Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết giảng tại chùa Quang Minh - Úc Đại Lợi

26 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 28513)
Đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết giảng tại chùa Quang Minh - Úc Đại Lợi
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
THUYẾT GIẢNG TẠI CHÙA QUANG MINH - ÚC ĐẠI LỢI
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 04/06/2012


dalailama-australia-0Các anh chị em tâm linh thân mến, đặc biệt với cộng đồng Tăng Già Việt Nam, và tôi nghĩ có một số vị sư cô ở đây, Tì kheo ni, có phải không?

Tôi thật sự vui mừng với lần thứ hai tôi thăm viếng nơi này, với một ngôi chùa mới và rất lớn, hết bao nhiêu tiền đấy? (mọi người cười)

Tôi nghĩ Đạo Phật là một tôn giáo cổ xưa từ Ấn Độ rồi lan truyền qua Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Cam pu chia, Lào, Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn rồi thì sau nàyTây Tạng, Mongolia và một bộ phận ở Liên Bang Nga, những vùng này theo Đạo Phật, và Ấn Độ là chiếc nôi của Đạo Phật nhưng đại đa số quần chúng là Ấn Giáo, cũng như Hồi Giáo, Ki Tô Giáo, và những đạo khác. 

 Nhưng thế nào đi nữa, chúng ta đang ở trong thế kỷ 21, kỹ thuật phát triển cao độ. Tôi nghĩ trong một hay hai thế kỷ qua. Tất cả mọi nỗ lực, tất cả mọi năng lượng đều tập trung trong sự phát triển kinh tế, về tiền (cười). Bây giờ tôi nghĩ, ngay chúng ta thật sự mở rộng trong yêu cầu của tiền, tất cả những sự lũng đoạn, tất cả những kỹ thuật nhơ bẩn nhằm để kiếm ra tiền. Có phải thế không? Tôi nghĩ tiền thật sự đầu độc nguyên tắc đạo đức của chúng ta. Tôi thật sự nghĩ thế! Và rồi trong khi ấy không chỉ nguyên tắc đạo đức bị suy đồi mà tiền cũng làm gia tăng ghen tỵ, nghi ngờ và rồi thì là thất vọng và đưa đến kết quả giận dữ, bạo động.

Vậy thế nào đi nữa, một điều rất rõ ràng, chỉ đơn thuần vật chất sẽ không mang đến hòa bình nội tại, điều ấy là chắc chắn. Bởi vì tiền mang đến tiện nghi làm thoải mái thân thể chứ không phải tâm hồn.

dalailama-australia-1

Chánh điện Chùa Quang Minh

Trong siêu thị nếu quý vị thử tìm mua sự bình an của tâm hồn, không thể được. Hay tất cả những cửa hàng dụng cụ kỹ thuật, nếu quý vị hỏi mua một khí cụ để làm an ổn tinh thần; không [không thể có]. Sự hòa bình của tâm tư phải đến từ bên trong, bởi vì đa số những sự quấy rầy an bình nội tại là cảm xúc của chúng ta. Không phải những kẻ thù ngoại tại, không phải những kẻ gây rối bên ngoài mà những yếu tố tàn phá tâm thức chúng ta chính là những cảm xúc tiêu cực của chính chúng ta. Vậy thì một cách tự nhiên, một cách hợp lý, một phương pháp hiệu quả để làm giảm thiểu những cảm xúc tàn phá phải được phát triển trong tâm thức, từ chính những cảm xúc ấy.

Nên ngày nay tôi cũng nói với mọi người, trong vài nghìn năm trước, tôi nghĩ bốn, năm nghìn năm, chúng ta mở mang tín ngưỡng, và chúng ta đặt trọn niềm hy vọng của chúng ta vào tín ngưỡng, bất cứ khi nào chúng ta gặp khó khăn, chúng ta [chấp tay lại] cầu nguyện đến Thượng Đế hay điều gì đấy, điều gì đấy huyền bí. Rồi thì ba trăm năm trở lại đây khoa học, kỹ thuật phát triển. Rồi khoa học, kỹ thuật lập tức mang đến cho chúng ta... tiện nghi sẵn sàng, mọi thứ trở nên dễ dàng nên con người tự nhiên chú ý hơn với khoa học và kỹ thuật hơn là tín ngưỡng. Rồi thì sau này vào thế kỷ 20 qua kinh nghiệm cuối cùng chúng ta nhận ra sự giới hạn của giá trị vật chất.

Tôi biết một số gia đình rất giàu có tôi nghĩ là tỉ phú, những người ấy ở trình độ con người là những người rất không vui. Họ có hàng triệu triệu đô la nhưng thất bại trong việc mang niềm vui nội tại, rất rõ ràng.

 Và rồi một vấn đề khác nữa, trong những nhà khoa học, kiến thức của họ về não bộ, về thần kinh, những thứ này rất phát triển. Rồi cuối cùng họ thích thú về vấn đề cảm xúc là gì? Tâm thức là gì? Bởi vì y học, họ chỉ chú ý đến mảng tâm thức thật sự rất quan trọng đến sức khỏe lành mạnh, cũng như hồi phục từ bệnh tật, từ giải phẫu, một mảng tâm thức... rất quan trọng đối với họ. Cho nên bây giờ y học, cũng như những nhà chuyên môn về não bộ. Một số nhà khoa học hàng đầu thật sự biểu lộ sự hấp dẫn với vấn đề, cảm xúc là gi? Mối quan hệ giữa cảm xúc và não bộ là thế nào?

Bây giờ, những ngày này, trong những nhà khoa học ưa thích việc rèn luyện tâm thức với giải phẫu não bộ, với những chất kích thích trong não bộ. Qua việc rèn luyện tâm thức, thật sự có thể thay đổi,...Lần đầu tiên họ khám phá ra việc này. Nên qua việc rèn luyện tâm thức ngay cả những bộ phận vật lý có thể thay đổi. Vì vậy, hai nhân tố, từ kinh nghiệm giới hạn, hay giá trị vật chất. Và mặt khác sự nghiên cứu khoa học, bắt đầu tập trung vào vấn đề, tâm thức là gì? Làm thế nào để thay đổi tâm thức chúng ta? Thay đổi cảm xúc chúng ta như thế nào? 

Vì những nhân tố này, có những biểu lộ, đặc biệt trong những người trẻ tuổi đã bắt đầu khuếch trương những quan tâm về các giá trị nội tại, tâm linh. Tôi nghĩ đấy là hình ảnh thế giới của thế kỷ 21. Rồi thì tôi cũng nghĩ con người ở khắp mọi nơi, đặc biệt ở Âu châu, và Hoa Kỳ, tôi nghĩ là thật sự chán ngấy với bạo động, Úc châu so sánh chắc khá hơn (cười).

Nên con người, tôi nghĩ con người ở buổi đầu thế kỷ trước, khi quốc gia tuyên chiến với lân bang, dân chúng cả nước, tự hào, không thắc mắc gì, tham gia nỗ lực chiến tranh. Tình thế như vậy hoàn toàn thay đổi và cuối thế kỷ. Và bắt đầu thế kỷ 21, thí dụ khi Hoa Kỳ sắp bắt đầu chiến tranh với Iraq, bao nhiêu người từ Hoa Kỳ đến Úc Đại Lợi phản đối bạo động và muốn hòa bình qua biểu tình. Và dĩ nhiên,nhiều người quan tâm, những quốc gia quan tâm chống lại chiến tranh, chống lại bạo động, chống lại việc sử dụng bạo lực. Nên họ thật sự khao khát hòa bình. Hoàn toàn chán ngấy với bạo động. Vì thế, một lần nữa, câu hỏi là, làm thế nào mang hòa bình đến?

Hòa bình không có nghĩa là không có những rắc rối khác. Cho đến khi mà con người còn tồn tại trên hành tinh này, những vấn nạn nào đấy bắt buộc phải xảy ra. Do bởi nhận thức của con người, lòng tham của loài người, khao khát của loài người. Nên vấn nạn sẽ tiếp tục tồn tại. Bây giờ chúng ta cần phương pháp thực tiễn để giải quyết xung đột, sự không đồng ý này. Nên đấy là đối thoại. Tôi thường nói với mọi người, thế kỷ 20 trở thành thế kỷ của tắm máu, căn cứ theo lịch sử, khoảng hai trăm triệu người bị giết một cách bạo động qua chiến tranh, một con số đáng kinh hoàng.

Nếu một cuộc chiến lan rộng sử dụng vũ khí nguyên tử, mà nó có thể mang đến hòa bình, giảm thiểu rắc rối thì cũng okay, nó cũng chính đáng. Nhưng không phải như thế. Chỉ có khổ đau. Cho nên, bây giờ thế kỷ 21 chúng ta phải làm cho nó là thế kỷ của đối thoại.

Nhằm để mang đến đối thoại, chúng ta cần sự tôn trọng tâm linh đối với quyền lợi của người khác. Không chỉ là sự quan tâm của tôi, sức mạnh của tôi và dửng dưng với sự quan tâm của người khác thì làm sao đối thoại. Nên trong sự tôn trọng ấy, tinh thần chân thành với tình anh chị em, toàn thể gần bảy tỉ người có thể xem như những người anh chị em, chúng ta phải chăm nom đến sự quan tâm của họ. Với loại thái độ như thế thì sự đối thoại đầy đủ ý nghĩa mới có thể phát triển.

Nên trong sự quan tâm ấy, căn bản truyền thống ấy... là một khả năng vô hạn để đem đến tình anh chị em chân thành. Mọi truyền thống tôn giáo đều có cùng khả năng, cho dù khác biệt triết lý. Có những tôn giáo hữu thần như Ki Tô Giáo,... niềm tin chủ yếu của họ là Thượng Đế. Những tín ngưỡng vô thần như Phật Giáo, Kỳ Na Giáo, và một số tư tưởng cổ truyền khác nữa của Ấn Độ không có khái niệm Thượng Đế, không có đấng tạo hóa, nhưng tự chính chúng ta là tạo hóa. Nên triết lý là rất khác biệt, nên theo quan điểm của những tôn giáo hữu thần, những Phật tử chúng ta là người không có đức tin (tín ngưỡng vô thần).

Nên tất cả mọi tôn giáo, mặc dù khác biệt triết lý nhưng cùng mang một giáo huấn, cùng một sự thực hành về từ ái, bi mẫn, tha thứ, bao dung, tự giác. Tất cả những thứ này là cùng như nhau về thực hành, cùng giống nhau trong một thông điệp. Nên tất cà mọi tôn giáo quan trọng đều có cùng khả năng để hỗ trợ con người.

Bây giờ về Phật Giáo, Đạo Phật ngày nay tôi nghĩ, như tôi đã đề cập trước đây, cũng bao hàm những sự thực tập về từ ái, bi mẫn, tha thứ, bao dung, ... như những tôn giáo quan trọng. Rồi thì khía cạnh triết lý rất phức tạp. Như Đại Học Tu Viện Na Lan Đà, không chỉ là một trung tâm Phật Giáo, nhưng là một trung tâm chuyên môn, một học viện hàn lâm. Và nhiều đạo sư Na Lan Đà, tôi thường diễn tả là những giáo sư của Na Lan Đà. Những đại sư này đã sáng tác, thật sự là những chủ đề chuyên môn, các ngài tiến hành khảo sát: Thực tại là gì? Bản chất là thế nào? Bản chất của vật chất, bản chất của tâm thức. Phần ấy tôi cho là khoa học. Không phải là tôn giáo mà là khoa học.

Trong ba mươi năm qua, ô không, trong khoảng bảy năm qua, tôi đã dấn thân một cách nghiêm túc với những nhà khoa học hiện nghiên cứu xa hơn về tâm thức, về cảm xúc, kiểm soát cảm xúc này như thế nào. Bây giờ khoa học, thí dụ ở Hoa Kỳ, Đại Học Wisonsin, Emory và Stanford và một vài đại học nữa, họ thật sự tiến hành công việc nghiên cứu về tâm thức theo sự giải thích của Đạo Phật về tâm. Họ đã tìm thấy những thông tin hữu ích từ tài liệu cổ điển của Ấn Độ về vấn đề này, không chỉ Phật Giáo mà cũng của Ấn Giáo.

Cho nên có một số người vốn duy trì khoảng cách với bất cứ tôn giáo nào, nhưng trong con mắt của họ Đạo Phật bây giờ là một ngoại lệ. Bởi vì nó không nhất thiết liên hệ với những khái niệm của Đạo Phật về kiếp sống tới, nghiệp báo,... những thứ này, nhưng mà là về khoa học tâm thức của Phật Giáo, về cảm xúc. Nên hoàn toàn rõ ràng rằng, theo kinh nghiệm trong ba mươi năm qua của tôi, bây giờ rất rõ ràng, khoa học Phật Giáo chắc chắn có thể có những cống hiến nổi bật trong khoa học hiện đại liên hệ đến tâm thức cảm xúc, những thứ này.

Bây giờ, đối với người Việt Nam, một cách truyền thống là một quốc gia Phật Giáo. Về truyền thống Phật Giáo, có truyền thống tiếng Phạn và tiếng Pali, chúng ta cùng theo truyền thống Phạn ngữ, chúng ta cùng theo truyền thống Na Lan Đà, những học giả Na Lan Đà như Mã Minh, Long Thọ, Vô Trước,..., tất cả những đạo sư Na Lan Đà này, những giáo sư này, chúng ta cùng kế tục giáo huấn của những vị này.

Và một khía cạnh khác, người Việt Nam đã trải qua những thời điểm khó khăn, chúng tôi cũng thế (cười), trong ý nghĩa ấy chúng ta thật sự là những người anh chị em (cười). Những thời gian thay đổi, có những vị tăng ni từ Việt Nam đến Ấn Độ để học hỏi Giáo huấn, nghe giảng dạy ở đấy. Dường như thay đổi, và ngay cả có những thân quyến của các lãnh tụ Cộng Sản đã đến đấy. Nên sự việc đang thay đổi. Nên thế nào đi nữa những người Việt Nam nào sống trong những quốc gia như Pháp, Mỹ, cũng như Úc, bất cứ quý vị sống nơi nào, quý vị mang trong mình truyền thống của quý vị, tâm linh của quý vị. Do thế, ở Úc Đại Lợi, vốn là một quốc gia không phải theo Đạo Phật, vốn là một đất nước Ki Tô Giáo, nhưng quý vị đã tìm ra một nơi để thiết lập chùa viện của quý vị, nhằm để giữ gìn tâm linh Phật Giáo của quý vị, tôi thật cảm phục.

dalailama-australia-2

Một khác biệt nhỏ là Việt Nam là một đất nước rất nóng nhưng quý vị mặc áo tay dài. Còn Tây Tạng là một đất nước rất mát, nhưng tay tôi để trần - không có tay áo (ngài đưa tay phải ra - mọi người cười).

Bây giờ, bất cứ những Phật tử nào, dù là người Hoa, Nhật, Hàn, Việt, Thái, Tích Lan, Miến Điện, và Tây Tạng, Mongolia... tôi luôn luôn tuyên bố rằng: Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản

Một cách truyền thống, chúng ta tự cho là Phật tử nhưng thật sự không biết Đạo Phật là gì. Tôi thường đùa những Phật tử Trung Hoa rằng, thật không phải [đúng nghĩa Phật tử khi chỉ chấp tay và nói] A Di Đà Phật, A Mi Tò Phù, A Mi Tò Phù! (Cười). Và với người Tây Tạng tôi thường đùa với họ rằng, trì niệm một mật ngôn nổi tiếng, Lục tự đại minh chơn ngôn của Quan Âm, Án Ma Ni Bát Di Hồng, Om Mani Padme Hum, Om Mani Padme Hum,..., khi quý vị đọc nhanh, giống như, om moni, moni, moni,... (mọi người cười) âm thanh ấy nghe giống như money, money,...(money = tiền). Cho nên, không có kiến thức, không biết ý nghĩa và rất thường khi tôi gặp những Phật tử Ấn Độ hay Tây Tạng..., những sinh viên, khi tôi hỏi họ: - Tôn giáo của quý vị là gì? Họ trả lời: Phật Giáo. Sau đó tôi hỏi, Phật là gì? Không có câu trả lời. Không biết. Đức Phật được xem như chỉ là một nhân vật lịch sử. Thế ấy là không đủ. Quý vị phải biết Đạo Phật thật sự là gì! Và cũng như những người Ki Tô, quý vị phải biết điều Chúa Giê-su dạy thật sự là gì! Chỉ tự nhận là Ki Tô hữu, làm dấu thánh giá là không đủ.

Vì thế, như Phật Pháp mà tôi đã đề cập phía trước là một triết lý phong phú toàn triệt nên chúng ta phải học hỏi nghiên cứu những thứ này.

Trước nhất là khoa học Phật Giáo, trên căn bản của khoa học Phật Giáo rồi thì triết lý Phật Giáo phát triển, như hai chân lý, bản chất vô thường, và duyên khởi tương sinh, những quan điểm triết lý này được phát triển trên căn bản của thực tiễn. Đấy là khoa học Phật Giáo. Rồi thì điều này có thể thay đổi tâm thức chúng ta, có thể giảm thiểu cảm xúc tàn phá, và cuối cùng có thể hoàn toàn tiêu trừ hoàn toàn những cảm xúc tàn phá. Đấy là niết bàn, giải thoát, hay cứu độ.

 Nên trên căn bản của khoa học, triết lý Phật Giáo, nhận thức Phật Giáo phát triển, sau đó theo nhận thức Phật Giáo rồi thì thực tập Phật Pháp. Do vậy, người Phật tử chân thật phải nên biết triết lý Phật Giáo, khoa học Phật Giáo. Bằng trái lại việc thực hành tôn giáo chỉ như tập tục, theo thói quen không có ý nghĩa gì nhiều.

dalailama-australia-3

Do thế, các anh chị em Phật tử của tôi, xin hãy học hỏi thêm nữa. Và việc thăm viếng chùa viện và ở trước Đức Phật phát lời cầu khẩn, trì niệm thì không đủ, chúng ta phải học hỏi những điều Đức Phật dạy bảo thật sự là gì. Và học hỏi theo căn bản lời dạy của Đức Phật được soạn thảo chi tiết bởi chư vị tổ sư Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân,... tất cả những đại sư của Na Lan Đà giảng giải kỹ lưỡng. Và nếu có thể, nghiên cứu Luận học Phật Giáo, luận lý học, của các tổ sư Trần Na, Pháp Xứng, Nguyệt Xứng, Liên Hoa Giới,... Trong Tạng ngữ, những luận điển của các ngài trên đã được dịch ra rất tiện dụng. Tôi được nghe nói là trong đại tạng Trung Hoa không có những dịch phẩm này, hoặc chỉ có một phần nào thôi, chưa được dịch ra hết. Hiện tại đã có một số hoạt động để chuyển dịch ra Hoa ngữ, đã được bắt đầu rồi. Cuối cùng, những luận điển này sẽ hiện diện bằng Hoa ngữ. Và sau đó sẽ được diễn dịch dễ dàng sang Việt ngữ, Hàn ngữ và Nhật ngữ. Rõ ràng chứ!

Xin hãy chú ý thêm trong việc học hỏi, nghiên cứu. Học hỏi, nghiên cứu! Rồi thì đức tin căn cứ trên tri thức trọn vẹn, đức tin ấy sẽ sâu sắc hơn nhiều, điều ấy là quan trọng!

Chân thành cảm ơn! Đấy là tất cả.

Tôi hy vọng sau này, chánh điện này không chỉ để cầu nguyện mà cũng là lớp học, nơi để học tập. Tôi hy vọng như thế. Nên lần sau đến đây, tôi hy vọng cũng thấy lớp học của quý vị. (Cười).

*

Nguyên tác: Dalai Lama visit Quang Minh Temple 2011
Ẩn Tâm Lộ ngày 7/6/2012
http://www.youtube.com/watch?v=HVIlt-b-1ZE&feature=related
http://www.youtube.com/watch?feature=endscreen&NR=1&v=2Es9-Y7-8MQ

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6105)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9983)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7085)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7333)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6988)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9350)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5833)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7099)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6520)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6097)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7160)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14379)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20427)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9468)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7865)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8184)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7447)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9372)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7443)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7478)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7664)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9468)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8774)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7367)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7956)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7008)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7665)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9854)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8281)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8831)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7666)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8824)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8628)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 7999)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9009)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9424)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8728)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8880)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7222)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9182)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8596)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7888)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9616)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10164)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8757)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8360)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7620)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9323)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7471)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15347)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7295)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8474)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12227)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7299)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11492)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8309)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8032)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7902)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8917)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7405)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant