Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những vấn nạn của Phật tử Tây phương về nghiệp và tái sinh

01 Tháng Năm 201200:00(Xem: 18031)
Những vấn nạn của Phật tử Tây phương về nghiệp và tái sinh
NHỮNG VẤN NẠN CỦA PHẬT TỬ TÂY PHƯƠNG
VỀ NGHIỆP VÀ TÁI SINH

Quán Như Phạm Văn Minh

Trong khi những tinh yếu của giáo lý Phật giáo như bất bạo động, duyên khởi (sinh môi), vô ngã (tâm lý học hiện đại), vô thường (Thuyết tương đối)… được Tây phương tiếp nhận niềm nở vì khế hợp với những khám phá khoa học hiện đại, những giải thích về nghiệp báotái sinh gây ra những khó khăn về nhận thức luận cho các Phật tử Tây phương.

Trong Ba nguyên tắc để kiểm chứng ‘chánh pháp’, thường gọi là ‘Tam Pháp Ấn’ không có ‘nghiệp’ và ‘tái sinh’, tuy nhiên đối với Phật tử Á châu, nghiệp và tái sinh đồng nghĩa với ‘Phật giáo’. Không thể ‘có’ Phật giáo nếu khôngý niệm nghiệp. Nghĩa là không ai có thể tự gọi mình là Phật tử nếu không chấp nhận hay tin lý thuyết ‘Nghiệp’.

Trong khi về Vật lý, định luật do Newton khám phá ra được khoa học chấp nhận như định luật khách quantất định của vũ trụ. Tuy nhiên cho đến nay khoa học vẫn ‘chưa khám phá’ ra những đạo luật ‘luân lý’ khách quan và tất định ban thưởng hay trừng phạt những hành vi thiện ác. Có một cơ chế ‘khách quan’ nào ban thưởng những người làm lành và trừng phạt những người ác? Trong khi các tôn giáo độc thần đưa ra hình ảnh một ‘thượng đế’ cầm sổ ‘ghi chép’ những hành vi thiện ácban thưởng người này lên Thiên đàng hay trừng phạt người khác xuống hỏa ngục, giáo lý duyên khởi của Phật giáo phủ nhận toàn triệt một nhân vật như thế. Ai là ‘phán quan’ giữ sổ “đậu đen đậu trắng’ để thưởng phạt? Triết lý khai sáng và khoa học đã khai tử nhân vật gọi là ‘Thượng đế’ từ thế kỷ 18. Nietsche đã khai tử thượng đế và kết tội Thượng đế là một ý niệmlừa bịp vĩ đại nhất từ 2000 năm qua’. Các thành phần tôn giáo quá khích chỉ còn một cách nói ‘đó là lòng tin của tôi’ và dĩ nhiênlòng tin’vấn đề cá nhân không ai có thể ‘truyền thông’ cho người khác được, trừ khi có ‘diễm phúc’ được ‘Chúa’ chọn lựa!

Một số người Tây phương cuồng tín (fundamentists) do đó hoặc là ‘bám víu’ vào ‘lòng tin’ phản khoa học này, hoặc chấp nhận thái độ ‘bất khả tri’ (agnostics), như Khổng Tử ngày xưa né tránh trả lời những câu hỏi về siêu hình ‘yên sự sinh, năng sự tử’, ‘quỷ thần kính nhi viễn chi’, hay quyết liệt hơn chấp nhận thái độ vô thần (atheists). Thành phần ‘bất khả tri’ và ‘vô thần’ hiện nay trong xã hội Tây phương nếu không bằng thì cũng nhiều hơn những người ‘tin’ mù quáng vào Chúa hiện hữu bằng xương bằng thịt, nghĩa là xã hội Tây phương càng ngày càng bị thế tục hóa.

Những giải thích về Nghiệp

Giải thích thông thường về Nghiệp là nếu ‘đời này’ chúng ta hạnh phúc hay đau khổ là do kết quả của những hành động của chúng ta trong quá khứ (đời trước), biệt nghiệp - hay định nghiệp của mỗi người. Kinh điển Pali giải thích điểm này không giống nhau. Các kinh điển Pali đầu tiên phần lớn nghiêng về cách giải thích theo tính cách tất định của nghiệp. Một trong những hậu quả do lối giải thích này là hố ngăn cách giữa Tăng giàcư sĩ trong các nước Phật giáo Á Châu. Tăng già ‘kiếp trước’ tích lũy đầy đủ nghiệp ‘tốt’ để kiếp này được sinh làm tỳ kheo, theo bước chân Phật; còn cư sĩ ‘kiếp trước’ tạo nhiều nghiệp ‘chướng’ nên kiếp này còn bận bịu thê nhi và bổn phận của cư sĩhỗ trợ Tăng già trên con đường hành trì và sẽ được tích tụ ‘công đức’, may ra ‘kiếp sau’ được ‘tái sinh’ vào một giai cấp khá hơn hay có đủ thiện nghiệpcông đức để thành ‘trưởng tử như lai’ trong kiếp sau. Kinh điển Pali chỉ ghi lại bằng chữ viết 5 thế kỷ sau khi Đức Phật nhập diệt, cách giải thích này thuận lợi cho giáo đoàn tăng già ‘nguyên thủy’ nên có lẽ họ không bận tâm đưa ra những giải thích khác. Trong giai đoạn suy thoái của Phật giáo Thái, nhiệm vụ chính của các nhà sư là ‘bán công đức’ cho các gia đình giàu có, dù không ai chắc rằng các vị sư này thật sự có công đức để ‘cho’ hay ‘bán’ hay không và hậu quảPhật giáo bị kết tội là ‘chủ nghĩa tâm linh vật chất’, nghĩa là các tăng già loại này đem giáo pháp của Đức Phật ra buôn bán lấy tiền. Công đức giống như ‘tiền’ gởi nhà băng, khi nào cần thì đem ra xài hay mua thêm công đức! Phật giáo Đại thừa rộng rãi hơn, khi làm công đức thì không cần tích lũy hay đem ‘bán’ hay cho người khác, mà hồi hướng cho tất cả chúng sinh để tất cả đều thành ‘Phật Đạo’.

Tình trạng lẩn quẩn là các tăng sĩ buôn bán công đức kiểu này ở Thái đi các xe mắc tiền và càng đi xe mắc tiền chừng nào, chứng tỏ họ ‘ăn khách’ vì ‘có nhiều công đức’ để cho hay bán và thay vì dùng thì giờ để ‘pháp’ thí, các nhà sư ‘thời hội nhập’ này tìm mọi thủ đoạn ‘tiếp thị’ để bán công đức cho các đệ tử ‘giàu có’, đổ xô cúng dường để mua công đức! Tình trạngcư sĩ Sulak Sivaraksa gọi là từ ‘hoa sen’ sang ‘bàn tay quỷ’ của kinh tế thị trường. 

Định nghĩa nghiệp theo kiểu này có thể dùng để biện chính cho chế độ đẳng cấp khắc nghiệt ở Ấn (như Gandhi đã dùng trong cuộc tranh luận với Ambedkar), bất công kinh tế, giàu nghèo, xấu đẹp, đều đem nghiệp ra để biện chính, Nghiệp thành một nguyên tắc ‘đạo đức tất định’ và định nghĩa nghiệp theo kiểu này đúng với tinh thần của Ba La Môn giáo hơn là Phật giáo. Có gì bất hạnh xảy ra chỉ cần chép miệng hay xoa tay: ‘Nghiệp mà!’. Vì chuyện xảy ra ở kiếp khác nên không ai kiểm chứng được, cũng giống như lòng tin được Chúa rước lên Thiên đàng hay đẩy xuống Địa ngục, chỉ có người trong cuộc mới biết mà thôi!

Cộng nghiệp thì càng dễ ‘đổ thừa’ hơn nữa vì có lịch sử ghi lại! Tôi đã từng nghe một tỳ kheo phê bình trong một vụ bão lụt miền Tây Việt Nam trong thập kỷ trước là ‘tại vì dân mình nhiều ác nghiệp quá’. Thay vì lấy lòng từ bi để quyên góp tiền bạc giúp đỡ nạn nhân bão lụt, hạ thủ một câu như thế chẳng khác nào đổ lỗi hết cho nạn nhân. Vụ sóng thần gần đây xảy ra ở Nhật cũng có vài vị tăng già lập luận tương tự! Giáo sư David Roy có nhắc đến một nhà sư Phật giáo phê bình biến cố diệt chủng do Đức Quốc Xã gây ra cho dân Do Thái trong thế chiến II là: “Người Do Thái có quá nhiều nghiệp chướng” Thay vì lên án Đức Quốc Xã thì dùng ý niệm ‘nghiệp’ đổ tội cho nạn nhân. Nếu một tỳ kheo tu hành mấy chục năm mà còn hiểu nghiệp như thế thì huống gì Phật tử sơ cơ!

Kinh Kalama, thường được xem nhưhiến chương tự do tư tưởng của Phật giáo, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tuệ giác trong việc nghiên cứu. Đức Phật dạy chúng ta đừng vội tin theo truyền thuyết, hay truyền thống, chỉ chấp nhận cho đến khi nào chúng ta tìm ra kết luận đúng theo tuệ giác. Điều này không có nghĩa là phủ nhận định nghĩa ‘truyền thống’ về nghiệp, nhưng chú trọng đến nhu cầu trí thức của Phật giáoPhật tử hiện đại, nhất là các Phật tử Tây phương, với tinh thần khai sáng, khi tìm hiểu giáo pháp. Nếu quan niệm truyền thống tương phản với tuệ giác của đạo Phật, chúng ta phải có can đảm đặt vấn đề. Đó là tinh thần lời xác nhận của Đức Đạt Lai Lạt Ma khi Ngài nói: “Nếu khoa học chứng minh những điểm nào trong giáo lý phản khoa học, người Phật tử phải có can đảm từ bỏ”. 

Kinh điển Pali giải thích nghiệp như thế nào?

Trong Trung Bộ Kinh (135) Culakammaviblanga Sutra dùng nghiệp để giải thích khác biệt kể cả thể hình xấu đẹp, bất bình đẳng về kinh tế. Tuy nhiên trong các Kinh khác Đức Phật phủ nhận tánh cách tất định về đạo đức của nghiệp, như trong kinh Tinha Sutra (Tăng Chi Bộ Kinh 3.61) Đức Phật cho rằng quan điểm tất định về nghiệp phủ nhận khả năng tu tập tâm linh:

Có những giáo sĩ quan niệm rằng ‘Tất cả những gì một người trải nghiệm hiện nay - lạc thọ, khổ thọ hoặc xả thọ là do những việc làm trong quá khứ.. ”Nếu một kẻ sát nhân…, trộm cắp, bất lương, nói dối, tham lam… là do những việc làm trong quá khứ chính yếu gây ra, người này sẽ không mong muốn tu tập tâm linh “nên làm việc này, không nên làm việc này” Nếu không biết đâu là việc thiện nên làm, việc ác không nên làm, người đó sẽ hoang mang và không được bảo vệ. Những người chủ trương như thế không thể được xem như người giáo sĩ.”

Trong một kinh ngắn khác (Nipata 36.21) có một nhà tu khổ hạnh Shivaka đến chất vấn trực tiếp Đức Phật: “nếu có người chủ trương là một người trải nghiệm lạc thọ, hay khổ thọ hay xả thọ là do những việc làm của họ ở quá khứ. Đức Cồ Đàm nghĩ như thế nào về giáo thuyết này?;

Đức Phật trả lời như sau: Nếu những người tu khổ hạnh hay giáo sĩ Bà La Môn chủ trương rằng bất cứ một người nào trải nghiệm lạc thọ, khổ thọ hay xả thọ là do những hành vi trong quá khứ gây ra, những người này đã đi quá mứctrí tuệ của họ cho phép và không đúng với sự thực. Cho nên ta nói là quan điểm này của những tu sĩ khổ hạnh hay giáo sĩ Bà La Môn đã sai lầm. *(dẫn theo David Loy, Notes for a Buddhist Revolution, tr 59)

Câu trả lời này rất gần với thái độ ‘bất khả tri’ của Khổng tử và tuy không đủ yếu tố cho chúng ta so sánh với các kinh Pali đầu tiên để có một giải thích chính xác về nghiệp.

Nghiệp trong Sanskrit hay Pali có nghĩa là hành động. Định nghĩa nghiệp có ba phần: Ý nghiệp (Động lực) khẩu nghiệp (biểu lộ động lực bằng lời nói) và thân nghiệp (biểu lộ ý định bằng hành động). Một hành động đưa ra thế nào cũng gây ra hậu quả. Thiền sư Jack Kornfield nói đùa là “ nghiệp có thể hiểu một cách giản dị là không ai có thể ăn quỵt được!” Hay nói như một ngạn ngữ Việt Nam là “có vay có trả”.

Nhà Tâm phân học Erich From có một nhận xét về Freud là, dù Freud là một nhà tư tưởng sáng tạo vĩ đại, nhưng Freud không thể tự mình đứng lên vai mình. Các nhà tư tưởng này muốn truyền đạt cho người đồng thời họ cũng phải suy nghĩ bằng ngôn ngữ, lô gích, những nề nếp tư duy, những cách diễn đạt trong văn hóa của mình. Kết quả là tư tưởng do nhà tư tưởng phối hợp những nét ‘truyền thống’ với những nét sáng tạo của chính mình, Khổng tử cũng chỉ dám nói tư tưởng mình là ‘tập đại thành’, một thứ ‘bình cũ rượu mới’. Nguyên tắc duyên khởi cũng không nói gì khác hơn: nếu khôngtư tưởng truyền thống Ấn độ cũng không có giáo pháp Phật. Giáo pháp của Đức Phậtphản ứng lại triết học Ấn độ đương thời, không thể tự trên trời rơi xuống. Kính trọng Đức Phật không có nghĩa là dùng ý niệm trong các tôn giáo độc thần khoác lên vai Phật, như Chân, Thiện, Mỹ, toàn trí, toàn năng.

Ý niệm nghiệp và luân hồi có sẵn trong triết lý Bà La Môn và các tôn giáo Ấn khác lúc bây giờ, nếu hiểu theo ý hướng ‘tất định’, giáo pháp không còn là tư tưởng sáng tạo (hay có thể nói là ‘cách mạng’ so với Ấn giáo). Những câu như tự mình thắp đuốc lên mà đi còn có ý nghĩa gì nếu con người trôi giạt trong cái vòng nghiệp bất tận, không có cơ hội giải thoát và chỉ còn trong những giai điệu yếm thế trong Cung Oán Ngâm Khúc. Chưa kể nghiệp còn gắn liền với tái sinh, một ý niệm mà người Phật tử Tây phương, sau thời kỳ khai hóa, đã tỏ ra rất dè dặt và thường chọn thái độ bất khả tri, nếu không chế diễu là ‘lòng tin’ tương tự như tin vào thiên đàng hay hỏa ngục. Các nhà khoa học thân cận với Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng bày tỏ sự nghi ngờ này dù là đã hợp tác với Ngài trong chương trình nghiên cứu khoa học về mối liên hệ Thân Tâm hiện nay ở MIT. Phật giáo Tây tạng cũng ít nhắc đến các câu chuyện huyền bí của các vụ ‘đầu thai’ của các Đức Đạt Lai Lạt Ma như lúc giáo đoàn của Ngài vừa thoát khỏi Tây tạng (sau năm 1949 và vào thập kỷ 50s hay 60s). Trong vài cuộc phỏng vấn, Ngài còn đưa ra một viễn tượng là Ngài có lẽ là Lạt Ma cuối cùng. Đây có phải là dấu hiệu là Ngài đã bị các nhà khoa học thuyết phục?

Một đề nghị giải thích Nghiệp đúng theo tinh thần tuệ giác của Đạo Phật

Kinh Pháp Cú là một bộ kinh được dịch ra tiếng Trung Quốc sớm nhất, có nhấn mạng đến vai trò của tâm:

Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm là chủ, tâm tạo tất cả.
Nếu đem tâm ô nhiễm tạo nghiệp, nói năng hoặc hành động, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo con vật kéo xe.
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tất cả.
Nếu đem tâm thanh tịnh tạo nghiệp, nói năng hoặc hành động, sư vui vẻ sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng với hình (bản dịch của Trí Đức, trang 9)

Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp). Hành động nào cũng gây ra một (hay nhiều) hậu quả (vikapa). Các hiểu nghiệp tất định nhấn mạnh đến ảnh hưởng của hậu quả chúng ta nhận được trong tương lai (tái sinh) do những hành động chúng ta làm trong quá khứ (mà chúng ta không biết). Thay vì nói chuyện kiếp trước hay kiếp sau, chúng ta có thể nói chuyện ở đây hay bây giờ, nghiệp nhắc nhở chúng ta không có một hành động nào mà không gây ra hậu quả, và chúng ta không những quan tâm đến hành động mà còn đến ý nghiệp- thủ phạm chính đưa đến mọi hành động (như kinh Pháp cú xác nhận- như ‘bóng với hình’). Chỉ có giáo lý đạo Phật mới đưa ra những thí dụ về động lực hành động. Luật pháp Tây phương dựa trên triết lý khai sáng của Kant để xác nhận tình trạng nặng hay nhẹ của một hành động phạm pháp (thí dụ như giữa ngộ sát và cố sát). Cách định nghĩa về nghiệp cũng phù hợp với các triết lý đạo đức: Triết lý thực dụng (utilitarian) nhấn mạnh đến hậu quả, nguyên tắc đạo đức nhấn mạnh đến nguyên tắc tổng quát (deontology) và động lực đến xác định giá trị một hành động và lý do hành động (virtue theories). Phần lớn tôn giáo như đoàn thể Tăng già chú trọng đến nghi lễ (Ritualistic procedures- như Giới trong đạo Phật).

Triết lý vô ngã của đạo Phật được các nhà tâm lý hiện đại tiếp nhận niềm nởtương hợp với ký thuyết cơ cấu hậu hiện đại: ngã thực ra chỉ là một tâm hành tái cấu trúc từ thói quen, tập quán và tùy theo hoàn cảnh có một “I” và nhiều cái tôi nho nhỏ khác (me, me, mes). Quá trình cấu trúc ngã được tóm gọn trong một bài kệ nhỏ như sau:

Gieo một ý nghiệp thì gặt một thân nghiệp
Gieo một thân nghiệp thì gặt một thói quen
Gieo một thói quen thì gặt một bản chất
Gieo một bản chất thì gặt được một số phận.
Những gì tôi do ý nghĩ của tôi thúc đẩy (ý nghiệp)
Phản ứng, hành động lập lại nhiều lần trở thành một thói quen
Thói quen suy nghĩ, hành động, cảm thọ sẽ được xem như là ‘bản tính’
‘Bản tính’ sẽ được tôi xem là ‘ngã’ (loại người của tôi) (hiền, dữ, hay giận, hiền hòa, hướng nội, hướng ngoại…)

Những gì tôi làm không hoàn toàn quyết định những gì sẽ xảy ra cho tôi, những gì xảy ra trong cuộc đời tôi tùy cách phản ứng của tôi trong hoàn cảnh khác nhau. Đó là ý nghĩa câu nói của Sartre: Tôi là tổng hợp những gì tôi làm. Không có cái gọi là bản tính bẩm sinh (ngã) mà ngã chỉ là kết hợp bởi những hành động của tôi. Nếu kết luận :”Tính tôi như thế” là một thái độ ù lì và sẽ không có chuyện ‘tu tâm dưỡng tánh’. Sự hiểu biết về nghiệp không nhất thiết liên hệ đến một kiếp khác sau khi thân thể bị hủy hoại. Tu tâm sửa tánh để thành một loại người khác chúng ta sẽ trãi nghiệm thế giới một cách khác. Khi tâm tính thay đổi thế giới bên ngoài sẽ phản ứng với chúng ta một cách khác. 

Giáo pháp của Đức Phật phần lớn nhấn mạnh đến động lực (motivations- ý nghiệp). Tinh yếu đạo đức của người theo đạo Phật chỉ gồm cóBa điều: làm điều thiện, tránh làm điều ác, thanh lọc tâm ý.

Gần đây có một nhan đề trên Giác Ngộ mà tôi rất vừa ý: Đem nhân gian vào Đạo Phật. Biến đạo Phật thành một tôn giáo của người sống. Tạm thời quên chuyện kiếp trước hay kiếp sau như thái độ của những người agnostic ở Tây phương. Trong kiếp này chúng ta chỉ cần thực hiện 3 điều căn yếu: làm điều thiện, tránh làm điều ác và nhất là thanh lọc tâm ý.

Quán Như Phạm Văn Minh

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15518)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13207)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19360)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24623)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15741)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37829)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13479)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13097)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17181)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13205)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17388)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21638)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13219)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14405)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12815)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13656)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28617)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23399)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34382)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28884)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32186)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11329)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12003)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26290)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17375)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14524)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34479)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13112)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12279)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13412)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40514)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26941)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14461)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13255)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13462)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12538)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13151)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12314)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11791)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12573)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17663)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12207)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12754)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18437)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14290)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12995)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11323)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12151)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13467)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10836)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11074)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10289)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28899)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25283)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26851)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25769)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18675)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23038)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34545)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32185)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant