Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vai Trò Của Người Có Trí Tuệ Trong Đạo Phật

15 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 11931)
Vai Trò Của Người Có Trí Tuệ Trong Đạo Phật

Mục đích của Ðạo Phật là diệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc. Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ (Pan~n~à) mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.

Do vậy vai trò của người có trí tuệ chiếm cứ vị trí then chốt trong mọi lời dạy của Ðức Bổn Sư chúng ta. Và chúng ta có thể nói Ðạo Phật là đạo của người có trí, là đạo của tuệ giác để tìm cho được một định nghĩa thỏa đáng cho Ðạo Phật.

Trước hết chúng ta nên phân biệt giữa người trí thức thông thường được hiểu và người có trí tuệ như Ðạo Phật thường định nghĩa. Người có trí thức là người có thể có một trí thức uyên bác về một vấn đề gì, có thể phân tích trình bày vấn đề một cách khúc chiết và triệt để, nhưng người ấy là người chỉ có Biết chớ không có Hành, và người ấy đối với vấn đề ấy vẫn có thể bị chi phối, không đuợc tự tại. Ví như một người có thể hiểu biết rất nhiều về vấn đề rượu, hiểu rượu gồm có chất liệu gì, tác động của rượu đối với cơ thể như thế nào, các sự nguy hại của rượu như thế nào. Người ấy gọi là người tri thức về rượu nhưng người ấy vẫn uống rượu, vẫn bị say rượu, vẫn bị rượu chi phối. Như vậy, người ấy chưa có trí tuệ về rượu. Trái lại, một người hiểu rõ được rượu là gì, biết rõ sự nguy hại của rượu, lại có khả năng không bị rượu chi phối, không uống rượu, không say rượu, không nghiện rượu, vượt ra khỏi sự chi phối của rượu. Như vậy người ấy được xem người có trí tuệ về rượu. Có người hỏi, nếu có người không có trí thức về rượu, nhưng không uống rượu, người ấy có được xem là người có trí tuệ không. Lẽ dĩ nhiên là không. Người ấy vẫn hưởng được những lợi ích do không uống rượu đưa đến, như không say rượu, không nghiện rượu do cử chỉ không uống rượu của mình. Nhưng rất có thể, trong một trường hợp đặc biệt nào đó, vì thiếu khả năng đối trị vơi sự cám dỗ của rượu, vị ấy bắt đầu uống rượu, đi đến say rượu và nghiện rượu. Với sự phân biệt này chúng ta mới hiểu được định nghĩa người có trí như đã được Ðức Phật định nghĩa rất rộng rãi trong những lời dạy của Ngài.

Tăng Chi I, trang 113 nêu rõ sự sai khác một trời một vực giữa người ngu và người trí: “Thành tựu ba pháp, người ngu được biết đến. Thế nào là ba: Thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Thành tựu ba pháp, người trí được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện.”

Một sự sai khác rõ rệt giữa người ngu và kẻ trí là đối với các cảm thọ. Người ngu khi gặp khổ thọ về thân, thời sầu muộn, than van khóc lóc, đập ngực đi đến bất tỉnh. Ðức Phật ví dụ người rơi vào vực thẳm, không đứng trên bờ, không đặt chân chỗ đứng an toàn. Còn bậc trí, đối với khổ thọ về thân, thời “Không sầu muộn không than van, không khóc lóc không đập ngực, không đi đến bất tỉnh.” Như vậy Ðức Phật dạy vị ấy được gọi là “Bậc Thánh đệ tử nghe nhiều đã đứng trên bờ bực thẳm, đã đạt tới chỗ chân đứng an toàn.” (Tương IV, 212). Bậc Ðạo sư lại nói thêm. Người ngu si nghe ít, khi cảm xúc khổ thọ, thời sầu muộn than van... đi đến bất tỉnh, như vậy cảm thọ hai loại cảm thọ, cảm thọ về thân và cảm thọ về tâm. Ðức Phật ví như người bị bắn trúng 2 mũi tên, vừa đau khổ về thân vừa đau khổ về tâm. Lại nữa, người ngu si ít nghe, khi cảm xúc khổ thọ, cảm thấy sân hận nên sân tùy miên tồn tạităng trưởng. Vị ấy tìm sự xuất ly khỏi khổ thọ bằng cách hoan hỷ dục lạc, do không tìm được một xuất ly nào khác. Do hoan hỷ dục lạc ấy, tham tùy miên đối với lạc thọ tồn tại và tùy tăng. Vị ấy không như thật biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các cảm thọ ấy. Do vậy vô minh tùy miên đối với bất khổ lạc thọ tồn tại tùy tăng. Như vậy, nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, cảm giác lạc thọ, cảm giác bất khổ bất lạc thọ, vị ấy cảm giác như người bị trói buộc. Ở đây Ðức Phật dạy: “Người ngu si nghe ít, bị trói buộc bởi sanh già bệnh chết, sầu bi khổ ưu não. Ta nói rằng người ấy bị trói buộc bởi đau khổ”. (Trang 213-214).

Còn đối với bậc Thánh đệ tử nghe nhiều, khi cảm xúc khổ thọ, không có sầu muộn, than van, khóc lóc đập ngực đi đến bất tỉnh. Vị ấy chỉ cảm giác một cảm thọ, tức cảm thọ về thân, không cảm thọ về tâm. Ðức Phật ví như người bị bắn bởi một mũi tên, chỉ đau khổ về thân không đau khổ về tâm. Lại nữa, vị Thánh đệ tử khi nghe nhiều, khi cảm xúc khổ thọ, không cảm thấy sân hận nên sân tùy miên không tồn tại tăng trưởng. Vị ấy tìm được sự xuất ly ra khỏi khổ thọ, ngoài dục lạc. Vị ấy không hoan hỷ dục lạc, nên tham thùy miên đối với dục lạc không có tồn tại, không có tùy tăng. Vị ấy như thật tuệ tri sự tập khởi, sự chấm chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hại và sự xuất ly của những cảm thọ ấy. Do vậy vô minh tùy miên đối với bất khổ lạc thọ không tồn tại, không có tùy tăng. Như vậy, vị Thánh đệ tử nghe nhiều ấy cảm giác khổ thọ, cảm giác lạc thọ, cảm giác bất khổ bất lạc thọ, không có như người bị trói buộc. Ở đây, Ðức Phật dạy: “Vị Thánh đệ tử nghe nhiều không bị trói buộc đau khổ.” (Trang 214-215).

Ðược hỏi sự sai khác giữa người ngu và bậc hiền trí, đới với các thân do vô minh che đậy, do ái trược ràng buộc khởi lên quan điểm có thân này, có danh sắc ở ngoài. Do duyên thân này, có 6 xúc xứ và có cảm thọ lạc khổ. Vậy có sự sai khác gì giữa bậc hiền trí và kẻ ngu? Ðức Phật dạy: “Này các Tỷ kheo, bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc, thân này của người ngu được sanh khởi. Vô minh ấy, người ngu không đoạn tận. Tham ái ấy, người ngu không tận trừ. Vì cớ sao? Này các Tỷ kheo, người ngu sống Phạm Hạnh không phải vì chân chánh đoạn tận khổ đau. Do vậy, người ngu, khi thân hoại mạng chung, đi đến một thân khác, vị ấy không giải thoát khỏi sanh già bệnh chết, sầu bi khổ ưu não. Ta nói rằng vị ấy không thoát khổ đau.” (Tương Ưng II, 28-29).

“Và này các tỷ kheo bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc, thân người hiền trí tận trừ. Vì cớ sao? Này các tỷ kheo, người hiền trí sống Phạm Hạnh, vì chơn chánh tận trừ khổ đau. Do vậy người hiền trí khi thân hoại mạng chung không đi đến một thân khác, vị ấy giải thoát khỏi sanh già bệnh chết, sầu bi khổ ưu não. Ta nói rằng: “Vị ấy thoát khỏi Ðau khổ.” (Tương Ưng II, 28-29).

Một phân biệt tế nhị nữa là người có trí ưa thích im lặng như biển lớn, như cái gì tròn đầy, như no đầy nước, còn kẻ ngu thì ồn ào như khe núi, như cái gì trống rỗng, như ghè vơi nước:

“Hãy học các giòng nước

Từ khe núi vực sâu;

Nước khe núi chảy ồn,

Biển lớn đầy im lặng,

Cái gì trống kêu to,

Cái gì đầy im lặng,

Ngu như ghè vơi nước,

Bậc trí như ao đầy.”

(Tiểu bộI, 106)

Có người hỏi, vì sao bậc Trí sống Phạm Hạnh rừng sâu, ăn môt ngày một bữa, lại có dung sắc thù diệu, còn kẻ ngu lại héo mòn, như lau xanh rời cành. Ðức Phật trả lời với bài kệ:

“Thường sống trong rừng núi,

Bậc Thánh sống Phạm Hạnh

Một ngày ăn một bữa,

Sao sắc chúng thù diệu?

Không than việc đã qua,

Không mong việc sắp đến,

Sống ngay với hiện tại,

Do vậy sắc thù diệu.

Do mong việc sắp tới,

Do than việc đã qua,

Nên kẻ ngu héo mòn,

Như lau xanh rời cành.

(Tương Ưng I,6)

Một số sai biệt giữa người ngu kẻ trí được khéo diễn tả trong một số bài kệ sau đây:

“Người ngu si thiếu trí,

Chuyên sống đời phóng dật,

Người trí không phóng dật,

Như giữ tài sản quý.”

(Pháp cú 26)

 

Người trí dẹp buông lung,

Với hạnh không phóng dật,

Leo lầu cao trí tuệ,

Bậc trí không âu lo,

Nhìn chúng sanh sầu muộn,

Chẳng khác đứng núi cao,

Nhìn kẻ ngu đất bằng!

(Pháp cú 28)

Ðối với đời, người ngu kẻ trí có thái độ thật sai khác:

“Hãy đến nhìn đời này

Như xe vua lộng lẫy,

Người ngu mới tham đắm,

Bậc trí nào đắm say.”

(pháp cú 7)

Nhiều sự sai biệt giữa người Trí kẻ ngu, sai biệt chỉ bằng gang tấc, tiến tới thành người ngu, dừng lại thành bậc Trí:

“Người ngu nghĩ mình ngu,

Như vậy thành có trí,

Người ngu tưởng có trí,

Thật xứng gọi Chí ngu.”

(Pháp cú 64)

Một sự sai khác, khá rõ rệt là thái độ người ngu kẻ trí đối với Chánh pháp :

“Người ngu dầu trọn đời,

Thân cận người có trí,

Không biết được Chánh pháp

Như muỗng vị với canh.

Người trí dầu một khắùc,

Thân cận người có trí,

Biếy ngay chân diệu pháp,

Như lưỡi với vị canh.

(Pháp cú 64-65)

Ở nơi đây, chúng ta cũng đã thấy vì sao, người ngu hay xuyên tạc lời dạy của Ðức Phật, còn người hiền trí bao giờ cũng giữ một thái độ đúng đắn, trung thành với lời dạy của Ngài:

“Này Các Tỷ kheo, có hai hạng người này không xuyên tạc Như Lai. Thế nào là hai? Người nêu rõ Như Lai có nói có thuyết là Như Lai có nói có thuyết. Và người nêu rõ Như Lai không nói, không thuyết là Như Lai không nói không thuyết. Có hai hạng người này không xuyên tạc Như Lai”

(Tăng Chi I, 72-73)

Khi chúng ta đã hiểu được định nghĩa người có trí ngang qua một số lời dạy của Ðức Phật, chúng ta nay có khả năng trình bày các định nghĩa căn bản của trí tuệ (Pan~n~à) trong Ðạo Phật và khả năng trí tuệ đưa đến giác ngộgiải thoát.

Trước hết một số căn bản định nghĩa của Trí Tuệ:

“Như thế nào được gọi là trí tuệ? Vì có tuệ tri,vì có tuệ tri nên được gọi là trí tuệ. Tuệ tri là gì? Tuệ tri (Pajànàti) đây là khổ. Tuệ tri đây là khổ tập. Tuệ tri đây là khổ diệt. Tuệ tri đây là con đường đưa đến khổ diệt. Vì tuệ tri nên được gọi là trí tuệ. (Trung I, 293). Như vậy trí tuệ là biết với trí tuệ, biết sự kiện, biết sự kiện tập khởi, biết sự kiện đoạn diệt, biết con đường đưa đến sự kiện đoạn diệt. Mở rộng thêm định nghĩa này là tuệ tri vị ngọt (Assàda), tuệ tri sự nguy hiểm (àdinavà), và tuệ tri sự xuất ly (Nissarana) của các pháp và do vậy nói chung có tất cả 7 lãnh vực cần phải tuệ tri, đối với một pháp, hay đối với bất cứ sự kiện nào, dầu tốt hay xấu cũng vậy. Như lấy dục làm đối tượng, thời phải tuệ tri dục, dục tập khởi, dục đoạn diệt, con đường đưa đến dục đoạn diệt, vị ngọt của sự dục, sự nguy hiểm của dục và sự xuất ly ra khỏi dục. Biết như vậy mới gọi là tuệ tri.

Một định nghĩa nữa của tuệ tri được đề cập đến. Thế nào là tuệ lực? Ở đây vị Thánh Ðệ Tử có trí tuệ, thành tựu sự trí tuệ về sanh diệt, với sự thể nhập bậc Thánh vào con đường đoạn tận khổ đau. (Tăng II trang 28). Trí tuệ về sanh diệt tức là tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn diệt các pháp, như trước chúng ta đã thấy. Nay có thêm định nghĩa mới là “Với sự thể nhập bậc Thánh vào con đường đoạn tận khổ đau.” Danh từ Pàli chuyên môn là Ariyàya nibbedhikàya sammà-dukkha-kkhaya-gàminiyà (D.iii,237). Ở đây chữ nibbedhikàya có hai cách dịch, một là sự thể nhập đi sâu vào con đường có khả năng đoạn tận khổ đau, tức là có khả năng giải thoát khỏi khổ đau.Cách dịch thứ hai là có khả năng đâm thủng dục lậu hữu lậu, vô minh lậu hay, tham, sân si để cuối cùng đoạn tận khổ đau. Như vậy trí tuệ, ngoài khả năng tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn diệt, còn có khả năng đâm thủng được vô minh để cuối cùng được giải thoát. Một định nghĩa nữa lại càng làm rõ rệt hơn công năng diệu dụng của trí tuệ (pan~n~à). “Trí tuệ có nghĩa là thắng tri (abhin~n~àttha), có nghĩa là đoạn tận (pahànattha). Như vậy trí tuệ có khả năng thắng tri, tức là biết với thiền định, và thiền định đây là thiền định bất động thứ tư. Lại có khả năng liễu tri với sự hiểu biết rốt ráo trọn vẹn; và cuối cùng có khả năng đoạn tận các lậu hoặc, dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, đoạn diệt được tham sân si, chấm dứt khổ đau. Cho được rõ ràng hơn, chúng ta cần phân biệt tưởng tri (san~jànàti) nhờ tưởng (san~n~àna) đưa đến, thức tri (vijànàti) do thức (vin~n~a`) đưa đến, và ý tri (Jànàti) do ý (manas) đưa đến. Tưởng tri, thức tri và ý tri là ba sự hiểu biết thông thường của thế gian, đưa đến sự hiểu biết về khoa học, kỹ thuật, triết học, bác học v.v... Ðạo Phật đóng góp thêm thắng tri và tuệ tri, sự hiểu biết ngang qua thiền định, tạo thêm sức mạnh cần thiết để con người làm chủ được bản thân, làm chủ được hoàn cảnh. Tuệ tri đưa đến một hiểu biết toàn diện, hoàn mãn, có khả năng đâm thủng vô minh, đoạn tận tham sân si, đưa đến chấm dứt khổ đau. Nhưng trí tuệ chưa phải là cứu cánh mà chỉ là phương tiện đưa đến giải thoát. Với trí tuệ như vậy, vị ấy sanh nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, từ bỏ, và cuối cùng đưa đến giải thoát, theo tiến trình như sau: “Do nhàm chán nên ly tham; do ly tham nên giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng: “Ta đã giải thoát”. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm Hạnh đã thành, những việc gì nên làm đã làm. Nay không còn trở lui lại trạng thái này nữa.” (Tương IV, 29)

Như vậy, vai trò của trí tuệlựa chọn các đối tượng để quán tri, để tuệ tri, mà nhờ tuệ tri mới đưa đến nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, từ bỏ,và cuối cùnggiải thoát. Các đối tượng rất nhiều, tùy theo pháp môn lựa chọn,tùy theo căn cơ của vị hành giả nhưng nếu đối tượng có khác, pháp môn tu tập có khác, tiến trình giải thoát có thể xem giống nhau hay gần giống nhau.

Sau đây là một số tiến trình giải thoát, trích thuật từ tạng kinh Pàli, nói lên vai trò trí tuệ đưa đến giải thoátgiải thoát tri kiến.

Trong Kinh Xà Dụ, đối tượng cần phải tuệ quán là 5 thủ uẩn= Sắc, thọ tưởng, hành,thức, bất cứ 5 thủ uẩn cần phải tuệ quán: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi. Nhờ tuệ quán như vậy, vị đa văn thánh đệ tử yểm ly sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Do yểm ly nên ly tham, do ly tham nên được giải thoát. Trong sự giải thoát khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã được giải thoát.” Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm Hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa.” (Trung I, 138b).

Trong Ðại Kinh Mã Aáp, đối tượng cần phải tuệ quán là khổ và các lậu hoặc. Vị hành giả cần phải tuệ tri: “đây là khổ; “đây là khổ tập” đây là khổ diệt” đây là con đường đưa đến khổ diệt”. “Ðây là những lậu hoặc,” đây là lậu hoặc tập khởi "Ðây là những lậu hoặc đoạn diệt;" Ðây là con đường đưa đến lậu hoặc đoạn diệt. Nhờ tuệ tri như vậy, hiểu biết như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát”. Vị ấy biết “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm. Sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa (Trung I, trang 279).

Trong Kinh Ðoạn Giảm, đối tượng cần phải tuệ quán là các sở kiến, “Này Cuda, những loại sở kiến này khởi lên trên đời, hoặc liên hệ giữa ngã luận hoặc liên hệ thế giới luận, chỗ nào những sở kiến này tiềm ẩn và chỗ nào những sở kiến này hiện hành, chỉ có cách như thật quán sát chúng với trí tuệ rằng: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi. Có vậy thời có sự đoạn trừ các sở kiến ấy, có sự xả ly những sở kiến ấy”. (Trung I, 40-40a).

Trong Kinh Mật Hoàn, đối tượng được lựa chọn là các vọng tưởng lý luận (papan~casan~n~asankhà): “Này các Tỷ kheo, do bất cứ nhân duyên gì, một số lý luận ám ảnh một người. Nếu ở đây không có gì đáng tùy hỷ, đáng đón mừng, đáng chấp thủ thời như vậy là sự đoạn tận tham tùy miên, sự đoạn tận sân tùy miên, sự đoạn tận kiến tùy miên, sự đoạn tận hỷ tùy miên, sự đoạn tận mạn tùy miên, sự đoạn tận hữu ái tùy miên, sự đoạn tận vô minh tùy miên, sự đoạn tận chấp trượng, chấp kiến đấu tranh, tránh tranh, luận tranh, kháng tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ. Chính ở nơi đây, những ác, bất thiện pháp này đều được tiêu diệt, không có dư tàn. (Trung I, 110).

Trong Kinh Song Tầm Ðức Phật kể lại kinh nghiệm của Ngài khi Ngài chưa giác ngộ, Ngài đã sử dụng bất thiện tầm và thiện tầm như thế nào để hành trì giới định tuệ, cuối cùng đưa đến giải thoát giác ngộ. Ngài chia các loại tầm ra hai loại-Bất thiện tầm là dục tầm, sân tầm, hại tầm và-thiện tầm là ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm. Khi dục tầm, sân tầm, hại tầm khởi lên, vị Bồ tát tuệ tri: “Các bất thiện tầm này khởi lên nơi ta, và các bất thiện tầm này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết bàn. Khi Bồ Tát khởi lên suy tư như vậy thời các bất thiện tầm biến mất, và vị Bồ Tát tiếp tục từ bỏ, tẩy trừ, chấm dứt các bất thiện tầm khởi lên.

Khi ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm khởi lên, vị Bồ Tát tuệ tri: “Các thiện tầm này khởi lên nơi ta; và các thiện tầm này không đưa đến tự tại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền não, đưa đến Niết bàn. Nếu ban đêm, Ta suy tư về ly dục tầm, vô sân tầm bất hại tầm, không phải từ nhân duyên ấy, Ta thấy sợ hãi. Nếu ban ngày, Ta suy tầm, suy tư về ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm, không phải vì nhân duyên ấy Ta thấy sợ hãi. Và nếu ta suy tầm, suy tư quá lâu, thân thể ta có thể mệt mỏi, thì tâm bị dao động. Khi tâm bị dao động, thì tâm xa lìa định tĩnh. Rồi tự nội thân, Ta trấn an tâm, khiến được nhất tâm, khiến được định tĩnh. (Trung I, 116, 116a). Với tâm định tĩnh như vậy, Vị Bồ Tát đoạn trừ 5 triền cái, chứng sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, chứng túc mạng trí, thiên nhãn trí, lậu tận trícuối cùng được giải thoát giác ngộ.

Nay chúng tôi đề cập tới lý duyên khởi để giải thích vai trò của trí tuệ, lấy con người làm đối tượng để tuệ quán, và từ nơi đây, vừa tìm được công thức đưa đến sự có mặt của con người và sự tập khởi của toàn bộ 5 thủ uẩn, vừa tìm được công thức duyên diệt, đưa đến sự chấm dứt sanh tửtoàn bộ 5 thủ uẩn này, như đã được diễn tả trong Kinh Ái Tận Ðại Kinh (Trung I trang 261b). Trước hết, Ðức Phật đặt vấn đề sự có mặt của con người (Bhùta), sự có mặt này lấy bốn thức ăn làm nhân duyên, làm tập khởi, làm sanh chủng, làm hiện hữu, và một khi bốn món ăn này đoạn diệt thì cũng chấm dứt sự có mặt của sinh vật này. Sinh vật đã do 4 món ăn làm tập khởi, ái do thọ làm tập khởi, thọ do xúc làm tập khởi, 6 xứ làm tập khởi, 6 xứ do danh sắc làm tập khởi, danh sắc do thức làm tập khởi, thức do hành làm tập khởi, hành do vô minh làm tập khởi. Như vậy duyên vô minh có hành, duyên hành có thức, duyên thức có danh sắc, duyên danh sắc có 6 xứ, duyên sáu xứ có xúc, duyên xúc có thọ, duyên thọ có ái, duyên ái có thủ, duyên thủ có hữu, duyên hữu có sanh, duyên sanh có già chết, sầu bi ưu não. Như vậy là sự tập khởi của 5 thủ uẩn.

Như vậy, do duyên sanh nên có già chết, do duyên hữu nên có sanh, do duyên thủ nên có hữu, do duyên ái nên có thủ, do duyên thọ nên có ái, do duyên xúc nên có thọ, do duyên sáu xứ nên có xúc, do duyên danh sắc nên có sáu xứ, do duyên thức nên có danh sắc, do duyên hành nên có thức, do duyên vô minh nên có hành. Như vậy Ðức Phật xác chứng duyên sanh của toàn bộ khổ uẩn tức là con người với công thức: “cái này có mặt, cái đây có mặt. Cái này sanh cái đây sanh”. (Imasmim sati idam hoti. Imass uppadà, idam uppajjati).

Từ lý duyên sanh, Ðức Phật đi đến lý duyên diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt, nên già chết, sầu khổ ưu não diệt. Như vậy là toàn bộ 5 thủ uẩn diệt.

Như vậy, do sanh diệt nên già chết diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do vô minh diệt nên hành diệt. Như vậy Ðức Phật xác chứng lý duyên diệt với công thức: “Cái này không có mặt, cái đây không có mặt. Cái này diệt, cái đây diệt.” (Imasmim asati, idam na hoti. Imassa nidrodhà, idam nirajjhati). Vị hành giả, với trí tuệ biết được hai công thức duyên sanh và duyên diệt, nên sau khi giữ giới, sau khi chứng bốn thiền định, khi 6 căn tiếp xúc với sáu trần, vị ấy không tham ái đối với 6 trần khả ái, không ghét bỏ đối với sáu trần không khả ái, vị ấy sống an trú niệm trên thân, với một tâm vô lượng. Vị ấy như thật tuệ tri tâm giải thoát tuệ giải thoát, chính nhờ chúng, các bất thiện pháp được trừ diệt một cách hoàn toàn. Như vậy vị ấy từ bỏ thuận ứng nghịch ứng, có cảm thọ nào khởi lên, vị ấy không tùy hỷ không hoan nghênh, không đắm trước thọ ấy. Vì vị ấy không có tùy hỷ, không hoan nghênh, không đắm trước thọ ấy, nếu có nandi (dục hỷ) khởi lên, đối với các cảm thọ, dục hỷ ấy được trừ diệt không có dư tàn. Do dục hỷ của vị ấy diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên sầu bi khổ ưu não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của 5 thủ uẩn này.

Như vậy, với những đối tượng sai khác như 5 thủ uẩn, và các lậu hoặc, các sở kiến, các vọng tưởng hý luận, các bất thiện tầm và các thiện tầm, lý duyên khởi, trí tuệ đóng một vai trò then chốt trong trách nhiệm tuệ tri các đối tượng cuối cùng đoạn tận được các lậu hoặc để chứng quả A La Hán.

Ðể nêu rõ định nghĩa và vai trò của trí tuệ hơn nữa, chúng tôi ghi chép sau đây, một vài câu Phật dạy trích dẫn từ Kinh Tạng Pali để chứng minh các sự giải thích trên:

“Tất cả hành vô thường

Với Tuệ, quán thấy vậy,

Ðau khổ được nhàm chán,

Chính con đường thanh tịnh.

 

Tất cả hành khổ đau

Với Tuệ, quán thấy vậy,

Ðau khổ được nhàm chán,

Chính con đường thanh tịnh.

 

Tất cả pháp vô ngã

Với Tuệ, quán thấy vậy,

Ðau khổ được nhàm chán,

Chính con đường thanh tịnh.

(Pháp cú 277, 278, 279)

 

“Thấy khổ và khổ tập

Thấy sự khổ vượt qua,

Thấy đường Thánh tám nghành,

Ðưa đến khô não tận”.

(Pháp cú 191)

 

“Mắt thịt, mắt chư Thiên,

Vô thượng mắt trí tuệ,

Cả ba loại mắt ấy

Ðược bậc vô thượng nhân,

Ðã tuyên bố trình bày...

Từ đây trí khởi lên.

Tuệ nhãntối thượng

Ai chứng được mắt ấy

Giải thoát mọi khổ đau”.

(Phật thuyết như vậy, trang 457-458).

 

------------------------------ 

Bị chú: Bài này có một số chữ viết tắt như sau :

Trung =Kinh Trung Bộ

D =Dìgha Nikàya (Trường Bộ Kinh

Tương = Kinh Tương Ưng

Tăng = Kinh Tăng Chi

PC = Pháp Cú


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5266)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5829)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7438)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6375)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5970)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4751)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5687)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5860)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6120)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6598)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5950)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7060)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6674)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4791)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4930)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7717)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9820)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7519)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5331)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6428)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5416)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5839)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6395)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5700)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6440)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7070)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6276)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10656)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6670)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6165)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6720)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6123)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6485)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5519)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8243)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5737)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7564)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6255)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9663)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4071)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6397)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4175)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4306)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4765)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5318)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5287)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5823)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6781)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5552)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4498)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5335)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 4995)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4358)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6877)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4613)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8415)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7220)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8369)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7507)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7572)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant