Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Học Phật và nuôi dưỡng tín tâm

03 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 12147)
Học Phật và nuôi dưỡng tín tâm


Ý Niệm Học Phật:

Học Phật không phải học lý thuyết của một bộ môn tư tưởng, cũng không phải cố gắng hoàn tất những pho giáo lý được biện giải bởi những nhà tri thức đa văn và có tài diễn đạt, cũng không phải như những Pháp sư thông làu các tạng kinh, luận và giới luật. Học Phật ta có thể tạm thí dụ như học ngành bác sĩ chuyên khoa, chữa trị bệnh tật có hiệu lựccứu sống được nhiều người. Học Phật mà không chú trọng việc thực hành theo lời Phật dạy để chuyển hóa phiền não, khổ đau thì chúng ta đã bị rơi vào tình trạng của người học Phật để khoe khoang, biện bác và tự hào trong mớ kiến thức Phật học. Người học Phật như vậy, dù có thông suốt ba tạng kinh điển cũng chỉ uổng phí một đời người, không có lợi ích gì trong mục đích giải thoát đau khổ, không hướng tới sự giác ngộ bản thân, nói chi là hoàn thiện cho kẻ khác. Học Phật như vậy không khác nào một sinh viên học ngành y khoa, trị liệu bệnh tật và săn sóc sức khỏe cho con bệnh mà không ra trường, không có kinh nghiệm, không thành công trong nghề nghiệp. 

Mục đích học Phật là để sáng tỏ chân lý và nắm rõ pháp môn để thực hành, giác ngộ chân lý, vượt thoát khổ đau. Giác ngộ chân lý nào? Chân lý về sự khổ, nguyên nhân sự khổ, trạng thái thoát khổ và con đường thoát khổ. 

Thông thường ta thấy khổ, nhưng không thấy đích thực nguyên nhân tạo ra nỗi khổ, nên cứ lấy nhân khổ để xây nên sự sống. Ví như sát hại, thù hận, gây chiến tranh là mầm nhân của đau khổ, song khi ta thỏa mãn được ít nhiều nhu yếu ấy, ta cho là vui, là thành công, là chiến thắng. Trong cái vui, thành công và chiến thắng ấy, hóa ra là động cơ tàn hại ta và hạnh phúc của nhiều người. Học Phật, trước hết là để hiểu rõ tường tận về lý nhân quả và biết thay đổi nhân quả để niềm vui, hạnh phúc được nuôi dưỡng, phát triển. Hạnh phúc, niềm vui có mặt là do ta không tạo ra suy nghĩ, lời nói, hành động xấu ác. Khi hiểu rõ giáo lý nhân quả rồi, ta cũng sẽ thông suốt về giáo lý duyên sinh.

“Cái này có nên cái kia có

Cái này không nên cái kia không

Cái này sinh nên cái kia sinh

Cái này diệt nên cái kia diệt”.

Thông suốt về giáo lý nhân quảduyên sinh, ta cũng sẽ nhận thức thấu đáo về giáo lý vô thường, khổ, không và vô ngã.

Ta biết rằng, vô thường ngoài cái nghĩa thay đổi, chuyển biến, hoại diệt, không tồn tại lâu dài, vĩnh viễn với thời gian, nhưng cũng bằng vào hiện tượng vô thường mà ta có thể chuyển đổi được nhân quả, nghiệp xấu, hóa giải được những khổ đau và thành tựu được phẩm chất từ bi, trí tuệ hoàn hảo của một đức Phật. Nguyên lý vô ngãliên hệ mật thiết với giáo lý duyên sinh. Tất cả các pháp từ sắc tướng đến các hiện tượng của tâm lý đều rỗng suốt, vắng lặng. Mỗi Pháp nương gá vào nhau để sinh hóasinh tồn, mà không đứng riêng rẽ, biệt lập. Chữ không trong tư tưởng bát nhã nó chứa đựng và bao hàm cả tâm, cảnh, thế giới, chủ thể, khách thể và đối tượng, nhưng nó tuyệt nhiên bình đẳng và không là gì cả trong cá thể biệt lập. Bằng vào tự tánh không, tương duyên và sự chuyển biến thuần thục, tiến hóa của nhân quả mà khổ đau rơi rụng, trạng thái Niết bàn, an lạc có mặt trong sự sống, trong lòng thực tại.

Lời dạy của đức Phật nhằm đối trị sự mê chấpvướng mắc danh, sắc, bản ngã của chúng sanh. Vì vậy, giáo Pháp không phải là định Pháp, mà giáo Pháp là những nguyên tắc soi sáng linh độngmầu nhiệm. Một lời dạy của đức Phật hàm chứa vô lượng nghĩa, vô lượng pháp môn thực hành. Khi đức Phật nói vui là đối với khổ mà nói, khi nói có là đối với không mà nói, khi nói tới Niết bàn là đối với sinh tử mà nói. Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói và hành động trên chiều hướng thượng. Học Phật là học khoa thực nghiệm, nhằm thiết lập sự bình an, liên hệ giữa cá nhâncá nhân, giữa tập thể và tập thể. Học Phật do đó, không phải để thâu thập kiến thức, lý thuyết và kinh văn, mà học Phật là học nguyên tắc khai mở tuệ giác và khả năng thương yêu đang ngủ chìm trong tiềm thức, trong nội tâm sau kín của mỗi người. Đức Phật có đủ những đức tánh cao đẹp, ta cũng có đủ, không thiếu và không khác. Tánh của đức Phật, có năng lực từ bi rộng lớn, có khả năng hóa giải những tâm lý sân hận, oán thù và tranh chấp. Ta cũng có đủ các đức tánh đó. Tánh của đức Phật, hàm chứa trí tuệ siêu việt, có khả năng phá trừ những tâm lý tham chấp, mê lầm và soi thấu tận gốc rễ hạnh phúc, khổ đau. Ta cũng có đủ các đức tánh đó. Đức Phật có khả năng nhẫn nại, kiên trì để tu tập, dứt trừ đau khổ, chứng quả cảnh giới Niết bàn tịch diệt, không còn vướng mắc trong nghiệp báo luân hồi. Ta cũng có đủ khả năng để lập nguyện tu tập, đoạn trừ đau khổ.

Một cá nhân, một gia đình, một tập thể được học Phật là cá nhân, gia đình và tập thể đó có niềm vui lớn, có sự hòa hợp lớn, có sự tương kính với nhau hết mực. Đó là kết quả bước đầu của người học Phật. Phẩm chất cao đẹp hơn của người học Phật là thành tựu được giơí đức thanh tịnh, thành tựu được định lực kiến cố và thành tựu được trí tuệ viên mãn. Nhìn vào cách sống, biểu tướng qua lời nói, và sự hành xử của một người mà ta có thể biết được người ấy có phẩm chất học Phật hay thiếu phẩm chất học Phật. Một người học Phật thế nào, tu tập thế nào mà không chuyển hóa được tri giác sai lầm, không thay đổi được tập khí giận hờn, hấp tấp, nóng nảy, ganh ghét, ích kỷ, đố kỵ, tham chấp, háo thắng, tỵ hiềm, nhỏ mọn, đầy phiền não, hệ lụyđau khổ thì việc học Phật và thực tập của ta đã sai lầm rồi, ta hãy trầm tỉnh, quán chiếu trở lại để tu chỉnh việc học Phật và công phu hành trì của ta.

Học Phật để quán chiếu

Tỏ ngộ lý chân như

Chuyển hóa nhân đau khổ

Tới lui cõi Niết bàn.

Ba nghiệp hằng thanh tịnh

Giới, định, tuệ viên dung

Vượt qua bờ sinh tử

Rộng độ khắp muôn loài.

 Niềm TinTuệ Giác:

Kho tàng văn hóathông điệp từ bi của đức Phật là một cống hiến to lớn cho nhân loạiđặc biệt là cho các quốc gia tiến bộ, văn minh cơ khí, vật chất trên thế giới. Một số các xã hội tây phương, mà đặc trưng là đất nước và chính sách Hoa Kỳ, đạo Phậtvai trò soi sáng, dẫn đạo hướng đi cho con ngườixã hội này, hướng đi tìm lại giá trị nhân bản, hòa bình và an lạc cho con dân, cho nhân loại toàn cầu. Người Phật tử, người cư sĩ Phật giáo trong xã hộithời đại phải sống như thế nào, tu tập như thế nào, hành xử như thế nào để có năng lực từ bi, trí tuệ, đại hùngđại nguyện hoằng dương Phật Pháp?

a. Thứ nhất, đối với bản thân: 

Người Phật tử cư sĩ khi thấy chiến tranh, nghe chiến tranh, bình luận chiến tranh, và than thở về sự tàn bạo, tội ác của chiến tranh; chưa đủ, người Phật tử cư sĩ phải tham gia vào sự nghiệp tái lập hòa bình và giải giới chiến tranh. Tham gia như thế nào vào sự nghiệp tái lập hòa bình và giải giới chiến tranh?

1. Ăn uống không điều độ, không theo phép dinh dưỡng để thân, tâm lành mạnh là ta đang trực tiếp, gián tiếp tham dự những tác hại của chiến tranh. Nguyên nhân sâu xa của sự tàn sát, hoại diệt sinh mệnh, thiêu hủy mầm sống là bắt nguồn từ việc ăn và uống của mỗi cá nhân. Người Phật tử cư sĩ phát nguyện giữ giới không sát sinh, giảm thiểu tối đa việc ăn thịt, uống rượu là sự thực tập, là nguyên tắc quán chiếu sâu sắc nhất trong sự nghiệp tái lập hòa bình, giải giới chiến tranh.

2. Chơi bài bạc, đánh cá, làm những nghề không lương thiện, lợi dụng công sức và làm giàu trên niềm đau, nỗi khổ của kẻ khác là ta đang trực tiếp, gián tiếp tham dự những tác hại của chiến tranh. Nguyên nhân sâu xa của sự tranh chấp, hoại diệt bản chất hòa bình và hạt giống yêu thương bắt nguồn từ trộm cướp, làm nghề nghiệp bất lương của mỗi cá nhân. Người Phật tử cư sĩ phát nguyện giữ giới không trộm cướp, không tham quyền lợi trên sự tước đoạt danh vị, tài sản của kẻ khác là sự thực tập, là nguyên tắc quán chiếu sâu sắc nhất trong sự nghiệp tái lập hòa bình, giải giới chiến tranh.

3. Vợ chồng không tín cẩn, không trung thành và không kính yêu nhau; sinh tâm ngoại tình, gian díu sắc dục với người ngoài là ta đang trực tiếp, gián tiếp tham dự những tác hại của chiến tranh. Nguyên nhân sâu xa của sự đổ vỡ hạnh phúc gia đình, kiện tụng, ly thân, ly dị, gieo nỗi sợ hãi, cô đơn, bức xúc lên đầu con trẻ, là bắt nguồn từ hành động tà dâm, ngoại tình của vợ chồng và các bậc làm cha mẹ. Người Phật tử cư sĩ phát nguyện giữ giới không tà dâm, không ngoại tình là sự thực tập, là nguyên tắc quán chiếu sâu sắc nhất trong sự nghiệp tái lập hòa bình, giải giới chiến tranh.

4. Nói lời gian dối, nói lời đường mật, nói lời chia rẻ, đấu tranh; nói lời vu khống, mạ lỵ; nói lời thô bạođộc ác là ta đang trực tiếp, giám tiếp tham dự những tác hại của chiến tranh. Nguyên nhân sâu xa của sự chia rẽ, thiếu tinh thần kết hợp giữa người thân, trong đoàn thể là bắt nguồn từ sự không thành thật, bôi bác, tranh chấp hơn thua bằng bút chiến, khẩu chiến. Người Phật tử cư sĩ phát nguyện giữ giới không nói gian dối, không nói lời gạt gẫm, không nói lời đường mật, chụp mũ, thị phi, không nói lời độc ác, chia rẻ và đấu tranh là sự thực tập, là nguyên tắc quán chiếu sâu sắc nhất trong sự nghiệp tái lập hòa bình, giải giới chiến tranh.

Ngoài sự ngăn ngừa, chấm dứt nguyên nhân và mầm móng của chiến tranh qua bốn yếu tố thực tập, quán chiếu căn bản: Không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâmkhông gian dối, người Phật tử cư sĩ phải phát nguyện thực tập sự tỉnh thức liên tục, bền bỉ để phát triển hạt giống hiểu biết, yêu thương, thanh tịnhhòa hợp nội thân trong nội thân. Ngày đầu nhập đạo, phát khởi tín tâm quy y Tam bảo người Phật tử cư sĩ tự tuyên thệ: “Con xin nguyện trọn đời nương tựa nơi tự tánh Phật bảo”. Tự tánh Phật bảo là tự quy y nơi tánh giác của mình để tìm hạnh phúc, chứ không đi tìm cầu một nơi nào khác. Quán chiếu nội thân trong nội thân là trong thân Phật có thân ta, trong thân ta có thân Phật. Nhận biết, “tánh Phật và tánh chúng sanh vốn bình đẳng”, đó là niềm tin chơn chánh, niềm tintuệ giác của người Phật tử cư sĩ.

Thọ giớithực hành giới phápbước đầu công phu tu tập thiền quán của người Phật tử cư sĩ. Bước thứ hai, người Phật tử cư sĩ phải lưu ý thực tập pháp môn tham thiền trong đời sống để có sự tỉnh giác thường xuyên. Tham thiền để an tâm. Mỗi ngày ta ăn cơm để nuôi thân, thì mỗi ngày ta cũng phải thọ “thiền duyệt thực” để nuôi tâm. Thiền duyệt thựctu thiền để nuôi lớn sự tỉnh thức và niềm vui tâm hồn. Tu tập thiền định như thế nào, ta sẽ đề cập chi tiết ở một chủ đề khác. Ở đây xin nói ra vài lợi íchcông năng của thiền định. Thiền định dẫn tới:

1. Tâm an ổn, vui tươi và trừ sự căng thẳng tinh thần.

2. Hóa giải tâm lý nóng giận, muộn phiền, trách móc và ganh tỵ

3. Làm chủ được hơi thởcảm giác.

4. Rủ bỏ lo âu, mặc cảmcô đơn.

5. Biết cách cảm thông với chính mình.

6. Trừ được bệnh trầm cảm và bạo hành.

7. Dễ làm hòa với người thân, bằng hữu và những người chung quanh.

8. Có khả năng lắng nghe người khác.

9. Thường nói lời ái ngữxây dựng.

10. Không nói năng, hành động vụng dại đễ làm đổ vỡ hạnh phúc gia đình.

11. Khéo làm hòa và khéo tái lập tình yêu thương với người thân.

12. Vững chãi và tự tin trong cuộc sống.

13. Từ bỏ được những thói quen nghiện ngập, bài bạc, sắc dục, ma túy.

14. Sống đơn giản, khiêm cung, cởi mở và từ ái.

15. Không gây khổ đau cho bản thântha nhân.

16. Phát triển được các thiện tâm sở dễ dàng.

17. Hoàn mãn được tâm từ bi, tâm hỷ xả rộng lớn.

18. Thành tựu được giới đức, oai nghi thanh tịnh.

19. Không đua đòi vật dục theo đám đông.

20. Thành tựu được chánh hạnh giải thoát.

21. Có đủ nghị lực, uy tín để dấn thân phụng sự.

22. Không khuất phục uy quyền, bạo lực.

23. Giác ngộ được lý tánh vô sanh.

24. Tâm Bồ đề bất thối chuyển.

25. Đem an lạc, hạnh phúc đến cho nhiều người và nhiều thế hệ.

26. Thành tựu được Phật thânPhật quả.

27. Thuần thục đại nguyện độ sanh của Bồ tát.

28. Tự tại vào ra trong ba cõisáu nẻo luân hồi

b. Thứ hai, đối với tha nhân: 

Trong hai yếu tố thực tập giới Phápthiền định của người Phật tử cử sĩ đã mang đủ phẩm chất về hai phương diện vừa tự lợi, vừa lợi tha. Tự lợilợi tha là hành động tích cực để nuôi dưỡng, xây dựng hạnh phúc bản thân, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho nhiều người trong xã hội và qua nhiều thế hệ

Làm thế nào nào để xây dựng một gia đìnhhạnh phúc và làm thế nào để xây dựng một tổ chức từ thiện xã hội lâu dài, có tầm cỡ để cứu tế những xã hội chậm tiến và nghèo đói? Đó là hai vấn đề rất cụ thể, thiết cận mà người Phật tử cư sĩ nên hết lòng lưu tâm thảo luậnthực hiện ngay bây giờ, không hứa hẹn ở tương lai.

a.Xây Dựng Một Gia ĐìnhHạnh Phúc

Trong Kinh Yêu Thương, đức Phật dạy: Một gia đình muốn có an lạc, hạnh phúc ngoài việc mỗi người có học, có một nghề tốt và không làm tổn hại đến sinh mạng của kẻ khác. Mỗi người trong gia đình còn nên học hạnh thẳng thắn, khiêm cung, biết sử dụng ngôn ngữ từ ái, những kẻ ấy biết sống đơn giản, từ hòa, điềm đạm, ít ham muốn và không đua đòi theo đám đông. Họ luôn luôn thực tậpnuôi dưỡng tâm niệm:

 1.Nguyện cho mọi người và mọi loài được sống trong an toànhạnh phúc, tâm tư hiền hậuthảnh thơi.

2.Nguyện cho đừng loài nào sát hại loài nào, đừng ai coi nhẹ tánh mạng của ai, đừng ai vì giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho ai bị đau khổ và khốn đốn.

3.Như một bà mẹ đang đem thân mạng mình che chở cho đứa con duy nhất, chúng ta hãy đem lòng từ bi mà đối xử với tất cả mọi người”.

Người Phật tử cư sĩ nhiều lúc vì đời sống cơm áo, vì bổn phận đối với Phật pháp (chùa chiền), đoàn thể và quốc gia dân tộc, mà vô tình lãng quên việc nuôi dưỡng, tưới tẩm hạnh phúc cá nhângia đình. Đây là điều ta cần xét lại và quán chiếu để đừng rơi vào tình trạng “xây nhà trên bãi cát”.hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đình không có thì làm sao ta có thể phục vụ dân tộc, đạo pháp? Chúng ta khách quan đề ra một số câu hỏi và bản thân của một Phật tử cư sĩ cần thẩm xét, chiêm nghiệm cho thật chu đáo những sinh hoạt tâm linh trong gia đình của mình: 

1. Ta và người thân trong gia đình (chồng, vợ, các con và các cháu) đã chính thức làm lễ phát nguyện quy y Tam bảohành trì năm giới căn bảncủa người Phật tử cư sĩ chưa?

2. Thầy bổn sư, thầy y chỉ, thầy giáo thọ của ta là những bậc tăng, ni nào? Ta thường thân cận để được hướng dẫn pháp môn tu tập hay không?

3. Trong ba Pháp quay về nương tựa Phật, Pháp và Tăng, ta đã thực tập được những điều nào sau đây: 

a. Đã về nương tựa Phật, con đang thực tập pháp môn thiền định tinh cần để phát huy khả năng Phật tánh trong con mỗi ngày mỗi thêm sáng đẹp.

b. Đã về nương tựa Pháp, con đang thực tập giới luật tinh cần để phát huy khả năng từ bi trong con mỗi ngày mỗi thêm sâu sắc, rộng lớn.

c. Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân bảo hộ, soi sáng, dìu dắtnâng đỡ trên con đường tu tâm, dưỡng tánh.

4. Nếu có thực tập, ta đã thực tập được mấy mươi phần trăm?

5.Những người trong gia đình có cùng nhau ôn tập, tụng đọc năm giớisám hối nửa tháng một lần hay không?

6. Những người trong gia đìnhthực tập bửa cơm chay tịnh, chánh niệm với sự có mặt đông đủ người thân mỗi tuần hai lần vào dịp cuối tuần hay không?

7. Cha mẹ, vợ chồng và các con có thực tập thói quen lễ Phật, niệm Phật, ngồi thiền, kinh hành, đọc kinh trước bàn Phật mỗi ngày từ 5 phút đến 15 phút mỗi buổi sáng và mỗi buổi tối hay không?

8. Những người trong gia đình, mỗi khi khởi tâm buồn giận, nóng nãy, bức xúc có thực tập phép, “trở về hơi thở và theo giỏi hơi thở trong chánh niêm” chưa, hay mạnh ai nấy nói, mạnh ai nấy tranh cãi?

9.Cha mẹ, vợ chồng và người thân trong gia đìnhthực tập phép “hối lỗi” với nhau trước bàn thờ Phật, bàn thờ ông bà và tổ tiên sau mỗi lần xảy ra chuyện bất hòa,khẩu chiến hay không?

10. Ta phát nguyện tham gia đều đặn với một trung tâm tu học, một tăng thân, một ngôi chùa để thảo luậnthực hành Phật pháp, ứng dụng trong đời sống hay không?

11. Con em của chúng tatham gia sinh hoạt với một gia đình, một đoàn thể có mục đích trau dồi đạo đức, tâm linh nào không?

12. Chúng ta và con cái thường giải trí các loại phim ảnh, sách báo nào? Có lành mạnh hay mang nhiều tính bạo động, khơi dậy tình dục, chiến tranh?

13. Chúng ta có cùng nhau thảo luận việc sử dụng phim ảnh, sách báo, tivi, E-mail, Internet, Website để đưa những yếu tố học hỏi, giải trí lành mạnh vào tâm thức mỗi người trong gia đình ta hay không?

14. Chúng taý thứcthiết lập thời khóa một tháng ít nhấtmột lần để cha mẹ, vợ chồng, con cái thảo luận, duyệt xét với nhau về việc thực tập năm giới, nền tảng hạnh phúc của gia đình mình hay không?

Trên đây chỉ là một số câu hỏi gợi ý và cũng là những nguyên tắc soi sáng nuôi dưỡng, tưới tẩm, bảo hộ nếp sống tâm linh, hạnh phúc gia đình ta. Mỗi Phật tử cư sĩ nên hết lòng kiểm chứng, tìm cách nương tựa bạn đạovị thầy tâm linhthực tập cho sâu sắc, tinh cần.

b. Xây Dựng Một Tổ Chức Từ Thiện:

Người Phật tử cư sĩ nên lưu tâm xiển dương công đức từ thiện. Nói xây dựng một tổ chức từ thiền thì quá lớn, nên ta có thể bắt đầu bằng cách thiết lập một nhóm từ thiện, để vừa khiêm tốn và vừa dễ thực hiện. Trong cộng đồng Phật tử Việt Nam ở Hoa Kỳ và hải ngoại đang có khá nhiều các “nhóm từ thiện” hướng về Việt Nam: giúp người mù, mổ mắt bị cườm và xây lại nhà cửa hư sập bởi thiên tai; cứu đói, bảo trợ người khuyết tật ở các làng phong cùi, các viện cô nhi; làm trường học dạy trẻ ở các vùng quê; mở các trạm y tế cho thuốc đến người bệnh; trùng tuxây dựng lại những ngôi chùa bị chiến tranh tàn phá . . .

Vấn đề từ thiện, cứu tế gắn liền với giáo lý từ bi, vị tha của đạo Phật. Song ta biết rõ là khi làm từ thiện xã hội nó sẽ bị ảnh hưởng ít nhiều với hoàn cảnh chính trị, chính biến của đất nước, nhưng không vì thế mà ta phó mặc, làm ngơ trước niềm đau, nỗi khổ của dân chúng đói nghèo, bệnh tật, thiên tai xảy ra khắp nơi trên mặt đất. Kế thừa truyền thống “vô duyên đại từ, đồng thể đại bi” của đức Bồ tát Quán Thế Âm, ngày 14 tháng 04 năm 1966, một nữ tu Phật giáo ở bên Đài Loanpháp danh Chứng Nghiêm cùng năm học trò xuất gia và ba mươi bốn Phật tử cư sĩ phát nguyện trước Tam bảo thành lập “Hội Công Đức Từ Tế”. Hội bắt đầu làm ra những đôi giày em bé để gây quỹ, kêu gọi bà con thiện tâm tiết kiệm 05 xu mỗi ngày, với ý chí tụ cây thành rừng, tụ cát thành núi đã xây dựng nên một sự nghiệp từ thiện xã hội thật to lớn ngày nay. Tính đến năm 2002, Hội đã tập họp trên 25 ngàn ủy viên điều hành và hàng triệu người thiện tâm tham gia làm việc, đóng góp ngân quỹ để cứu khổ người nghèo và dân chúng lâm nạn khắp nhiều quốc gia trên thế giới.

Suốt 35 năm dấn thân làm việc, nhà tu mảnh khảnh Thích nữ Chứng Nghiêm nay đã 65 tuổi vẫn vui tươi, mạnh khỏe, nói năng khiêm tốn, mạch lạc, thực tế, phóng khoáng như lúc mới bắt đầu vào đời làm công tác từ thiện năm 30 tuổi. Thống kê con số mới nhất của Hội Công Đức Từ Tế dưới sự lãnh đạo của bà mẹ Từ Thiện Chứng Nghiêm từ ngày Rằm tháng Tư âm lịch năm 2002, là Hội đã thâu nạp trên 4 triệu hội viên, tức hơn một phần năm dân số của quốc gia Đài Loan. Trong thời gian trên 30 thập niên “xuống đường”“dấn thân” làm hạnh Bồ tát, Ni sư Thích nữ Chứng Nghiêm đã biến đổi vai trò Phật Giáo Thiền định, truy tầm nội tâm trở thành vai trò của đại hạnhđại nguyện của Bồ tát cứu khổ tích cực giữa cõi đời trầm luân.

Người phật tử cư sĩ Việt Nam đang cư trú và sinh hoạt tại Hoa Kỳ cùng khắp nơi tại hải ngoại cũng có đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm, ý chí, đạo lựctâm nguyện dấn thân cứu tế, làm công tác từ thiện xã hội không thua bất cứ nhân sự của một Hội từ thiện nào của các tổ chức, đoàn thể và các tôn giáo. Quý thầy, quý sư cô trẻ Việt Nam đang tu học tại xã hội tây phương hôm nay cũng có thể trở thành một hay nhiều Ni sư Chứng Nghiêm trong sứ mạng tập họp các giới Phật tử cư sĩ đóng góp công sức, tài lực, bàn tay trong phần vụ “Từ Thiện Cứu Tế” thực tiển cho trẻ con, quần chúng bất hạnh trên quê hương và trên các quốc gia lạc hậu, chậm tiến. Ta hãy nhìn về phía hoạt động của một số tôn giáo khác trên quê hương Việt Nam và các xứ sở nghèo đói:

1. Xây dựng nhà nguyện, tập họp trẻ con và người nghèo trên các vùng nông thôn, sơn cước để truyền bá đức tin.

2. Mở các bệnh xá chữa bệnh, cho thuốc người già, người bệnh và người tàn tật.

3. Xây trường học để dạy trẻ con biết đọc, biết viết và biết cám ơn người đã ban ơn.

4. Bố thí thức ăn, áo mặc, quà và kẹo bánh để bảo dưỡng, an ủi, khích lệ việc học hành của con em.

5. Phát tiền cho mỗi đầu người để sửa sang, xây dựng lại chỗ ở cho kẻ bần hàm và “cấy đức tin” vào tâm hồn họ.

6. Mua lại đất điền thổ của nhà nghèo để xây nhà và bán rẻ lại cho dân vào đạo hoặc cải đạo.

7. Dạy cho tuổi trẻ có nghề khâu may, thủ công nghệ, chằm nón, đóng giày, sửa máy móc, sử dụng các hệ thống điện toán.

8. Cấp phát học bổng để các em được vào các chương trình giáo dục và học vấn cao cấp.

9. Cấp phát học bổng và vận dụng phương cách để đưa sinh viên đi học nước ngoài.

10. Đào tạo nhân sự có khả năng chuyên môn về các ngành tôn giáo, giáo dục, tâm lý, giảng thuyết để thu hút dân chúng.

11. Dùng tài nguyên và sách lược thu phục, ngoại giao với các cấp chính quyền để mở mang “thiên quốc” trong chốn địa ngục trần gian.

Trong bài tham luận này, chúng tôi chỉ đưa ra một tấm kính để nhìn nhằm gợi cảm thêm những thao thức và đóng góp chút kinh nghiệm giới hạn trong hạnh nguyện tu tập để tạo niềm an lạc cá nhân, xây dựng hạnh phúc gia đình của người Phật tử cư sĩ. Thêm vào đó là vai trò lợi tha, tức là công tác từ thiện xã hội, cứu tế nhân gian mà hầu hết những người Phật tử cư sĩ hằng lưu tâm tới, nhưng vì thiếu khích lệ, huy động hoặc không biết bắt đầu từ đâu. Ta hãy bắt đầu bằng ý thức, rồi sẽ cùng nhau hành động. 

Thời đại đức Phậtnam Phật tử cư sĩ Cấp Cô Độc, có nữ Phật tử cư sĩ ViSakha là hai người tiêu biểu cho những người Phật tử cư sĩ nhiệt tâm hộ trì Tam bảo, dấn thân làm công tác từ thiện xã hội nhằm giáo dục, cứu khổ người nghèo. Ngày nay trong cộng đồng Phật giáo khắp nơi trên thế giới cũng không thiếu những Phật tử cư sĩđại hạnh đóng góp bàn tay, khối óc, tài vật và dấn thân phụng sự chánh Pháp, quần sanh. Người Phật tử cư sĩ Việt Nam ở Hoa Kỳ và các nước ngoài hãy đoàn kết, tập họp nhau lại để tu tập cứu người và giải khổ.

Hãy thắp lên ngọn đèn ý thức

Cho tình gầy lớn dậy tin yêu

Hãy nhiếp niệm trở về hơi thở

Cho nụ cười ướp ngọt sân si.

Là lửa ấm cõi lòng băng giá

Phủ thân côi chiếc áo nhân từ

Hãy lau khô nước mắt nghèo đói

Bằng bát cơm thơm ngát diệu thường.

Hãy nhỏ xuống quê hương thù hận

Giọt cam lồ rửa sạch oan khiêm

Hãy quên đi khối sầu dỉ vãng

Cho mùa xuân hoa nở muôn nhà.

Hãy gieo xuống giống lành thiện mỹ

Cho thiên đường hiện xuống trần gian

Em và tôi hóa thân dòng sông “Vô Niệm”. . .


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4026)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5211)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2676)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6155)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3069)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3118)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3325)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3253)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3310)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4577)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2743)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5237)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3891)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3855)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3220)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4159)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5073)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3534)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6768)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3980)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3231)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3111)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2974)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5887)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4648)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3508)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2911)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3322)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4442)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5739)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6655)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3740)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4546)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4625)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3989)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3415)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4652)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6078)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5856)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3652)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4704)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4470)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4546)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4280)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4613)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8237)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3936)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5735)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5224)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6873)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6197)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6008)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5823)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6313)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6805)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4991)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5583)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6408)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3802)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5440)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant