Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phỉ báng bậc thánh

09 Tháng Năm 201200:00(Xem: 15750)
Phỉ báng bậc thánh
PHỈ BÁNG BẬC THÁNH
Toàn Không

phibangbacthanh-toankhong-content1)- TỲ KHEO CÙ BA LY:

 Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa:

- Thưa Thế Tôn, hai Tỳ Kheo Xá Lợi PhấtMục Kiền Liên tạo các ác hạnh, làm các việc ác.

 Đức Phật nghe rồi bảo Tỳ Kheo Cù Ba Ly:

- Chớ nói thế, Thầy hãy phát tâm vui vẻ đối với Như Lai, Tỳ Kheo Xá Lợi PhấtMục Kiền Liên làm việc thuần thiện, không có điều ác.

 Tỳ Kheo Cù Ba Ly nói lần thứ hai cũng như thế và đức Phật cũng trả lời như thế, lần thứ ba Tỳ Kheo Cù Ba Ly bạch Phật:

- Như Lai nói thật, không có hư dối, nhưng Tỳ Kheo Xá Lợi PhấtMục Kiền Liên việc làm rất ác, không có gốc lành.

 Đức Phật bảo:

- Thầy là người ngu si, chẳng tin lời Như Lai mới nói Tỳ Kheo Xá Lợi PhấtMục Kiền Liên việc làm rất ác, không có gốc lành; nay Thầy tạo ác khẩu này, không lâu sẽ chịu quả báo.

 Lúc ấy, Tỳ Kheo Cù Ba Ly cúi đầu lễ Phật rồi lui đi; không bao lâu sau thân mọc mụn nhọt, trước nhỏ như hạt cải, sau lớn dần bằng hạt đậu, hột ngô, rồi to dần bằng đầu ngón tay ngón chân cái, tới bằng quả đào, bằng nắm tay. Máu mủ chảy ra, đau đớn khổ sở rên rỉ “nóng quá, nóng quá!” kêu than đau đớn cho tới khi chết!

 Đêm ấy có 2 vị Trời đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật, rồi vị thứ nhất thưa:

- Cù Ba Ly đã chết rồi.

 Vị thứ hai nói:

- Cù Ba ly chết rồi vào địa ngục.

 Tôn Giả Mục Kiền Liên nghe sự việc như thế và nghe Cù Ba Ly qua đời chưa được bao lâu, liền đến chỗ đức Phật, cúi lạy rồi bạch:

- Thưa Thế Tôn, Cù Ba Ly chết rồi sinh về đâu?

 Đức Phật nói:

- Người đó sinh trong địa ngục Hoa Sen (có cách ghi địa ngục Bát Đàm Ma).

 Tôn Giả thưa:

- Nay con muốn đến đó giáo hóa Cù Ba Ly.

 Đức Phật bảo:

- Thầy chẳng cần đến đó.

 Tôn Giả Mục Kiền Liên lại thưa:

- Con muốn đến đó giáo hóa Thầy ấy.

 Đức Phật im lặng không đáp; Tôn Giả Mục Kiền Liên tại chỗ ngồi liền biến mất, từ vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ liền đến đại địa ngục Hoa Sen. Ngay lúc ấy, Tôn Giả trông thấy có tội nhân đang bị lửa đốt, lại có trăm con trâu đang cày trên lưỡi; Tôn giả hỏi Quỷ tốt, thì được biết đó chính là Cù Ba Ly.

 Tôn Giả Mục Kiền Liên ngồi kiết già trong hư không, búng ngón tay làm cho lửa tắt trâu ngừng và Cù Ba Ly tỉnh lại. Tôn Giả nói:

- Hãy nhìn đây, Cù Ba Ly.

 Cu Ba Ly ngước lên hỏi:

- Ông là ai?

 Tôn Giả đáp:

- Cù Ba Ly, ta là đệ tử Phật Thích Ca, tên Mục Kiền Liên.

 Lúc ấy Cù Ba Ly trông thấy Tôn Giả Mục Kiền Liên, liền thốt lên lời ác:

- Nay tôi đang bị khổ này vẫn không thoát khỏi thấy ông sao?

 Cù Ba Ly vừa nói xong, lửa lại bùng lên đốt, có nghìn con trâu cày trên lưỡi; Tôn Giả thấy thế tăng thêm buồn rầu, sinh lòng hối hận, liền biến mất khỏi địa ngục ấy trở về chỗ đức Phật cúi lạy xong đem nhân duyên ấy thưa lại, Ngài bảo:

- Trước Ta đã nói: “Chẳng cần đến gặp kẻ ấy”.

 Rồi đức Phật nói kệ:

Người sinh ở thế gian,
Búa rìu từ trong miệng,
Trở lại chém thân mình,
Do những lời nói ác.
Đáng chê đổi thành khen,
Đáng khen thì lại chê,
Tội ấy sinh bởi miệng,
Chết rơi vào địa ngục.

 Đức Phật bảo tứ chúng:

- Hãy học ba pháp để thành tựu hạnh của mình. Đó là: Thân làm lành, miệng nói lành, ý nghĩ lành; các Ông hãy học điều này.

LỜI BÀN:

 Bài kinh ngắn trên đây nói về câu chuyện Tỳ Kheo Cù Ba Ly nói xấu hai Tôn Giả Xá Lợi PhấtMục Kiền Liên, đức Phật bảo không phải như vậy, nhưng Cù Ba Ly nhắc đi nhắc lại ba lần như thế. Cuối cùng, đức Phật bảo Tỳ Kheo Cù Ba Ly là ngu si không tin lời Phật, đã nhất quyết nói hai Tỳ Kheo Xá Lợi PhấtMục Kiền liên làm việc làm rất ác, không có gốc lành. Rồi đức Phật thọ ký: “Nay Thầy tạo ác khẩu, không bao lâu nữa sẽ chịu quả báo”.

 Ngay khi đức Phật nói xong, nếu Tỳ Kheo Cù Ba Ly hiểu lời Ngài nói mà xin sám hối thì chắc chắn đức Phật sẽ tha tội cho, nhưng vì u mê nên đã làm thinh, chỉ lễ lạy rồi lui đi.

 Một điểm cần để ýTỳ Kheo Cù Ba Ly đã không nói rõ hai Tỳ Kheo Xá Lợi PhấtMục Kiền Liên đã làm việc gì ác, mà chỉ nói: “việc làm rất ác, không có gốc lành”, nghĩa là Tỳ Kheo Cù Ba Ly đã không nêu lên việc làm ác một cách cụ thể.

 Sự việc là do Cù Ba Ly thuộc nhóm Đề Bà Đạt Đa chia rẽ Tăng đoàn, mưu hại Phật, cấu kết nhau tham lợi dưỡng của Vua A Xà Thế, bị Tôn giả Xá Lợi Phất một lần đến cảnh cáo, và một lần khác cùng Tôn giả Mục Kiền Liên đến chỗ Đề Bà Đạt Đa mang một số Tỳ Kheo của phe Đề Bà Đạt Đa bay lên không đi mất.

 Thiết nghĩ, Tỳ Kheo Cù Ba Ly là người có tâm thù hằn vì không hiểu, cố chấp quan điểm của mình, nên dù có bị bệnh khổ sở đến chết cũng không làm cho tỉnh ngộ được sự lỗi lầm; giả thử khi đang bị bệnh ung nhọt ngặt nghèo mà Tỳ Kheo Cù Ba Ly tỉnh mê đến xin đức Phật cho sám hối tội lỗi, thì vẫn còn cứu vãn được vậy.

 

2) – SA DI QUÂN ĐỀ:

 Bấy giờ, tại nước Ba La Nại có một Thừa Tướng rất gàu có, nhưng tới 80 tuổi mới sinh được bé trai khôi ngô tuấn tú đặt tên là Quân Đề, cha mẹ rất yêu thương chăm sóc đầy đủ. Đến năm Quân Đề được 10 tuổi, cha mẹ tìm đến chỗ đức Phật Thích Ca Mâu Ni tại núi Kỳ Xà Quật nước Ma Kiệt, khi gặp Phật, sau khi vái lễ xong, người cha nói:

- Xin Thế Tôn cho Quân Đề được theo Ngài tu hành, vì tới già con mới sinh được một đứa con trai, kính mong Ngài nhận cho Quân Đề được nhập đạo.

 Đức Phật nói:

- Hay thay, hay thay Sa Di!

 Đức Phật vừa nói xong, tự nhiên tóc Quân Đề rụng hết, đức Phật bảo Tôn giả A Nan thị giả của Ngài đưa áo Cà Sa cho, Quân Đề mặc vào tức thì; rồi Ngài nói pháp cho Quân Đề nghe, chỉ bày dạy bảo, Sa Di Quân Đề sinh lòng vui mừng, liền chứng đạo quả, tức thì giải thoát.

 Bấy giờ, mọi người đều ngạc nhiên thắc mắc, Tôn giả A Nan Đà liền đứng dậy vái Phật rồi thưa:

- Bạch đức Thế Tôn, Sa Di Quân Đề quá khứ làm công đức gì mà nay vừa được gặp Thế Tôn chẳng được bao lâu đã chứng quả, sao mau chóng quá vậy?

 Đức Phật bảo:

- Sa Di Quân Đề không phải hôm nay mới tu hành mà được như vậy đâu, kết quả của ngày hôm nay là do đời quá khứ đã từng cúng dường cha mẹchúng Tăng, và đã từng tu các công đức từ lâu đời rồi.

 Rồi đức Phật nói tiếp: Về đời quá khứ xa xưa, sau khi đức Phật Tỳ Bà Thi (Cách nay 91 kiếp = khoảng 6.5 tỷ năm) diệt độ, trong thời chính pháp, có một Tỳ Kheo trẻ, thông suốt ba Tạng Kinh điển A Tỳ Đàm, Tỳ Ni, Tu Đà La. Tỳ Kheo này có diện mạo đẹp đẽ, tiếng nói trong trẻo, thông minh, tài giỏi nên từ Vua Quan đến nhân dân ai cũng biết và ca ngợi.

 Lúc ấy, có một Tỳ Kheo già thân hình mặt mũi xấu xí, lại có giọng nói không được tốt, nhưng thường hay tụng Kinh; một hôm, vị Sư Tam Tạng trẻ ấy, ngẫu nhiên nghe thấy vị Sư già tụng Kinh không êm suôi tai, liền sinh tâm hủy báng nói rằng:

“- Tiếng tụng Kinh như thế, chẳng khác nào tiếng chó sủa.”

 Vị Sư già nghe vậy nói:

“- Sao Thầy lại hủy báng ta như vậy, Thầy có biết ta chăng?”

 Vị Sư trẻ nói:

“- Tôi biết Ông chứ, Ông là Tỳ Kheo già Ma Ha La trong thời chính pháp của Phật Tỳ Bà Thi, sao tôi lại không biết?”

 Tỳ Kheo Ma Ha La nói:

“- Ta nay chỗ làm đã xong, phạm hạnh (khuôn phép) đã lập, không còn sinh tử đời sau nữa.”

 Vị Sư trẻ nghe nói rồi sinh lòng sợ hãi; vị Sư già liền đưa cánh tay phải ra phóng hào quang sáng rực khắp cả. Vị Sư trẻ tức thì đảnh lễ cầu xin sám hối rằng:

“- Tôi là người ngu si không biết phân biệt Hiền Thánh, xin cho đời sau được gặp Thánh Sư, sạch hết phiền não cũng như Ngài.”

 Tỳ Kheo trẻ Tam Tạng ấy vì một lời nói ác hủy báng Thánh nhân, mà sau làm thân Chó 500 kiếp; khi ấy, mọi người trong đại chúng nghe đức Phật nói thế, đều kinh hoàng, không ngờ lời nói ác mà độc hại đến thế; bấy giờ, ai nấy đều tự nghĩ tự nguyện không bao giờ dám dùng lời độc ác hủy báng Thánh Hiền, Thiện nhân.

 Đức Phật nói tiếp:

- Cách đây mười năm, tại khoảng giữa hai nước Ma KiệtXá Vệ, có đoàn thương buôn đi ngang qua, người chủ thương buôn có mang theo một con chó. Vào lúc chập tối hôm ấy, người bạn của chủ buôn có nấu thịt để làm thức ăn cho ngày hôm sau, tới đêm, con chó ăn vụng và làm đánh đổ hết. Sáng hôm sau họ định lấy thức ăn ấy ra ăn thì biết con chó đã ăn hết và làm đổ tứ tung cả! Đang gặp lúc đói khát, nên họ sinh ra tức giận, liền cầm dao chặt đứt bốn chân chó, rồi quẳng xuống hố và bỏ đi, con chó ở dưới hố đau đớn quằn quại rên rỉ rất là thảm thiết.

 Lúc ấy, Tỳ Kheo Xá Lợi Phất trong đêm dùng Thiên nhãn thấy việc như thế ấy; hôm sau, khi khất thực xong, Tỳ Kheo Xá Lợi Phất liền đến chỗ con chó, đem thức ăn cho nó ăn, rồi nói pháp dạy bảo. Sau khi chết, chó ấy được thoát kiếp Chó trong 500 kiếp, làm kiếp Người; con chó ấy, nay là Sa Di Quân Đề này.

 Do lời hủy báng Thánh Hiền phải đọa lạc vào đường ác, nhưng vì ăn năn sám hốiphát nguyện nên được gặp Thánh thiện nhân là Tỳ kheo Xá Lợi Phất, thoát kiếp Chó làm Người, được gặp Ta và giải thoát mau chóng như thế.

LỜI BÀN:

 Đọc xong Kinh nói về Sa Di Quân Đề, chúng ta thấy có một điểm cần nêu ra, đó là khi người cha của Quân Đề đến xin đức Phật chấp nhận cho Quân đề được theo Phật học đạo, liền được Ngài hoan hỷ chấp thuận ngay, và đức Phật nói: “Hay thay, hay thay Sa Di”. Liền lúc đó tóc của Quân Đề rụng hết, đây là một việc lạ, khó tin, vì trái với khoa học; còn nếu chúng ta tin được thì khoa học không thể giải thích nổi. Cũng có rất nhiều điều khoa học không thể giải thích được như Tam Minh, Ngũ Nhãn, Lục Thông của chư vị đắc đạo, làm sao khoa học chứng minh?

 Xuyên qua hai bài Kinh trên, chúng ta thấy sự hủy báng bậc Thánh Hiền quả là cần phải để ý đề phòng cẩn thận, vì lời nói ác mà phải chịu tội vô cùng nặng nề như thế; bởi vậy, chúng ta không nên coi nhẹ lời nói, mà phải hết sức thận trọng trong việc nói năng sao cho phải đạo.

Toàn Không

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14203)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15529)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13231)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19388)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24658)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15762)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37860)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13496)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13116)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17195)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13219)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17406)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21687)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13269)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14434)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12869)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13684)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28661)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23435)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34423)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28901)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32211)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11340)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12013)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26320)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17408)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14542)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34549)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13142)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12293)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13425)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40554)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26974)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14478)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13272)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13477)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12547)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13167)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12328)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11818)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12599)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17684)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12229)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12770)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18461)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14312)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 13021)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11335)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12174)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13490)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10865)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11092)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10315)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28944)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25322)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26879)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25804)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18695)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23076)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34601)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant