Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vị trời thành đại Sa Môn

05 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 16960)
Vị trời thành đại Sa Môn
VỊ TRỜI THÀNH ĐẠI SA MÔN 
Toàn Không

 

 Một thời đức Phật ngự tại rừng trúc Ca Lan Đà thuộc thành La Duyệt, nước Ma Kiệt cùng với 500 Tỳ Kheo. Khi ấy tại cõi Trời Đạo Lợi có một vị Trời (Thiên Tử) than thở lo buồn khổ não, Vua Trời Đế Thiên Đế Thích biết vậy, liền đến chỗ vị ấy hỏi:

- Cớ sao Ông than thở khổ não lo buồn thế?

 Vị Trời ấy đáp:

- Thưa Thiên Đế! Không lo buồn sao được, mạng tôi sắp hết rồi, có 5 điềm báo mệnh chung (mạng hết), đó là:

1- Hoa đội trên đầu đang héo dần đi.

2- Áo choàng trở nên dơ bẩn.

3- Mồ hôi ra khó chịu lắm.

4- Chẳng ưa ngồi tòa nữa.

5- Các Ngọc Nữ xa lánh dần.

 Lại nữa: dù thưởng thức vị ngon hoặc uống nước cam lộ chẳng còn thấy mùi vị ngon gì cả.

 Vua Trời Đế Thích bảo vị Trời:

- Nay Ông cho rằng ở đời là thường hằng, việc này không đúng, Ông không nghe đức Thế Tôn nói sao? Đó là:

Tất cả hành vô thường,
Đã sinh ắt có chết,
Không sanh thì chẳng diệt,
Diệt này là tối thắng.

- Thưa Thiên Đế, thân Trời như mặt trời mặt trăng chiếu sáng khắp cả, nay sắp bỏ thân này, tôi phải vào bụng lợn (heo) tại thành La Phiệt, sống nơi dơ, ăn đồ tạp bẩn cũng không đủ no. Khi bị chết do dao đâm mổ xẻ, thật là khủng khiếp như thế, việc này không buồn sao được?

- Nay Ông nên quy y Tam Bảo Phật Pháp Tăng, có thể không bị đọa ba đường dữĐịa Ngục, Ngạ QuỷSúc Sanh. Đức Thế Tôn đã nói kệ ta còn nhớ là:

Quy y Phật khỏi đọa Địa Ngục,
Quy y Pháp khỏi đọa Ngạ Quỷ,
Quy y Tăng khỏi đọa Súc Sinh,
Quy y Tam Bảo đệ nhất ích.

 Nếu Ông muốn đến chỗ Như Lai xin quy y, hiện Ngài đang ở rừng trúc Ca Lan Đà thành La Duyệt nước Ma Kiệt cùng 500 vị Tăng.

- Bây giờ tôi không còn đủ sức thần thông biến hóa nữa, nên không thể đến đó được.

- Ông nên quỳ gối phải, chắp tay hướng xuống thế gian mà nói:

 “Cúi xin đức Thế Tôn khéo quán sát cho.

Nay con sắp khốn cùng, nguyện xin Như Lai thương xót cho.

Nay con nguyện quy y Phật Pháp Tăng, xin Như Lai chứng tri cho.

Nay con nguyện quy y Tam Bảo được khỏi bị đọa Địa Ngục Ngạ Qủy Súc Sinh, xin Như Lai chứng cho”.

 Vị Trời ấy nghe lời Vua Trời (Đế Thích, Thích Đề Hoàn Nhân), liền quỳ xuống, hướng mặt xuống thế gian xưng tên họ, xin tự quy y Tam Bảo Phật Pháp Tăng, xin làm Phật tử không làm Thiên tử; vị ấy nói ba lần như Vua Trời đã bảo, nhất tâm ý trong sự kính ngưỡng.

 Sau khi qua đời ở cõi Trời, không bị vào thai lợn heo, được sinh vào nhà Trưởng Giả ở thành La Duyệt.

 Ngay khi tự quy y, Vị Trời ấy thấy được duyên này, liền hướng qua Đế Thích nói kệ:

Nhờ Ngài không đọa ác,
Súc sanh nhân rất khổ,
Biết sinh con Trưởng giả,
Nhân đó sẽ thấy Phật.

 Chẳng bao lâu sau đó vợ Trưởng giả tự biết có thai, gần 10 tháng sinh một bé trai đẹp đẽ thế gian hiếm có. Khi đứa bé 10 tuổi, Đế Thích thường đến bảo nó:

- Ngươi có nhớ nhân khi xưa không? Ngươi đã tự nói: “Ta nhân đó sẽ thấy Phật”, nay đúng lúc rồi, hãy đến gặp Phật, nếu không sau sẽ hối hận”.

 Một hôm, Tôn Giả Xá Lợi Phất vào thành khất thực, đến nhà Trưởng giả đứng lặng lẽ ngoài cửa, lúc ấy con Trưởng giả trông thấy hình dạng Tôn giả kỳ đặc, liền đến gần hỏi:

- Ngài là ai, Ngài là đệ tử của ai?

 Tôn giả Xá Lợi Phất đáp:

- Ta là Xá Lợi Phất học đạo nơi Thầy ta là Sa Môn Cù Đàm là bậc Phật (chí chân Như Lai Chính Đẳng Chính Giác).

- Nay Ngài diện mạo uy nghi lặng lẽ đứng đây, Ngài mong muốn điều gì?

 Tôn giả Xá Lợi Phất nói kệ đáp:

Ta nay chẳng cầu tiền,
Chẳng ăn chẳng việc chi,
Chỉ vì ngươi mà đến,
Hãy suy xét lời ta.
Nhớ lời xưa ngươi nói,
Cõi Trời lúc nói thệ,
Làm người sẽ gặp Phật,
Nên đến để bảo ngươi.
Khó có Phật ra đời,
Thuyết pháp cũng như thế,
Thân người chẳng dễ được,
Như hoa Ưu đàm nở.
Nay ngươi nên theo ta,
Đến thăm hỏi Như Lai,
Chắc sẽ vì ngươi nói,
Yếu chỉ của đường lành.

 Sau khi nghe Tôn giả nói kệ, liền trở vào chỗ cha mẹ xin được đi thăm viếng đức Thế Tôn, được cha mẹ đồng ý. Rồi con Trưởng giả mang hương hoa và vải tốt theo Tôn giả Xá Lợi Phất đi đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ. Tôn Giả Xá Lợi Phất thưa:

- Đức Thế Tôn, con Trưởng giả chưa biết Tam Tôn (Phật Pháp Tăng), cúi mong Thế Tôn giảng dạy cho con Trưởng giả được sự hiểu biết.

 Lúc ấy, con Trưởng giả từ xa trông thấy đức Phật dung mạo uy nghi, đẹp đẽ trang nghiêm nhìn mãi không chán, liền tiến lên đến gần lễ lạy, rồi lấy hương hoa rải lên thân đức Phật đang ngồi, lại lấy sấp vải dâng lên.

 Khi ấy đức Phật thuyết các luận bố thí, giới cấm, dục là dơ bẩn, các việc làm xấu là tai họa, xuất giacần yếu. Khi chú bé tâm đã khai mở, Ngài nói về khổ, nguyên nhân gây ra khổ, làm sao diệt khổ, con đường đạo quả. Lúc ấy chú bé thấm nhuần lãnh thụ hết, sạch hết cái xấu ở đời, được tâm trong sạch như tờ giấy trắng. Đuợc như thế rồi, con Trưởng giả liền xin được theo Phật. Ngài bảo:

- Còn ít tuổi, phải có phép của cha mẹ, không từ giã cha me, chẳng được làm Sa Môn.

 Con Trưởng giả thưa:

- Con sẽ trở về xin cha mẹ chấp thuận,

- Nếu vậy, bây giờ là đúng lúc.

 Con Trưởng giả liền đứng dậy cúi lạy rồi lui về nhà thưa với cha mẹ xin được theo đức Phật làm Sa Môn, nhưng cha mẹ từ chối và nói:

- Chỉ có một mình con, trong nhà lại có nhiều của cải tài sản, vả lại tu theo Sa Môn không dễ dàng đâu, con nên suy nghĩ cho kỹ.

 Con Trưởng giả đáp:

- Ức kiếp mới có Phật ra đời, đúng thời mới xuất hiện, như hoa Ưu đàm bát đúng thời mới nở chứ không phải lúc nào cũng có đâu, nên con không muốn bỏ mất cơ hội tốt này, xin cha mẹ chấp thuận cho con.

 Ông bà Trưởng giả thấy con nói có lý, không biết làm sao, nên nói:

- Nếu con đã suy nghĩ kỹ và nhất quyết, thì cha mẹ không ngăn cản.

 Lúc ấy, con Trưởng giả vái lạy cha mẹ từ giã ra đi đến chỗ đức Phật cúi lạy rồi thưa:

- Cha mẹ con đã bằng lòng cho con được theo chân đức Thế Tôn, cúi mong Ngài cho con được làm Sa Môn.

 Bấy giờ đức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất:

- Nay Thầy độ cho con Trưởng giả làm Sa Môn.

- Xin vâng, thưa Thế Tôn.

 Tôn giả Xá Lợi Phất vâng lời đức Phật dạy, độ cho con Trưởng giả làm Sa Di, ngày ngày dạy dỗ. Sa Di ấy ở trong chỗ vắng tu hành, khắc phục mọi khó khăn tu hành như các vị con nhà danh giá xuất gia học đạo, tu phạm hạnh (khuôn mẫu đức hạnh phép tắc) tối cao, muốn được xa lìa khổ não của cuộc đời. Sau một thời gian tu hành nghiêm chỉnh như thế, Sa Di đạt tới bậc A La Hán, Tôn giả ấy đến chỗ đức Phật thưa:

- Con đã học Phật nghe pháp, tu hành đầy đủ, nay không còn nghi ngờ gì nữa.

 Đức Phật hỏi:

- Thầy học hỏi tu hành như thế nào mà không còn hồ nghi nữa?

 Sa Di thưa:

- Sắc là vô thường, vô thường thì khổ, khổ thì vô ngã, vô ngã tức là không, không là chẳng phải có, cũng chẳng phải không có.

 Thọ, tưởng, hành, thức vô thường, vô thường thì khổ, khổ thì vô ngã, vô ngã tức là không, không tức là chẳng phải có, chẳng phải không; người trí hiểu biết như thế, nhiều sự khổ não không thể trị liệu, không thể giữ mãi, ắt phải quán vô ngã.

 Hôm nay con quán sát pháp này, liền thấy được Như Lai”.

 Đức Phật bảo:

- Lành thay, lành thay! Sa Di, cho Thầy làm đại Sa Môn.

 

LỜI BÀN:

 Bài Kinh này dạy chúng ta điều gì?

1- Trước hết là dù có được sinh đến cõi Trời, khi hết phúc báo, hết tuổi thọ cõi Trời rồi lại bị đọa nếu ở cõi Trời không biết tu hành. Vì ở cõi Trời sung sướng thường thích hưởng thụ nên quên tu hành, trong 6 tầng Trời thuộc Dục giới, chỉ có cõi Đâu SuấtĐao Lợi là có Phật Pháp đang lưu hành. Ở các cõi Sắc giới cũng có Phật pháp lưu hành như cõi Phạm Thiên; tuy nhiên ngay cả tại ba cõi vừa kể, không phải chư Thiên nào cũng biết đến Phật pháp; như ở cõi NgườiPhật pháp đang lưu hành, nhưng không phải mọi người trên địa cầu này đều biết phật pháp. Ngay cả những người biết Phật pháp, chưa chắc đã tu hành theo.

2- Thứ nữa là sự quy y Phật Pháp Tăng đã đem lại lợi ích lớn, như vị Trời kia nếu không được Vua Trời mách bảo, và nếu không tự quy y, thì đã bị đọa sinh vào loài lợn heo rồi. Cái lợi của sự quy y Tam Bảo to lớn như thế, nhưng đa số chúng ta không thấy sự lợi lạc này, nên nhiều người đã coi thường sự quy y. Vậy những ai chưa quy y hãy đến bất cứ Chùa nào mà mình cảm thấy vị Thầy có tâm đạo hạnh để xin quy y, đừng bỏ lỡ.

3- Còn việc Tôn giả Xá Lợi Phất đến nhà Trưởng giả đứng làm thinh để độ cho con Trưởng giả là do nguyên nhân nào?

 Có thể rằng Vua Trời Đế Thích đã nói với Tôn giả sự việc, cũng có thể Tôn giả quán sát biết, hoặc do đức Phật cho Tôn giả biết.

4- Một điểm thiếu sót, không hiểu tại sao Kinh này không nói tên của vị đại Sa Môn ấy?

5- Đến đây, chúng ta thử bàn về đoạn chót của bài Kinh:

 Sau khi Sa Di tu hành thấy có kết quả rồi, bèn đến chỗ đức Phật thưa rằng: “Con đã học Phật nghe pháp, tu hành đầy đủ, Nay không còn nghi ngờ điều gì nữa”, ý nói đã học đầy đủ, tu hành trọn vẹn, đã đạt mục đích, nên không còn việc gì phải làm nữa.

 Đức Phật liền hỏi: “Thầy học hỏi tu hành thế nào mà không còn hồ nghi nữa?Đức Phật muốn trắc nghiệm xem Sa Di đã học hỏi như thế nào, hiểu biết ra sao, thực hành đến đâu rồi?

 Sa Di bạch: “Sắc là vô thường, vô thường thì khổ, khổ thì vô ngã, vô ngã tức là không, không là chẳng phải có, cũng chẳng phải không có”, Chúng ta thử phân tích xem đoạn này Tôn giả Sa Di muốn nói gì?

- Sắc là vô thường:

 Sắc là vật chất, mọi vật chất đều biến đổi, như cái nhà, cái xe, thân xác chúng ta mỗi ngày mỗi thay đổi. Từ mới thành cũ thành hư, từ trẻ thành già thành bệnh rồi chết; như vậy rõ ràng chẳng có cái gì chắc chắn trường tồn, nên “sắc là vô thường”.

- Vô thường thì khổ:

 Cái nhà cái xe cũ đi, hư hỏng, làm cho ta lo buồn; thân ta mỗi ngày già đi, yếu đi, sinh bệnh tật rồi chết làm cho ta buồn khổ. Như vậy vì những sự thay đổi tồi tệ ấy làm cho ta không vui được, như thế rõ ràng “vô thường thì khổ”.

- Khổ thì vô ngã:

 Vô ngã: là không có tôi, không có ta, tại sao khổ thì vô ngã? Đây chỉ là một cách nói, chính ra nên nói: “Khổ thì phải vô ngã” vì có ngã có ta nên mới khổ, nếu không chấp ngã. không chấp ta thì hết khổ, nếu không chấp cái của ta thì hết khổ, tại sao? Vì chấp cái thân này là mình, chấp cái nọ cái kia là của mình, chấp chặt như thế, nên khi thân này già đi yếu đi, bệnh hoạn đến chết, cái xe bị hư hỏng v.v..., thì cảm thấy buồn khổ.

 Nếu không cho thân này là ta, không cho cái nọ cái kia là của ta, thân này có bệnh hoạn già chết, cái xe hư hỏng v.v..., cũng chẳng động tâm thì làm sao buồn khổ được, nếu không chấp ta, không chấp cái của ta sẽ hết khổ, nên nói “khổ thì phải vô ngã để hết khổ”.

 Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành; Tâm gồm “Thọ, Tưởng, Hành, Thức”; thân kết hợp bởi các bộ phận, tất cả bộ phận thân thể đều do sự kết hợp của các tế bào nguyên tử mà thành, các tế bào luôn sinh diệt không ngừng, nên nó là vô thường, chẳng có cái gì có thể gọi là cái ta, đó là về Sắc Thân.

 Còn về Tâm gồm: cảm giác (Thọ); suy nghĩ, tưởng nhớ (Tưởng); tác ý, ý muốn, suy nghĩ (Hành); phân biệt, so sánh (Thức). Tâm gồm bốn thứ thuộc tinh thần, chúng luôn luôn thay đổi không cố định, như cảm giác có lúc buồn có lúc vui (Thọ), có lúc suy nghĩ tưởng nhớ có lúc không suy nghĩ tưởng nhớ (Tưởng), có lúc suy nghĩ muốn làm có lúc không suy nghĩ, không muốn làm gì cả (Hành), có lúc phân biệt so sánh việc này việc nọ có lúc không muốn phân biệt so sánh gì cả (Thức). Như vậy bốn món của tâm không đồng nhất, luôn luôn biến đổi, nên chẳng có cái nào được gọi là ta, do đó “Vô thường thì vô ngã”.

- Vô ngã tức là không: Tại sao?

 Vì đã cho rằng: không có Ngã, tức không chấp nhận cái thân tâm này là ta rồi, nó chỉ là giả có tạm có, chứ nó không có thực thể gì, nên nó là không, nên nói “Vô ngã tức là không” là vậy.

- Không là chẳng phải có, cũng chẳng phải không: Là sao?

Không là chẳng phải có: Là sao? Tức là thân tâm này chẳng phải thật có, chẳng thể chấp chặt để rồi sinh ra đủ thứ xấu xa, như sinh ra tham lam, giận hờn, kiêu ngạo, ích kỷ, nói dối v.v... để gìn giữ bảo thủ cho cái ta; nếu không chấp cái thân tâm này là có, đâu còn sinh ra những thứ xấu xa như thế nữa?

Không cũng chẳng phải là không có: Là sao? Tức là tuy coi cái thân này là giả hợp, là tạm, do nhân duyên hợp mà tạm có, là không, nhưng không phải là không ngơ chẳng có gì như trong cái bình không có không khí và bất cứ vật gì. Không phải là không như thế đâu, mà trong cái thân này còn có một thứ trong sạch, tròn sáng nhỏ hơn đầu kim nhọn, lớn bằng đại vũ trụ, nó rất quý giá; cái quý giá này gọi là chân không diệu hữu, không thể nghĩ bàn, nó chính là Phật tánh của mỗi người mà đức Phật đã chỉ cho chúng ta, bởi vậy mới nói “Không chẳng phải là không có”, là vậy.

Toàn Không

(CÙNG TÁC GIẢ)

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7671)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22430)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 8882)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này.
(Xem: 10108)
Cho đến nay, người ta vẫn chưa biết chính xác bản kinh Pháp Hoa này được thiết lập khi nào, ở đâu và được ghi lại bằng ngôn ngữ nào trước hết.
(Xem: 16779)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 8261)
Việc nghiên cứu Kinh Lăng-già, đã được ngài D.T.Suzuki thực hiện, qua tác phẩm “rất thẩm quyền”: Studies in the Lankavatara Sutra – nghiên cứu về kinh Lăng-già.
(Xem: 19067)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 7991)
Chính pháp trụ một nghìn năm, tượng pháp trụ một nghìn năm, mạt pháp trụ một vạn năm. Thuyết này trích trong Kì-hoàn tinh xá bi.
(Xem: 6929)
Nhị đếtục đếchân đế, còn gọi là chân lý tương đốichân lý tuyệt đối hay chân lý thế gianchân lý xuất thế gian.
(Xem: 8210)
Phật giáocách sống dựa trên việc rèn luyện tâm. Mục đích cao nhất là để đi trên con đường giải thoát khỏi đau khổ, và đạt đến Niết Bàn,
(Xem: 8567)
Trong 2 giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ nguyện vọng và dấn thân, chỉ với việc dấn thân chúng ta mới thọ giới Bồ tát.
(Xem: 9664)
Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma - Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 9535)
Thực chứng giáo lý duyên khởi, người thông tuệ hoàn toàn không vướng vào những quan điểm cực đoan...
(Xem: 7711)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại họcTrung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên.
(Xem: 8276)
Đức Phật nói, nếu giữ tâm vững như hòn đảo trước phong ba bão táp của cuộc đời thì chúng ta sẽ có được chất liệu an vui, an vui về thái độ, tinh thần...
(Xem: 8295)
Phật dạy thân người do tứ đại gồm bốn chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại hình thành; đất với gió lại không thuận với nhau, gió thổi mạnh thì đất rung rinh..
(Xem: 7942)
Phật dạy trong mỗi người chúng ta đều có phần tâm linh sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết không lầm lẫn, sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó;
(Xem: 8426)
Thực tại nền tảng của thế giới Hoa Nghiêm là Phật Tỳ-lô-giá-na (Vairocana). Đây là Pháp thân của Đức Phật Thích-ca và cũng là Pháp thân của tất cả chư Phật.
(Xem: 9957)
Dựa trên giả định các hoạt động của Tâm tạo ra những cấu trúc não bộ mới (Hebb 1949) cho biết ý tưởng, tình cảm có thể để lại dấu ấn
(Xem: 8978)
Là giai đoạn duy nhất trong kinh nghiệm cận tử liên quan đến việc nhận thức thế giới mang tính vật lý hơn là tính tâm linh...GIDEON LITCHFIELD
(Xem: 8755)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”
(Xem: 8028)
Nếu quý vị không có tuệ giác trong cung cách chính mình và mọi thứ thật sự là, quý vị không thể nhận ra và xa lánh những chướng ngại...
(Xem: 9925)
Tâm ta là vật quan trọng nhất. Mọi sự đến từ tâm, vì thế tất cả những gì không ai ưa thích mà giờ đây ta đối mặt cũng đến từ tâm.
(Xem: 9825)
Những giác quan của chúng ta góp phần cho sự si mê của chúng ta. Đối với những tính năng của chúng ta về thấy, nghe, ngửi, nếm, và cảm giác, những đối tượng dường như tồn tại trong tự bản chất của nó.
(Xem: 9341)
Chết là một bộ phận trong sự sống của chúng ta. Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, thân thể này trong một ý nghĩa nào đó là một kẻ thù.
(Xem: 10234)
Bất cứ ai quan tâm đến lịch sử Đức Phật đều muốn biết về bữa ăn cuối cùng của Ngài do ông Thuần Đà (Cunda) cúng dường,
(Xem: 14540)
Là vị Bồ Tát tiêu biểu cho Trí Tuệ, Bồ Tát Văn Thù thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen.
(Xem: 9115)
Đức Phật là một bậc đạo sư thực tiễn. Mục tiêu duy nhất của Ngài là giải thích tất cả chi tiết trong vấn đề của khổ là thực tế phổ biến của cuộc đời.
(Xem: 8590)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 9750)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”.
(Xem: 15727)
Ở đời tuổi tác là một nhân tố quan trọng tác thành nên vị trí của cá nhân trong cộng đồng. Trong đạo cũng vậy, những bậc truởng lão, thâm niên lại càng được kính nể và tôn trọng hơn.
(Xem: 8174)
Bảy yếu tố khiến Tăng đoàn hưng thịnh hay còn gọi là bảy pháp bất thối được đề cập trong bài kinh Đại bát Niết bàn, gồm: Có Tín tâm, có Tàm, có Quý, Đa văn, Tinh tấn, Chánh niệmTrí tuệ.
(Xem: 11106)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh.
(Xem: 11782)
Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý tríthiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm.
(Xem: 8851)
Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
(Xem: 9082)
Điều cần bảo vệ chính là cái tâm của người con Phật, biết kiên trì thực hành những lời Phật dạy để đem lại an lạc cho chính mình và những người chung quanh
(Xem: 11997)
Chữ “giác ngộ” trong Đạo Phật, tiếng Pali và Sanskrit đều là “Bodhi”. Tiếng Anh là “enlightenment” hay “awakening”
(Xem: 9414)
Chúng tôi đã thuyết giảng về những cảm xúc đau khổ và các tai hại mà chúng sẽ gây ra cho việc hành trì tu tập của chúng ta.
(Xem: 21723)
Chúng ta đã biết đời là vô thường đau khổ, nhưng chúng ta còn cố chấp cái ngã, cái ta, cố bám víu vào cái của ta, thì chúng ta không thể trừ bỏ được kiêu mạn,
(Xem: 15289)
Người Phật tử có trí và hiểu đạo chỉ quan tâm khiến cho mỗi đời sống là một bước tiến trên con đường tiến bộ tâm linh không ngừng, dẫn tới sự giải thoátgiác ngộ tối hậu...
(Xem: 8667)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộVãng sanh khác nhau thế nào?
(Xem: 9365)
Khi đã biết nghiệp báo nhân quả không thể tránh, khủng khiếp như thế, chúng ta phải cố gắng tránh làm ác từ ý nghĩ, lời nói đến việc làm
(Xem: 7810)
Khảo sát hiện tượng "hội nhập văn hóa" tại một trung tâm Phật giáovị trí quan trọng vào hàng nhất nhì ở thời Lý-Trần như chùa Quỳnh Lâm...
(Xem: 9396)
Ta-bà là chu kỳ của sự hiện hữu (sự sinh, sự sống và cái chết) chi phối bởi nghiệp (karma). Đấy là chiếc bánh xe của khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu
(Xem: 9446)
Chúng ta sợ đủ thứ: sợ chết, sợ khốn khổ, sợ bị chê bai chỉ trích, và trên tất cả, hình như chúng ta rất sợ sự thật.
(Xem: 10419)
Con người sanh ra trên cõi đời này đã mang theo nghiệp nhân của đời trước, lúc lớn lên lại gây tạo thêm nghiệp mới.
(Xem: 8866)
Tất cả việc làm của Phật giáo đều tập chú vào lợi ích cho chúng sanh. Chúng sanh là đối tượng duy nhất của Phật giáo.
(Xem: 14879)
Mặc dù các tôn giáo nhất là Phật giáo đều nhấn mạnh đến vấn đề Nhân Quả - Nghiệp báo, song Luật Nhân quả không phải là của riêng một tôn giáo nào, nó là một luật của tự nhiên
(Xem: 8026)
“Sống Tỉnh Giác” là sống tỉnh chứ không còn ngủ mê nữa. Đây là đi vào thực hành chứ không phải là học, hiểu hay lý luận suông.
(Xem: 8342)
Sau khi trở thành phật tử, có tam qui, ngũ giới rồi, người phật tử phải sống ra sao để an lạc hạnh phúc?
(Xem: 8420)
Tất cả chúng ta đều có duyên lớn được gặp Phật pháp, được học Phật, được có người chỉ đường, có bản đồ sẵn hết rồi, chỉ còn một việc là bước đi để trở về.
(Xem: 8841)
‘Tâm’ là chữ thường xuyên xuất hiện với người Phật tử mỗi khi nói đến tu tập . Thật vậy, nào là ‘Tu tâm’ , ‘một niệm ở tâm ta’ , nào là ‘giữ tâm ý trong sạch ’ , ‘
(Xem: 9132)
Chánh Giáo (Tam Bồ Đề_ Sambhodhi) cùng Giải Thoátmục đích chung của Phật và các đệ tử Thanh Văn...
(Xem: 8645)
Cầu xin mà có hiệu qủa, chẳng có ai không cầu, cứ ngồi đó mà cầu nguyện là tự có tất cả, chẳng phải làm việc vất vả, cần gì phải học hành cực nhọc....
(Xem: 8211)
Phật Giáo Ấn ĐộTây Tạng phân loại và hệ thống hóa toàn bộ giáo huấn của Đức Phật thành ba chu kỳ khác nhau gọi là "ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp"
(Xem: 7740)
Con Đường Của Bụt là chủ đề của khoá tu An Cư Kiết Đông năm 2008 - 2009. Đây là con đường Bụt đã đi, và chúng ta đang đi theo sự hướng dẫn của Ngài.
(Xem: 9921)
con người, chúng ta có khuynh hướng bám víu vào đời sống của chính mình. Nhà Phật gọi đó là chấp thủ.
(Xem: 7941)
Con người luôn sống trong sợ hãi từ hiện tại cho đến vị lai, là do chính mình gây tạo nên bằng những hành động, lời nóiý nghĩ bất thiện
(Xem: 7870)
Kinh điển thường ví giận dữ như một cơn điên. Người điên cuồng không kiềm chế được ý thức nên hành vi, cử chỉ, việc làm gây thương tổn bản thân và người khác.
(Xem: 6975)
Trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, tạo ác nghiệp nhất định chiêu quả khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant