Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những vấn nạn của Phật tử Tây phương về nghiệp và tái sinh

01 Tháng Năm 201200:00(Xem: 18059)
Những vấn nạn của Phật tử Tây phương về nghiệp và tái sinh
NHỮNG VẤN NẠN CỦA PHẬT TỬ TÂY PHƯƠNG
VỀ NGHIỆP VÀ TÁI SINH

Quán Như Phạm Văn Minh

Trong khi những tinh yếu của giáo lý Phật giáo như bất bạo động, duyên khởi (sinh môi), vô ngã (tâm lý học hiện đại), vô thường (Thuyết tương đối)… được Tây phương tiếp nhận niềm nở vì khế hợp với những khám phá khoa học hiện đại, những giải thích về nghiệp báotái sinh gây ra những khó khăn về nhận thức luận cho các Phật tử Tây phương.

Trong Ba nguyên tắc để kiểm chứng ‘chánh pháp’, thường gọi là ‘Tam Pháp Ấn’ không có ‘nghiệp’ và ‘tái sinh’, tuy nhiên đối với Phật tử Á châu, nghiệp và tái sinh đồng nghĩa với ‘Phật giáo’. Không thể ‘có’ Phật giáo nếu khôngý niệm nghiệp. Nghĩa là không ai có thể tự gọi mình là Phật tử nếu không chấp nhận hay tin lý thuyết ‘Nghiệp’.

Trong khi về Vật lý, định luật do Newton khám phá ra được khoa học chấp nhận như định luật khách quantất định của vũ trụ. Tuy nhiên cho đến nay khoa học vẫn ‘chưa khám phá’ ra những đạo luật ‘luân lý’ khách quan và tất định ban thưởng hay trừng phạt những hành vi thiện ác. Có một cơ chế ‘khách quan’ nào ban thưởng những người làm lành và trừng phạt những người ác? Trong khi các tôn giáo độc thần đưa ra hình ảnh một ‘thượng đế’ cầm sổ ‘ghi chép’ những hành vi thiện ácban thưởng người này lên Thiên đàng hay trừng phạt người khác xuống hỏa ngục, giáo lý duyên khởi của Phật giáo phủ nhận toàn triệt một nhân vật như thế. Ai là ‘phán quan’ giữ sổ “đậu đen đậu trắng’ để thưởng phạt? Triết lý khai sáng và khoa học đã khai tử nhân vật gọi là ‘Thượng đế’ từ thế kỷ 18. Nietsche đã khai tử thượng đế và kết tội Thượng đế là một ý niệmlừa bịp vĩ đại nhất từ 2000 năm qua’. Các thành phần tôn giáo quá khích chỉ còn một cách nói ‘đó là lòng tin của tôi’ và dĩ nhiênlòng tin’vấn đề cá nhân không ai có thể ‘truyền thông’ cho người khác được, trừ khi có ‘diễm phúc’ được ‘Chúa’ chọn lựa!

Một số người Tây phương cuồng tín (fundamentists) do đó hoặc là ‘bám víu’ vào ‘lòng tin’ phản khoa học này, hoặc chấp nhận thái độ ‘bất khả tri’ (agnostics), như Khổng Tử ngày xưa né tránh trả lời những câu hỏi về siêu hình ‘yên sự sinh, năng sự tử’, ‘quỷ thần kính nhi viễn chi’, hay quyết liệt hơn chấp nhận thái độ vô thần (atheists). Thành phần ‘bất khả tri’ và ‘vô thần’ hiện nay trong xã hội Tây phương nếu không bằng thì cũng nhiều hơn những người ‘tin’ mù quáng vào Chúa hiện hữu bằng xương bằng thịt, nghĩa là xã hội Tây phương càng ngày càng bị thế tục hóa.

Những giải thích về Nghiệp

Giải thích thông thường về Nghiệp là nếu ‘đời này’ chúng ta hạnh phúc hay đau khổ là do kết quả của những hành động của chúng ta trong quá khứ (đời trước), biệt nghiệp - hay định nghiệp của mỗi người. Kinh điển Pali giải thích điểm này không giống nhau. Các kinh điển Pali đầu tiên phần lớn nghiêng về cách giải thích theo tính cách tất định của nghiệp. Một trong những hậu quả do lối giải thích này là hố ngăn cách giữa Tăng giàcư sĩ trong các nước Phật giáo Á Châu. Tăng già ‘kiếp trước’ tích lũy đầy đủ nghiệp ‘tốt’ để kiếp này được sinh làm tỳ kheo, theo bước chân Phật; còn cư sĩ ‘kiếp trước’ tạo nhiều nghiệp ‘chướng’ nên kiếp này còn bận bịu thê nhi và bổn phận của cư sĩhỗ trợ Tăng già trên con đường hành trì và sẽ được tích tụ ‘công đức’, may ra ‘kiếp sau’ được ‘tái sinh’ vào một giai cấp khá hơn hay có đủ thiện nghiệpcông đức để thành ‘trưởng tử như lai’ trong kiếp sau. Kinh điển Pali chỉ ghi lại bằng chữ viết 5 thế kỷ sau khi Đức Phật nhập diệt, cách giải thích này thuận lợi cho giáo đoàn tăng già ‘nguyên thủy’ nên có lẽ họ không bận tâm đưa ra những giải thích khác. Trong giai đoạn suy thoái của Phật giáo Thái, nhiệm vụ chính của các nhà sư là ‘bán công đức’ cho các gia đình giàu có, dù không ai chắc rằng các vị sư này thật sự có công đức để ‘cho’ hay ‘bán’ hay không và hậu quảPhật giáo bị kết tội là ‘chủ nghĩa tâm linh vật chất’, nghĩa là các tăng già loại này đem giáo pháp của Đức Phật ra buôn bán lấy tiền. Công đức giống như ‘tiền’ gởi nhà băng, khi nào cần thì đem ra xài hay mua thêm công đức! Phật giáo Đại thừa rộng rãi hơn, khi làm công đức thì không cần tích lũy hay đem ‘bán’ hay cho người khác, mà hồi hướng cho tất cả chúng sinh để tất cả đều thành ‘Phật Đạo’.

Tình trạng lẩn quẩn là các tăng sĩ buôn bán công đức kiểu này ở Thái đi các xe mắc tiền và càng đi xe mắc tiền chừng nào, chứng tỏ họ ‘ăn khách’ vì ‘có nhiều công đức’ để cho hay bán và thay vì dùng thì giờ để ‘pháp’ thí, các nhà sư ‘thời hội nhập’ này tìm mọi thủ đoạn ‘tiếp thị’ để bán công đức cho các đệ tử ‘giàu có’, đổ xô cúng dường để mua công đức! Tình trạngcư sĩ Sulak Sivaraksa gọi là từ ‘hoa sen’ sang ‘bàn tay quỷ’ của kinh tế thị trường. 

Định nghĩa nghiệp theo kiểu này có thể dùng để biện chính cho chế độ đẳng cấp khắc nghiệt ở Ấn (như Gandhi đã dùng trong cuộc tranh luận với Ambedkar), bất công kinh tế, giàu nghèo, xấu đẹp, đều đem nghiệp ra để biện chính, Nghiệp thành một nguyên tắc ‘đạo đức tất định’ và định nghĩa nghiệp theo kiểu này đúng với tinh thần của Ba La Môn giáo hơn là Phật giáo. Có gì bất hạnh xảy ra chỉ cần chép miệng hay xoa tay: ‘Nghiệp mà!’. Vì chuyện xảy ra ở kiếp khác nên không ai kiểm chứng được, cũng giống như lòng tin được Chúa rước lên Thiên đàng hay đẩy xuống Địa ngục, chỉ có người trong cuộc mới biết mà thôi!

Cộng nghiệp thì càng dễ ‘đổ thừa’ hơn nữa vì có lịch sử ghi lại! Tôi đã từng nghe một tỳ kheo phê bình trong một vụ bão lụt miền Tây Việt Nam trong thập kỷ trước là ‘tại vì dân mình nhiều ác nghiệp quá’. Thay vì lấy lòng từ bi để quyên góp tiền bạc giúp đỡ nạn nhân bão lụt, hạ thủ một câu như thế chẳng khác nào đổ lỗi hết cho nạn nhân. Vụ sóng thần gần đây xảy ra ở Nhật cũng có vài vị tăng già lập luận tương tự! Giáo sư David Roy có nhắc đến một nhà sư Phật giáo phê bình biến cố diệt chủng do Đức Quốc Xã gây ra cho dân Do Thái trong thế chiến II là: “Người Do Thái có quá nhiều nghiệp chướng” Thay vì lên án Đức Quốc Xã thì dùng ý niệm ‘nghiệp’ đổ tội cho nạn nhân. Nếu một tỳ kheo tu hành mấy chục năm mà còn hiểu nghiệp như thế thì huống gì Phật tử sơ cơ!

Kinh Kalama, thường được xem nhưhiến chương tự do tư tưởng của Phật giáo, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tuệ giác trong việc nghiên cứu. Đức Phật dạy chúng ta đừng vội tin theo truyền thuyết, hay truyền thống, chỉ chấp nhận cho đến khi nào chúng ta tìm ra kết luận đúng theo tuệ giác. Điều này không có nghĩa là phủ nhận định nghĩa ‘truyền thống’ về nghiệp, nhưng chú trọng đến nhu cầu trí thức của Phật giáoPhật tử hiện đại, nhất là các Phật tử Tây phương, với tinh thần khai sáng, khi tìm hiểu giáo pháp. Nếu quan niệm truyền thống tương phản với tuệ giác của đạo Phật, chúng ta phải có can đảm đặt vấn đề. Đó là tinh thần lời xác nhận của Đức Đạt Lai Lạt Ma khi Ngài nói: “Nếu khoa học chứng minh những điểm nào trong giáo lý phản khoa học, người Phật tử phải có can đảm từ bỏ”. 

Kinh điển Pali giải thích nghiệp như thế nào?

Trong Trung Bộ Kinh (135) Culakammaviblanga Sutra dùng nghiệp để giải thích khác biệt kể cả thể hình xấu đẹp, bất bình đẳng về kinh tế. Tuy nhiên trong các Kinh khác Đức Phật phủ nhận tánh cách tất định về đạo đức của nghiệp, như trong kinh Tinha Sutra (Tăng Chi Bộ Kinh 3.61) Đức Phật cho rằng quan điểm tất định về nghiệp phủ nhận khả năng tu tập tâm linh:

Có những giáo sĩ quan niệm rằng ‘Tất cả những gì một người trải nghiệm hiện nay - lạc thọ, khổ thọ hoặc xả thọ là do những việc làm trong quá khứ.. ”Nếu một kẻ sát nhân…, trộm cắp, bất lương, nói dối, tham lam… là do những việc làm trong quá khứ chính yếu gây ra, người này sẽ không mong muốn tu tập tâm linh “nên làm việc này, không nên làm việc này” Nếu không biết đâu là việc thiện nên làm, việc ác không nên làm, người đó sẽ hoang mang và không được bảo vệ. Những người chủ trương như thế không thể được xem như người giáo sĩ.”

Trong một kinh ngắn khác (Nipata 36.21) có một nhà tu khổ hạnh Shivaka đến chất vấn trực tiếp Đức Phật: “nếu có người chủ trương là một người trải nghiệm lạc thọ, hay khổ thọ hay xả thọ là do những việc làm của họ ở quá khứ. Đức Cồ Đàm nghĩ như thế nào về giáo thuyết này?;

Đức Phật trả lời như sau: Nếu những người tu khổ hạnh hay giáo sĩ Bà La Môn chủ trương rằng bất cứ một người nào trải nghiệm lạc thọ, khổ thọ hay xả thọ là do những hành vi trong quá khứ gây ra, những người này đã đi quá mứctrí tuệ của họ cho phép và không đúng với sự thực. Cho nên ta nói là quan điểm này của những tu sĩ khổ hạnh hay giáo sĩ Bà La Môn đã sai lầm. *(dẫn theo David Loy, Notes for a Buddhist Revolution, tr 59)

Câu trả lời này rất gần với thái độ ‘bất khả tri’ của Khổng tử và tuy không đủ yếu tố cho chúng ta so sánh với các kinh Pali đầu tiên để có một giải thích chính xác về nghiệp.

Nghiệp trong Sanskrit hay Pali có nghĩa là hành động. Định nghĩa nghiệp có ba phần: Ý nghiệp (Động lực) khẩu nghiệp (biểu lộ động lực bằng lời nói) và thân nghiệp (biểu lộ ý định bằng hành động). Một hành động đưa ra thế nào cũng gây ra hậu quả. Thiền sư Jack Kornfield nói đùa là “ nghiệp có thể hiểu một cách giản dị là không ai có thể ăn quỵt được!” Hay nói như một ngạn ngữ Việt Nam là “có vay có trả”.

Nhà Tâm phân học Erich From có một nhận xét về Freud là, dù Freud là một nhà tư tưởng sáng tạo vĩ đại, nhưng Freud không thể tự mình đứng lên vai mình. Các nhà tư tưởng này muốn truyền đạt cho người đồng thời họ cũng phải suy nghĩ bằng ngôn ngữ, lô gích, những nề nếp tư duy, những cách diễn đạt trong văn hóa của mình. Kết quả là tư tưởng do nhà tư tưởng phối hợp những nét ‘truyền thống’ với những nét sáng tạo của chính mình, Khổng tử cũng chỉ dám nói tư tưởng mình là ‘tập đại thành’, một thứ ‘bình cũ rượu mới’. Nguyên tắc duyên khởi cũng không nói gì khác hơn: nếu khôngtư tưởng truyền thống Ấn độ cũng không có giáo pháp Phật. Giáo pháp của Đức Phậtphản ứng lại triết học Ấn độ đương thời, không thể tự trên trời rơi xuống. Kính trọng Đức Phật không có nghĩa là dùng ý niệm trong các tôn giáo độc thần khoác lên vai Phật, như Chân, Thiện, Mỹ, toàn trí, toàn năng.

Ý niệm nghiệp và luân hồi có sẵn trong triết lý Bà La Môn và các tôn giáo Ấn khác lúc bây giờ, nếu hiểu theo ý hướng ‘tất định’, giáo pháp không còn là tư tưởng sáng tạo (hay có thể nói là ‘cách mạng’ so với Ấn giáo). Những câu như tự mình thắp đuốc lên mà đi còn có ý nghĩa gì nếu con người trôi giạt trong cái vòng nghiệp bất tận, không có cơ hội giải thoát và chỉ còn trong những giai điệu yếm thế trong Cung Oán Ngâm Khúc. Chưa kể nghiệp còn gắn liền với tái sinh, một ý niệm mà người Phật tử Tây phương, sau thời kỳ khai hóa, đã tỏ ra rất dè dặt và thường chọn thái độ bất khả tri, nếu không chế diễu là ‘lòng tin’ tương tự như tin vào thiên đàng hay hỏa ngục. Các nhà khoa học thân cận với Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng bày tỏ sự nghi ngờ này dù là đã hợp tác với Ngài trong chương trình nghiên cứu khoa học về mối liên hệ Thân Tâm hiện nay ở MIT. Phật giáo Tây tạng cũng ít nhắc đến các câu chuyện huyền bí của các vụ ‘đầu thai’ của các Đức Đạt Lai Lạt Ma như lúc giáo đoàn của Ngài vừa thoát khỏi Tây tạng (sau năm 1949 và vào thập kỷ 50s hay 60s). Trong vài cuộc phỏng vấn, Ngài còn đưa ra một viễn tượng là Ngài có lẽ là Lạt Ma cuối cùng. Đây có phải là dấu hiệu là Ngài đã bị các nhà khoa học thuyết phục?

Một đề nghị giải thích Nghiệp đúng theo tinh thần tuệ giác của Đạo Phật

Kinh Pháp Cú là một bộ kinh được dịch ra tiếng Trung Quốc sớm nhất, có nhấn mạng đến vai trò của tâm:

Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm là chủ, tâm tạo tất cả.
Nếu đem tâm ô nhiễm tạo nghiệp, nói năng hoặc hành động, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo con vật kéo xe.
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tất cả.
Nếu đem tâm thanh tịnh tạo nghiệp, nói năng hoặc hành động, sư vui vẻ sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng với hình (bản dịch của Trí Đức, trang 9)

Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp). Hành động nào cũng gây ra một (hay nhiều) hậu quả (vikapa). Các hiểu nghiệp tất định nhấn mạnh đến ảnh hưởng của hậu quả chúng ta nhận được trong tương lai (tái sinh) do những hành động chúng ta làm trong quá khứ (mà chúng ta không biết). Thay vì nói chuyện kiếp trước hay kiếp sau, chúng ta có thể nói chuyện ở đây hay bây giờ, nghiệp nhắc nhở chúng ta không có một hành động nào mà không gây ra hậu quả, và chúng ta không những quan tâm đến hành động mà còn đến ý nghiệp- thủ phạm chính đưa đến mọi hành động (như kinh Pháp cú xác nhận- như ‘bóng với hình’). Chỉ có giáo lý đạo Phật mới đưa ra những thí dụ về động lực hành động. Luật pháp Tây phương dựa trên triết lý khai sáng của Kant để xác nhận tình trạng nặng hay nhẹ của một hành động phạm pháp (thí dụ như giữa ngộ sát và cố sát). Cách định nghĩa về nghiệp cũng phù hợp với các triết lý đạo đức: Triết lý thực dụng (utilitarian) nhấn mạnh đến hậu quả, nguyên tắc đạo đức nhấn mạnh đến nguyên tắc tổng quát (deontology) và động lực đến xác định giá trị một hành động và lý do hành động (virtue theories). Phần lớn tôn giáo như đoàn thể Tăng già chú trọng đến nghi lễ (Ritualistic procedures- như Giới trong đạo Phật).

Triết lý vô ngã của đạo Phật được các nhà tâm lý hiện đại tiếp nhận niềm nởtương hợp với ký thuyết cơ cấu hậu hiện đại: ngã thực ra chỉ là một tâm hành tái cấu trúc từ thói quen, tập quán và tùy theo hoàn cảnh có một “I” và nhiều cái tôi nho nhỏ khác (me, me, mes). Quá trình cấu trúc ngã được tóm gọn trong một bài kệ nhỏ như sau:

Gieo một ý nghiệp thì gặt một thân nghiệp
Gieo một thân nghiệp thì gặt một thói quen
Gieo một thói quen thì gặt một bản chất
Gieo một bản chất thì gặt được một số phận.
Những gì tôi do ý nghĩ của tôi thúc đẩy (ý nghiệp)
Phản ứng, hành động lập lại nhiều lần trở thành một thói quen
Thói quen suy nghĩ, hành động, cảm thọ sẽ được xem như là ‘bản tính’
‘Bản tính’ sẽ được tôi xem là ‘ngã’ (loại người của tôi) (hiền, dữ, hay giận, hiền hòa, hướng nội, hướng ngoại…)

Những gì tôi làm không hoàn toàn quyết định những gì sẽ xảy ra cho tôi, những gì xảy ra trong cuộc đời tôi tùy cách phản ứng của tôi trong hoàn cảnh khác nhau. Đó là ý nghĩa câu nói của Sartre: Tôi là tổng hợp những gì tôi làm. Không có cái gọi là bản tính bẩm sinh (ngã) mà ngã chỉ là kết hợp bởi những hành động của tôi. Nếu kết luận :”Tính tôi như thế” là một thái độ ù lì và sẽ không có chuyện ‘tu tâm dưỡng tánh’. Sự hiểu biết về nghiệp không nhất thiết liên hệ đến một kiếp khác sau khi thân thể bị hủy hoại. Tu tâm sửa tánh để thành một loại người khác chúng ta sẽ trãi nghiệm thế giới một cách khác. Khi tâm tính thay đổi thế giới bên ngoài sẽ phản ứng với chúng ta một cách khác. 

Giáo pháp của Đức Phật phần lớn nhấn mạnh đến động lực (motivations- ý nghiệp). Tinh yếu đạo đức của người theo đạo Phật chỉ gồm cóBa điều: làm điều thiện, tránh làm điều ác, thanh lọc tâm ý.

Gần đây có một nhan đề trên Giác Ngộ mà tôi rất vừa ý: Đem nhân gian vào Đạo Phật. Biến đạo Phật thành một tôn giáo của người sống. Tạm thời quên chuyện kiếp trước hay kiếp sau như thái độ của những người agnostic ở Tây phương. Trong kiếp này chúng ta chỉ cần thực hiện 3 điều căn yếu: làm điều thiện, tránh làm điều ác và nhất là thanh lọc tâm ý.

Quán Như Phạm Văn Minh

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8466)
Bản Chất của Hạnh Phúc được trích từ tác phẩm Nghệ Thuật Sống Hạnh Phúc: Cẩm Nang cho Đời Sống, một quyển sách căn cứ trên sự mở rộng những đối thoại giửa Đức Đạt Lai Lạt MaBác sĩ Howard C. Cutter, một nhà tâm lý trị liệu phương Tây.
(Xem: 8004)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7735)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6949)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13820)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7550)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9308)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7843)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7760)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7337)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7731)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7468)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8666)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 11071)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15421)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19199)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14884)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8827)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8830)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14650)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15275)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8527)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 10970)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11325)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8716)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9074)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19756)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24664)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8806)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9137)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10798)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 9010)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7915)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8804)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8296)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7304)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 11128)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7375)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8280)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17636)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44205)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45485)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 45049)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10617)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8552)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7563)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7581)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7373)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12104)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 7919)
Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa?
(Xem: 8421)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9171)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 8104)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8898)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 7999)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8180)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8684)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16343)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
(Xem: 7146)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
(Xem: 6931)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant