoan chính.
  28. Diện mạo viên mãn.
  29. Môi màu sắc đỏ.
  30. Âm thanh vang trầm trong vắt.
  31. Rốn sâu tròn đẹp.
  32. Lông xoáy về hướng phải.
  33. Tay dài qua gối.
  34. Tay chân như ý.
  35. Vân tay sáng thẳng.
  36. Vân tay dài.
  37. Vân tay chẳng đứt.
  38. Người thấy hoan hỷ.
  39. Mặt rộng và đẹp.
  40. Mặt như vầng trăng tròn.
  41. Nói năng hoà nhã.
  42. Lỗ chân lông xuất ra mùi thơm.
  43. Trong miệng thoảng ra hương thơm.
  44. Dáng điệu cử chỉ như sư tử.
  45. Đi đứng như voi chúa.
  46. Tướng đi như ngỗng chúa.
  47. Đầu như trái Ma đà na.
  48. Các thành phần đầy đủ.
  49. Răng trắng đẹp.
  50. Lưỡi dài có màu đỏ.
  51. Lưỡi mỏng mà rộng.
  52. Lông nhiều và có màu hồng.
  53. Lông mềm mà mướt.
  54. Mắt dài và rộng.
  55. Tướng tử môn đầy đủ.
  56. Tay chân trắng hồng như màu hoa sen.
  57. Rốn không lộ.
  58. Bụng không lồi.
  59. Bụng thon đẹp.
  60. Thân khuynh động.
  61. Thân trì trọng.
  62. Thân lớn dài.
  63. Tay chân mềm mại sạch bóng.
  64. Bốn phía có hào quang dài một trượng.
  65. Khi đi có hào quang chiếu sáng khắp thân.
  66. Xem chúng sanh bình đẳng như nhau.
  67. Không xem thường chúng sanh.
  68. Thân tướng hùng vệ.
  69. Âm thanh không tăng giảm.
  70. Thuyết pháp không chấp trước.
  71. Tuỳ duyên thuyết pháp.
  72. Thứ đệ thuyết pháp.
  73. Pháp âm ứng với âm thanh của chúng sanh.
  74. Chúng sanh ngắm thân Phật ngắm mãi không hết.
  75. Ngắm mãi không chán.
  76. Tóc dài và đẹp.
  77. Tóc dài không rối.
  78. Tóc xoắn đẹp.
  79. Tóc như màu ngọc xanh.
  80. Đầy đủ tướng tốt của bậc phước đức
Trên đã nói rõ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của Đức Phật, như trong kinh đã ghi chép, tuy có chút thêm bớt nhưng kim dung của Ngài khác với phàm nhân, bất khả tư nghì.
Kỳ thật, Kim dung của Phật có thể hình dung trong 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp, đó cũng là cách nói Phật có sắc tướng thân vàng cao 6 mét. Lúc đó có ngoại đạo hoài nghi nên dùng thước đo thử Phật cuối cùng cao bao nhiêu nhưng đo mãi mà vẫn không hết. Như tiểu thuyết Tây du Ký kể rằng: Tôn Ngộ Không nhảy lộn một cái là 18.000 dặm, thế nhưng lộn 10 cái cũng lộn không qua lòng bàn tay của Phật, như vậy chúng ta có thể hình dung được kim dung tướng tốt của Phật cao hơn cả núi Thái, sâu rộng hơn cả đại dương.
Trong 32 tướng tốt có tướng lưỡi rộng dài, đó là hình dung âm thanh thuyết Pháp của Phật, ở rất xa cũng có thể nghe. Âm thanh của Ngài có thể truyền đi xa bao nhiêu? Trong kinh Bảo Tích nói: “bậc đại thần thông đệ tử của Phật là ngài Mục Kiền Liên, có một lần muốn đo thử âm thanh thuyết pháp của Phật, liền bay đến Đông phương Phật quốc cách thế giới Ta bà xa vô cùng tận để đo lường âm thanh của Phât, và vẫn nghe được Phật thuyết pháp. Hiện tại ở châu Âu châu Mỹ phát sóng chúng ta cũng có thể nhận được huống chi công đức cao vời vợi của Phật xuất ra từ tướng lưỡi rộng dài biến khắp tam thiên đại thiên thế giới? 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp chỉ là phàm phu chúng ta hiểu về Phật, Kim dung tướng tốt chân chánh của Phật chẳng lẽ 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp có khả năng bao hàm sao?

TÁM TƯỚNG THÀNH ĐẠO:
Kim dung của Phật tuy là tướng tốt vô luợng nhưng Ngài đản sanh trong nhân gian thì ngài vẫn là con người. Liên quan đến kim dung ứng hoá thân của Phật, giáo hóanhân gian 80 năm, nói rõ trải qua một đời của Đức Phật, đó là 8 tướng thành đạo, sau đây là lược thuyết 8 tướng.
Từ cõi Đâu Suất mà giáng sanh: Đức Phật được phật Nhiên Đăng thọ ký là bổ sanh bồ tát của thế giới Ta bà, trước phải ở nội viện của cõi Đâu suất trải qua 4000 năm, để quán sát cơ duyên gíao hoá ở cõi Ta bà.
Nhập thai: Sau khi ở nội viện của cõi Đâu Suất tròn 4000 năm, cởi voi trắng sáu ngà từ cõi trờigiáng thế, nhập thai vào nách phải của thánh mẫu Ma Gia.
Đản sanh: Vào ngày 8 tháng, đản sanh tại vườn Lâm tỳ ni, vừa đản sanh đã có thể đi bảy bước và nói rằng: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”.
Xuất gia: Lúc 19 tuổi, nhân vì cảm nhận được cuộc đời vô thường, kẻ mạnh ăn thịt kẻ yếu, cuộc đời nhiều bất công, liền quyết chí vượt thành xuất gia học đạo.
Hàng phục ma quân: Lúc tu đạo, nội tâm có ma phiền não tham sân si, ngoại cảnh có ma thanh sắc danh lợi, chinh phục các tà ác của ma quân và không bị nữ sắc mê hoặc. Đó là tinh thần hàng phục ma tất yếu của bậc vô uý đại hùng đại bi đại trí.
Thành đạo: Sau khi hàng phục ma ,vào ngày 8 tháng 12, trên toà kim cang dưới cội Bồ đề, lúc sao kim mọc chứng thành chánh giác.
Chuyển pháp luân: Sau khi thành đạo suốt 50 năm giảng kinh thuyết pháp, đem chân lý truyền khắp nhân gian, làm cho bánh xe pháp thường chuyển ở đời.
Niết bàn: Ngày 15 tháng 2 năm Ngài đúng 80 tuổi, nhân duyên giáo hóa đã viên mãn, vì động quy tịnh, đem sanh mệnh hoà nhập vào vũ trụ tạo hóa, dưới cội Sala thị hiện niết bàn.
Đức Phật là bậc đại thánhthế gian và đã sanh ra ở thế gian này, tướng hảo kim dung của Ngài tuỳ theo mỗi thời như trẻ thơ, nhi đồng, thanh niên, tráng niên, lão niên mà không giống nhau, tôn giả Đại Ca Diếp bảo đại thần Vũ Xá họa vẽ 8 tướng thành đạo, thông qua đó nói rõ di tích một đời hoằng hóa của Phật.
Kim Thân bị nạn: Thánh thân kim dung của Đức Phật sao mà trang nghiêm tốt đẹp, chúng ta cứ nghĩ rằng ứng thân của phật sinh hoạt tại thế gian, tuỳ tâm như ý không có gì là trở ngại, đó là cách nghĩ sai lầm.
Gíao Pháp của Phật nói rõ sự vô thường khổ của thế gian, những người đã thành phật rồi, có xa lìa vĩnh viễn và nằm ngoài định luật này không? Tuyệt đối không có đạo lý như vậy. Từ biến hoá thánh thân kim dung một đời của Phật, nói rõ chân lý chư hành vô thường của thế gian. “Thân giáo phải khớp với ngôn giáo”, Đức Phật giảng về đạo lý khổ- vô thường- vô ngãthế gian mà ngược lại thân Ngài thì ngàn năm trẻ mãi, không bệnh, không già như vậy chẳng phải mâu thuẩn đó sao? Đức Phật thị hiệnthế gian ngài có sắc thân nên kim dung tướng hảo cũng phát sanh không ít những tai nạn.
Bất luận nói thế nào, những công đức tu tập tích tụ nên 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp luôn vì có thân tướng hữu vi, không phải là pháp thân vô vi, thánh thân kim dung hữu vi biến hoá của Phật bị các tai nạn cũng là việc bình thường thôi.
Lúc Phật đi đường gặp hai tai nạn, một lần là Ngài đi qua núi Kha địa la bị một cây độc có tên là Khiếp đà la gỗ rớt xuống tua tủa làm mắt cá bị thương; lần thứ hai là lúc Ngài đi ngang dưới chân núi Kỳ xà quật bị Đề Bà Đạt Đa lăn đá xuống làm cho chân phải rướm máu. Đức Phật cũng tuyên bố trong đại chúng hai lần Ngài bị bệnh. Một là lúc danh y Xà Bà điều trị bệnh kiết cho Ngài; lần khác là lưng ngài đau sai tôn giả Anan vào thành xin sữa và bảo tôn giả Đại Ca Diếp trì niệm Thất bồ đề phần thì Ngài mới hết đau. Đức Phật cũng có hai lần gặp nạn đói, là lúc an cư ở thôn Bà La gặp năm mất mủa đói khát, trong 3 tháng an cư chỉ ăn lúa ngựa, lần khác thì đi khất thực nhưng không có thức ăn mang bình bát không về nhịn đói chờ đến ngày mai.
Đức Phật cũng bị một phụ nữ ngoại đạo vu oan, bị vua Thiện Giác của thành Câu Lợi phê phán và những người này đều nhận lấy kết quả bất hạnh. Một nhà tôn giáo vĩ đại luôn có tai nạn bức hại thử thách tinh thần.
Kim dung thánh thân của Phật gặp rất nhiều tai nạn như vậy, chúng sanh nếu không hiểu được ý nghĩa sâu xa của lý này dễ sanh tâm nghi ngờ. Vì thế vua Ba Tư Nặc nước Kiều Tát La đã từng đưa ra vấn đề này thỉnh vấn Đức Phật như sau: “Bạch Thế Tôn! Kim dung tướng hảo của Ngài, phẩm đức oai nghiêm, trên trờinhân gian không ai có được, nhưng trong sự nghiêp truyền bá chân lý của Ngài, vì sao phải gặp một số tai nạn” ?
Phật dạy: “Đại vương! pháp thân của chư Phật Như Lai là thân vĩnh hằng, nhưng vì độ chúng sanh mới có ứng hiện những tai nạn, những việc như: mắt cá chân bị thương, đau lưng, xin sữa, uống thuốc cho đến niết bàn, phân chia xá lợi xây tháp cúng dường tất cả đều là những phương tiện thiện xảo là vì muốn cho chúng sanh biết được nghiệp báo không mất, làm cho chúng sanh có tâm sợ sệt mà đoạn trừ tội lỗi, tu các hạnh lành mới chứng đắc pháp thân vĩnh hằng, tuổi thọ vô cùng, quốc độ thanh tịnh, không có sắc thân hữu vi lưu luyến thế giới Ta bà.
Vua Ba Tư Nặc nghe xong dứt hết nghi ngờ, vui vẽ reo mừng, Vua không chỉ hiểu thấu đáo được kim dung của Phật mà còn thể hội được tâm từ bi sâu xa của Phật!
Đức Phật bậc thầy vĩ đại, kim dung thánh thân của Ngài tuy chúng ta không thấy nhưng Ngài vẫn sống mãi trong tâm chúng ta. Hình ảnh trăm vạn nhân thiên của Linh sơn hội thượng và Phật trang nghiêm tướng hảo ngồi chính giữa vẫn còn lởn vởn trong đầu chúng ta: “Trên trời dưới đất không ai bằng Phật, mười phương ba đời cũng không ai sánh kịp; Tất cả những người ở thế gian con nhìn thấy, hết thảy không ai như Phật vậy”.

3. CHÂN THÂN CỦA ĐỨC PHẬT
Chân thân vô tướng: Thánh tượng của Đức Phật, chúng ta đi đến đâu cũng có thể chiêm ngưỡng; Kim dung của Phật, hơn 2500 năm trước quả là đã xuất hiệnthế gian, nhưng chân thân của Phật có hình tướng như thế nào?
Chân thân của Phật là pháp thân, pháp thân mới là hình tướng chân chánh của phật, nhưng pháp thân vô tướng hàng Bồ tát củu trụ còn không thể thấy, huống gì chúng ta là những chúng sanh bị vô minh phiền não che mờ? Pháp thân, vô vi vô tác, không hình không tướng, không đến không đi, không đầu không cuối, chúng ta làm sao mới có thể nhìn được Pháp thân của Phật chứ?
Trong kinh có chép: “đoạn một phần vô minh, chứng một phần pháp thân” cho nên có thể thấy Pháp thân không phải ở trên hình tướng mà thấy, mà hình tướng của Pháp thân hoàn toàn là do tu tập.
Trong kinh Hoa Nghiêm có ghi: “Pháp tánh vốn vắng lặng, không thể chấp thủ cũng không thể thấy, tánh không tức là cảnh Phật, không thể suy lường được”. Pháp thân xa lìa cảnh giới ngôn ngữ, văn tự và suy lường, “nếu có người muốn biết cảnh giới Phật, tâm ý nên thanh tịnh như hư không”. Pháp thânhư không thân, tuy không hình không tướng, không nói không thấy, nhưng vô hình mà không phải vô hình, vô tướng mà không phải vô tướng. pháp thân biến khắp mười phương, bao trùm pháp giới.
một lần Thượng tọa Thái Nguyên Phù giảng kinh Niết Bàn tại Dương Châu, giảng đến đoạn tam đức của Pháp thân, giảng rộng về đạo lý pháp thân. Lúc đó có vị thiền sư đang ngồi trong hội chúng nghe được liền cười. Thượng tọa Thái Nguyên Phù giảng kinh xong thì y áo chỉnh tề đảnh lễ vị thiền sư đó thưa: “đệ tử vừa giảng về Pháp thân, có chỗ nào không đúng”? Thiền sư nói: “nếu ngài muốn giảng Pháp thân, xin ngài ngưng nói ba ngày, nhắm mắt suy nghĩ, pháp thân cuối cùnghình tướng như thế nào”? Thượng tọa nghe xong thì tuyên bố trong chúng hội ngưng giảng kinh Niết Bàn ba ngày,tự mình nhắm mắt tham cứu, ba ngày sau hình như đã có sở ngộ về Pháp thân, vui vẻ nói:

Lý của pháp thân giống như hư không,
Bao hết ba đời biến khắp muời phương
Bao trùm bát cực bao quát lưỡng nghi
Tuỳ duyên phú cảm không đâu mà không biến.

Từ công án này chúng ta có thể thấy Pháp thân không thể từ trên hình tướng mà hiểu cũng không thể dùng ngôn ngữ mà nói rõ được. Kim dung thánh tượng, hoặc nói hoặc nhìn thì có thể biết nhưng chỉ có pháp thân không thể lấy mắt tai để biết, chân thân vô tướng của Phật nên dùng tâm mà hiểu.
Tác dụng của Pháp thân: Thể của pháp thân tuy không có hình để thấy có tướng để xem nhưng Dụng vi diệu đức tướng trang nghiêm của Pháp thân không phải hoàn toàn không thấy được. Đại luận nói: “Thể pháp thân xét tận cùng không ngoài thân tướng hảo này; không lìa khỏi pháp thân tuy hai mà không khác”. Kim dung thánh thân của Phật không phải là pháp thân, nhưng kim dung thánh thân lại từ pháp thân mà hiện các tướng dụng
Mật tích kinh nói: “Thánh thân Phật tuy có phân thành pháp thân, báo thân, ưng thân tuy có ba nhưng cũng không khác bởi vì ứng thân báo thântừ pháp thân lý thểhiển hiện, lìa pháp thân sẽ không có báo thânứng thân. Cho nên từ kim dung của ứng thân cũng có thể biết được Pháp thân của Phật. Khi Phật ứng hoáthế gian đến khắp nơi thuyết pháp, trong mỗi pháp hội giảng kinh, có khi thấy thân Phật là sắc vàng, có thấy thân Phật sắc bạc thậm chí thấy thân Phật là màu sắc lưu ly sa cừ mã não, có lúc thấy Phật và người khác nhau, có lúc thấy Phật cao 6 thước cùng với chuyển luân vương không đồng, hoặc là ba thước trăm ngàn thước các loại thân không giống. Thậm chí âm thanh thuyết pháp của Phật cũng có các loại không đồng, có lúc âm thanh mềm mại vi diệu, có khi âm thanh vang dội như sư tử hống. Các thời pháp cũng tùy theo căn cơ của thính chúng mà nghe có khác có khi nghe bố thí trì giới, có khi nghe thiền định trí tuệ, giải thoát, đại thừa,… như thế sao có thể nói là kim dung hảo tướng bình thường được? Đó không phải là từ bản thể chân thânhiển hiện ra thần lực pháp thân bất khả tư nghì đó sao?
Từ trong các kinh điển chúng ta có thể thấy Giáo chủ Thích Ca, thường thường cùng trong một thời gian nhưng ở trong ngàn vạn quốc độ làm Phật sự có các danh hiệu các hình tướng và các cách giáo hoá khác nhau, đó không phải là tướng dụng của tất cả hiển hiện từ pháp thân đó sao? Nếu khôngPháp thân làm sao hiện các tướng dụng mà đến nơi này? Quốc độ của một Phật là tam thiên đại thiên thế giới, thế giới Ta bà chỉ là một thế giới nhỏ trong tam thiên đại thiên đó, Đức Phật ứng hiệnthế gian, nếu khôngpháp thân làm sao hiện tướng dụng đến khắp nơi và thế nào có thể giáo hoá được tam thiên quốc độ?
Khởi Tín luận nói: “Pháp thân tự thể đã có ánh sáng trí huệ rộng lớn, chiếu khắp pháp giới. Do vậy có thể biết, tất cả thế giới Ta bà không có cái gì là không phải tướng dụng của Pháp thân, nên nói “tiếng suối chảy là tướng lưỡi rộng dài, núi xanh biếc cũng là pháp thân thanh tịnh” “hoa vàng rực rỡBát nhã, trúc xanh mơm mởn cũng luôn là pháp thân”. Trong con mắt của bậc thánh giác ngộ không có một cái gì không phải là chân thân của Phật, khắp cả vũ trụ kông nơi nào mà không có chân thân của Phật. Phật Đà vì có thân hữu vi mà có nhập niết bàn, đó là khế hợp pháp tánh của Phật, chân thân của Phật biến vào trong tất cả pháp, không có một pháp nào mà không có chân thân Phật. Đức Phật cho đến ngày nay vẫn còn sống cùng chúng ta,chúng ta sống trong Pháp thân của Phật. Kinh Lăng Nghiêm nói: “mười phương hư không thế giới đều là trong tâm của Như Lai, như mặt trời giữa hư không, đều là chân thân của Phật, vũ trụ vạn tượng đều là tướng dụng của chân thân Phật.
Nơi nơi đều có Pháp thân: Pháp thânchân thân của Phật, chân thân này biến khắp muời phương hư không pháp giới, hào quang chiếu vô lượng quốc độ, chỉ có Bồ tát đầy đủ Thập trụ Mới có thể thường nghe được diễn thuyết diệu pháp của Pháp thân. Pháp thâncảnh giới của Phật, Kinh Lăng Nghiêm chép: “Nước trong đại dương co thể uống hết, bụi trong vũ trụ có thể đếm được, gió trong hư không có thể cột lại nhưng cảnh giới của Phật thì không thể nói được”.
Đức Phật trong các kinh điển luôn luôn chỉ đạo các đệ tử tu tập nên nhận thức về chân thân của Phật rất thân thiết. Đức Phật cũng dạy: “thấy duyên khởi tức thấy pháp, thấy pháp tức thấy Phật”, pháp thân của Phật tức tự tánh của các pháp, nếu có khả năng từ pháp duyên khởi, hiểu thông tánh không của các pháp và như thế là có thể thấy đựơc chân thân của Phật. Kinh Kim Cang cũng viết: “Chỗ nào có kinh điển thì chỗ đó có Phật”. Trong pháp có phật, tin pháp là tin Phật, gọi là phật bởi vì Ngài có thể khế hợp pháp tánh, chứng ngộ pháp tánh và cùng pháp tánh hoà thành một thể; không tin pháp, không kính pháp, không hiểu pháp thì không thể nhận thức được chân thân của Phật.
Đức Phật ứng hoá thân vì nhân duyên, nhân duyên hết rồi thì nhập niết bàn, hàng đệ tử nhìn cảnh Phật niết bàn rất đỗi bi thương, Phật liền dạy: “các ngươi chớ có bi thương, ứng thân hữu vi tuổi già này cũng như chiếc xe cũ mục, chiếc xe cũ mục lúc hư, nếu đem sửa lại sử dụng đó không là phương pháp tốt nhất, nếu cái sanh mệnh nhục thể hữu vi của ta sống ngàn vạn năm cùng các ngươi nhưng có hợp tất có biệt ly, đó là đạo lý không thay đổi được! Đức phật vào niết bàn ở trong pháp tánh chiếu cố đến các ngươi làm cho sanh mệnh của Phật tương ưng với pháp thân vô vi, sanh mệnh này song hành cùng trời đất, chiếu sáng như mặt trời mặt trăng, các ngươi sau này nên y theo giáo pháp của Ta mà hành, màu lục của dương liễu đó, màu xanh của tùng bách đó đều là pháp thân của Phật ”nếu có thể y theo giáo pháp của Phật mà hành thì thấy được chân thân của Phật.
Do đó, các pháp tam vô lậu học giới định huệchân thân của Phật, 37 phẩm trợ đạo, thập lực, tứ vô uý,… là chân thân của Phật. Thậm chí hành một số pháp vì tăng đoàn đều là chân thân của Phật.
Chân thân thường trụ: Chân thân của Phật, pháp thân hụê mệnh của Phật là sáu pháp lục hoà của Tăng đoàn. Đức Phật thường nói: “ nếu cúng dường tăng tức là cúng dường Ta rồi” Phật sao mà xem trọng chúng tăng đến thế, cho nên “tiếp nối long mạch Phật pháp”, “kế tục hụê mệnh của Phật”, đều nương vào tăng đoàn, hy vọng tăng đoàn sau này không nên nghĩ rằng Phật đã vào niết bàn rồi, nên biết sức từ bi của Phật luôn gia trì chúng ta, chúng ta nên đi về mọi nơi để hoằng Pháp lợi sanh, làm cho chân thân Phật biến khắp nơi trên thế giới.
Hoàng đế Thuận Tông đời Đường không biết chân thân Phật cuối cùng sẽ ở đâu, nên đến Phật Quang Như Mãn thiền sư thỉnh vấn như sau:

“Phật từ xứ nào đến
Diệt rồi đi về đâu
Đã nói thường trụ thế
Hiện tại Phật ở đâu”?

Thiền sư đáp:

“Phật từ vô vi đến
Diệt trở về vô vi
Pháp thân đầy hư không
Thường trụ vô tâm xứ
hữu niệm quy vô niệm
Hữu trụ quy vô trụ
Đến vì chúng sanh đến
Đi vì chúng sanh đi
Biển thanh tịnh chân như
Thể thường trụ sâu xa
Trí giả khéo suy nghĩ
Chớ có nên hoài nghi”.

Hoàng đế trả lời thiền sư và vẫn còn hoài nghi

“Phật tại hoàng cung sanh
Diệt tại rừng song thọ
Trụ thế bốn chín năm
Lại nói không thuyết pháp
Sơn hà và đại hải
Trời đất và nhật nguyệt
Đến thời quy về hết
Ai nói không sanh diệt
Nghi tình như ở đây
Trí giả khéo phân biệt”.

Thiền sư lại trả lời:

“Phật thể vốn vô vi
Mê tình vọng phân biệt
Pháp thân khắp hư không
Chưa từng có sanh diệt
Hữu duyên Phật ra đời
Hết duyên Phật nhập diệt
Xứ xứ hoá chúng sanh
Giống như trăng dưới nuớc
Không thường cũng không đoạn
Không sanh cũng không diệt
Sanh cũng chưa từng sanh
Diệt cũng chưa từng diệt
Thấy rõ vô tâm xứ
Tự nhiên không pháp thuyết”.

Như Nguyện dịch (Theo Tinh Vân đại sư tác) theo phoquang.org
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8467)
Bản Chất của Hạnh Phúc được trích từ tác phẩm Nghệ Thuật Sống Hạnh Phúc: Cẩm Nang cho Đời Sống, một quyển sách căn cứ trên sự mở rộng những đối thoại giửa Đức Đạt Lai Lạt MaBác sĩ Howard C. Cutter, một nhà tâm lý trị liệu phương Tây.
(Xem: 8005)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7737)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6949)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13820)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7551)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9308)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7844)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7760)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7340)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7733)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7468)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8666)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 11074)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15422)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19201)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14893)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8829)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8830)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14650)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15275)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8528)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 10978)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11326)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8716)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9074)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19758)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24664)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8811)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9138)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10809)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 9011)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7916)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8804)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8296)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7306)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 11133)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7375)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8283)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17636)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44206)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45485)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 45049)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10620)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8556)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7563)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7581)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7373)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12106)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 7919)
Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa?
(Xem: 8421)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9172)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 8104)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8899)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 8000)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8181)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8684)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16343)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
(Xem: 7146)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
(Xem: 6931)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant