Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo

23 Tháng Chín 201200:00(Xem: 15596)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo

TIẾNG NÓI CỦA PHẬT PHÁP
& TƯƠNG LAI PHẬT GIÁO


Nguyên Hiệp dịch


nguyen_hiep

Chúng ta đang sống ở một thời đại đặc biệt. Phật pháp bây giờ đã được khắp thế giới biết đến. Phật pháp được thực hành ở những vùng đất mới, trong dân chúng với những truyền thống và mối quan tâm khác nhau. Phật pháp đang đóng góp vào một nền văn hóa mới toàn cầu.
Điều này thật thú vị và phấn khích. Và là những Phật tử chúng ta có thể hân hoan khi thấy rằng năng lực chữa trị của lời dạy Đức Phật đang được người ta lắng nghe khắp nơi. Nhưng có một mặt khác của việc phát triển này. Việc truyền bá Phật pháp đến một nền văn hóa mới, đặc biệt khi nền văn hóa đó đang gia tăng ưu thế toàn cầu, tạo ra cho Phật giáo những nguy cơ.

Tôi xin nói rõ nguy cơ này. Thế giới hiện đại đã phát triển mà không có sự hiểu biết về Pháp (Dharma). Những thực hành, giá trịquan điểm hiện đại được đặt cơ sở nơi những khái niệm, sự nhận thứcniềm tin mà chúng thường trái ngược với lời dạy của Đức Phật. Đây là nơi nguy cơ tiềm tàng. Nếu những người phương Tây thích ứng với Phật giáo quá nhanh chóng, nhìn nó bằng con mắt hiện đại, kết quả có thể làm tổn hại Phật giáo. Phật giáo có thể bị sáp hợp hay bị loại bỏ: không phải một cách cố ý, mà chỉ vì thế giới hiện đại thiếu khả năng hiểu và thực hành Phật pháp ở một tầm mức sâu.

Nhưng nguy cơ thậm chí còn lớn hơn điều này. Cách hiểu hiện đại về thực tại đang trở thành cái hiểu toàn cầu về thực tại. Nó đang biến đổi những nền văn hóa truyền thống, bao gồm những nền văn hóa mà ở đó giáo pháp Đức Phật đã đặt nền tảng cho việc tìm kiếm ý nghĩa trong đời sống. Nếu việc hiểu của chúng ta về Phật pháp phản ảnh những sự phát triển hiện đại này, thì một sự giải thích méo mó và hạn chế về giáo pháp có thể gây hiểu nhầm về những lời dạy chân thật của Đấng Giác ngộ. Nếu điều này xảy ra, Phật giáothể không còn nữa đối với loài người.

Văn hóa hiện đại là nguồn của công nghệ đáng kinh ngạc và của tri thức khoa học sâu sắc. Những thành tựu của nó, mà chúng ta thường chấp nhận không chút phân vân, đã giúp chúng ta từ khắp mọi nơi trên thế giới đến đây; chúng khiến cho hội nghị lớn này nghe được lời nói của tôi. Tuy nhiên nền văn hóa giống nhau này vô cùng hỗn loạn. Khắp mọi nơi, người ta đang trôi dạt không phương hướng giữa một đại dương mênh mông không đảm bảohỗn độn. Xung độtđối kháng sâu sắc đe dọa nhấn chìm thế giới này trong tranh chấp. Những thế lực quyền lực tiêu cực tạo nên hiểm nguy cho tất cả loài người. Họ thậm chí đe dọa trái đất, nơi chúng ta nương náu, nơi chúng ta tìm kiếm hạnh phúcý nghĩa đời sống.

Chính ở bên trong nền văn hóa này, với tất cả sự yếu kém, mâu thuẫn và gãy vỡ của nó, Phật giáo sẽ phải định hướng đi của mình. Hơn 2.500 năm qua, Phật pháp đã hướng dẫn nhiều người. Tuy nhiên bây giờ, Phật pháp đang sống ở một thế giới mới xa lạ, một thế giới mà nó nói một ngôn ngữ khác và nhìn thực tại bằng một cách thức khác. Trong bối cảnh mới này, Phật pháp sẽ phải học cách nói bằng một tiếng nói mới. Bằng cách nào đó, Phật phápxã hội hiện đại phải đi vào đối thoại.

Là những Phật tử thuần thành, tin chắc vào giá trị của Phật pháp ở nơi chính xã hội của chúng ta và đối với thế giới nói chung, chúng ta phải giúp Phật pháp tìm được tiếng nói mới này, để Phật pháp có thể tiếp xúc với thế giới hiện đại, làm cho thế giới lắng nghe theo những phương cách không làm méo mó giáo pháp. Nếu chúng ta quay lưng lại với những khuynh hướng đang định hình nên thế giới ngày nay, nếu chúng ta nói chuyện với những người thực hành Phật pháp khác bằng những phương thức cũ và bằng những ngôn ngữ cũ, chúng ta sẽ hoàn toàn không nói được với ai cả. Thế giới sẽ quay mặt với Phật pháp. Nếu chúng ta không thể tìm ra được một tiếng nói cho Phật pháp nghe lớn và rõ hơn, vượt lên trên sự ồn ào huyên náo của thế giới khích động này, khả năng để Phật pháp làm lợi ích tất cả loài người ở thời điểm này sẽ không bao giờ được thực hiện.

Thế giới hiện đại thưởng công những người nói lớn. Ngày nay cả ngàn tiếng nói hét vang lên từ mỗi góc phố, từ mỗi màn hình máy tính. Chúng luôn đưa ra điều mới tiếp theo. Sẽ là một nhầm lẫn khi cố hét át chúng, cạnh tranh sự chú ý nơi một đấu trường của giải trí và những quan tâm luôn thay đổi. Đức Phật khiển trách những lời nói vô bổ, khiển trách những lời nói đưa tinh thần con người rời xa những giá trị sâu sắc hơn. Sự cảnh báo này quan trọng hơn ngày hôm nay, khi mà thị trường đi theo chúng ta vào tận nhà và vào trong đầu của chúng ta, tràn lanthâm nhập khắp mười phương. Nếu người thực hành Phật pháp bằng lòng sử dụng ngôn ngữ của thị trường, họ sẽ đưa ra một con đường tâm linh quá ư đơn giản được thiết định để làm cho người ta cảm thấy tốt cho họ, hơn là để chỉ một con đường giải thoát. Tất cả chúng ta biết những điều đó có thể kết thúc như thế nào, và những kết quả sẽ hết sức buồn chán như thế nào. Không… tiếng nói của Phật pháp cho thời hiện đại phải nói bằng một nhịp điệu và âm giọng khác. Nó phải thể hiện độ sâu và tầm nhìn rộng của lời dạy Đức Phật. Điều đó không bao giờ là một nhiệm vụ dễ dàng. Bây giờ nó càng khó khăn hơn bao giờ hết.

Tất nhiên, chúng ta không thể từ bỏ. Chúng ta phải nỗ lực hết mình. Ở đây tôi muốn tập trung vào một khía cạnh cụ thể của trách nhiệm này. Tại thời điểm quan trọng nơi lịch sử Phật pháplịch sử thế giới này, chúng ta phải nhằm đến việc trao tiếng nói cho Phật pháp bằng những ngôn ngữ của phương Tây, mà không đánh mất tinh thầný nghĩa của Phật pháp khi chúng ta làm như vậy.

Cho phép tôi nói điều này rõ hơn. Bây giờ và những năm đến, Phật giáo phải học nói tiếng Anh. Tại sao? Bởi vì tiếng Anh đang nhanh chóng trở thành ngôn ngữ chung của thế giới. Nhưng tiếng Anh chúng ta sử dụng bây giờ là ngôn ngữ của kinh doanh và thương mại, ngôn ngữ của giải trí và công nghệ, ngôn ngữ được thiết định để nói với chúng ta những cái mới của “cái mới tiếp theo”. Dạng tiếng Anh đó hoàn toàn không giúp hiểu được ý nghĩa đầy đủ giáo pháp thâm sâu của Đức Phật. Do vậy công việc sắp đến là lớn hơn trước đây chúng ta có thể tưởng tượng. Công việc chuyển dịch kinh Phật sang tiếng Anh đã được thực hiện hơn một thế kỷ, và nhiều việc đã được thực hiện. Nhưng bây giờ không chỉ cần có thêm những bản kinh được chuyển dịch, mà còn cần một giải pháp hoàn toàn mới. Nếu các bản dịch không chứa đựng được ý nghĩa đầy đủ của Phật pháp, có nghĩa chúng chưa được chuẩn bị đủ. Chúng ta phải mạnh dạn hơn. Chúng ta phải thực hiện mục đích là biến tiếng Anh thành một ngôn ngữ của Phật pháp.

Tại sao thực hiện công việc này là thực sự quan trọng? Tại sao tiếng Anh phải trở thành một ngôn ngữ của Phật pháp? Bởi vì những ngôn ngữ Phật pháp mà chúng phục vụ chúng ta qua hàng thế kỷ đang có nguy cơ biến mất. Có bao nhiêu người ngày hôm nay có thể đọc được tiếng Pāli? Có bao nhiêu người ngày hôm nay biết tiếng Sanskrit hay những ngôn ngữ khác của Phật giáo Đại thừa? Nếu chúng ta nhìn về trước thêm 20 hay 50 năm nữa, có bao nhiêu người còn biết đến những ngôn ngữ này? Sự hợp lý nội tại của một xã hội đang gia tăng tính toàn cầu đòi hỏi rằng dân chúng của thế giới phải nói cùng một ngôn ngữ. Nếu Phật pháp không thể tìm thấy tiếng nói của mình ở nơi ngôn ngữ đó, nếu nó không thể nói ngôn ngữ đó với đầy đủ thẩm quyền, tính chính xác và chiều sâu của nó, nó sẽ không có vị trí nơi nền văn hóa toàn cầu mới mẻ.

Một vài người có thể đáp lại rằng Phật pháp đã nói tiếng Anh rồi. Xét cho cùng, chúng ta ở đây, tập trung lại với nhau từ tất cả mọi nơi trên thế giới, chia sẻ quan điểm của chúng ta bằng tiếng Anh. Vậy không phải chúng ta có một ngữ vựng Phật pháp chung rồi sao? Chúng ta không phải đã có thể trình bày giáo pháp đến thế giới hiện đại rồi sao?

sự thật nơi lời khẳng định này. Những vị thầy lớn đang dần học cách trình bày giáo pháp bằng tiếng Anh, hay nói thông qua những người phiên dịch đã học sâu giáo pháp. Những người Tây phương cũng đang học và thực hành theo những con đường xưa, để họ có thể chia sẻ với người khác lợi ích của việc thực hành của họ. Và nếu những nỗ lực để tái thiết lại Phật phápẤn Độ được tiếp tục, những nỗ lực mà ở đó tôi tự hào đóng một vai trò nhỏ, thì triển vọng sẽ sáng sủa hơn, vì Ấn Độduy nhất trong việc kết hợp những truyền thống tâm linh vững mạnh với một sự am hiểu sâu về tiếng Anh.

Lại nữa, để ỷ lại vào những sự phát triển này, để nghĩ rằng những vấn đề sắp được giải quyết rồi, là bỏ qua một điểm cơ bản. Đây là một câu hỏi cần xem xét: Điều gì khiến chúng ta nghĩ rằng ngữ vựng tiếng Anh chúng ta sử dụng ngày nay trong những bài pháp thoại và những bản dịch của chúng ta là chuyển tải được sức mạnhchân lý của lời dạy Đức Phật? Ngay đối với những thuật ngữ căn bản nhất điều này có thể là một giả định sai lầm.

Một nhà thơ vĩ đại người Anh thế kỷ XIX, Percy Bysshe Shelly, từng viết rằng “những nhà thơ là những nhà lập pháp không được thừa nhận của cuộc đời”. Điều ông muốn nói là rằng những người trao cho chúng ta ngôn từ của chúng ta, những người tạo ra ngôn ngữ luôn thay đổi của chúng ta, sẽ định hướng cách chúng ta hiểu thực tại. Vì vậy chúng ta phải hỏi: những gì là thực tại mà những bản dịch và thuật ngữ tiếng Anh của ngày hôm nay xây dựng nên? Từ ngữ gì họ sử dụng để chuyển tải đến thính giả chân lý giáo pháp Đức Phật? Nếu những dịch giả chỉ nắm được nghĩa tương đương gần nhất của Tây phương về những thuật ngữ Phật học vốn có nghĩa uyên áo, thì thực sự có thể chuyển tải được bao nhiêu?

Điều này không phải là một quan tâm học thuyết hay học thuật. Xung quanh chúng ta, chúng ta có thể nhìn thấy những người Tây phương diễn đạt những quan điểm giới hạn của họ về chân lý huyền nhiệm mà Đức Phật đã thiết định. Ví dụ, có một xu hướng mạnh mẽ biến Phật giáo thành một giáo lý tự lực hơn, mà thật sự là phương cách khác dành cho những người bị vướng vào trong những chiếc bẫy của văn hóa hiện đại nhằm tìm kiếm sự khuây khỏa, thoát khỏi stress, lo lắng và rối trí. Nếu ngôn từ chúng ta sử dụng cho việc truyền bá Phật pháp có gốc rễ của chúng ở nơi nhưng quan tâmmục đích như vậy, làm cách nào ta có thể đưa con tim và tâm trí của những người lắng nghe ta đến việc giải thoát ra khỏi luân hồi? Ngay cả những vị thầy vĩ đại nhất cũng không thể truyền tải những gì ngôn ngữ sẽ không để cho họ nói.

Bị giáng xuống đến tầm mức này, giáo lý chân thực của Đức Phật sẽ bị đánh mất. Điều tệ hại là, những thế hệ tương lai sẽ không thể nhận biết những gì đã xảy ra. Họ sẽ không bao giờ biết rằng ý nghĩa nội tại của giáo pháp đã bị làm cho tan chảy.

Cho phép tôi đưa ra một vài ví dụ. Tất cả chúng ta nói về sự giác ngộ (enlightenment) của Đức Phật, lễ kỷ niệm lần thứ 2.600 mà chúng ta cử hành tại cuộc họp này. Nhưng từ “enlightenment” có đúng với sự giác ngộ của Đức Phật không? Thuật ngữ tiếng Anh “enlightenment” có phụ nghĩa lịch sử mà nó không phù hợp với Phật pháp. Nó được liên kết với khoa học và thế giới vật chất, liên kết với sự khẳng định rằng tính hợp lý quy ước và năm giác quan có thể truyền đạt phạm vi tổng thể của những gì là đúng, và liên kết với thẩm quyền của mỗi cá nhân để tuyên bố chân lý của riêng mình. Không có phụ nghĩa nào trong các nghĩa này phù hợp với Phật pháp. Chúng ta có thể làm cho tốt hơn không?

Lại nữa, từ sati (S. smṛti, niệm) thì hầu như được dịch là “mindfulness”. Ngày nay khái niệm “mindfulness” này thì rất phổ biến. Việc tu tập được gọi là mindfulness - được đặt cơ sở nơi việc làm giảm bớt căng thẳng đã mang lợi ích cho hàng chục ngàn người qua việc giảng dạy một sự thực hành được gọi là “sự chú ý đơn thuần” (bare attention). Đây rõ ràng là một sự phát triển tích cực. Tuy nhiên có phải “mindfulness” được hiểu như “bare attention” đưa đến trí tuệ (paññā/ prajñā) không, sự hiểu biết khai mở bản chất thật sự của các pháp? Khi chúng ta giải quyết quan điểm này, có phải chúng ta đang để Phật pháp nói bằng tiếng nói của chính nó không? Hay là chúng ta chỉ giữ chặt những chọn lựa được thực hiện mà không có sự hiểu biết chân thậtnghiên cứu cẩn thận.

Tôi đã chọn hai trường hợp này bởi vì chúng là căn bản, và bởi vì từ ngữ tiếng Anh tương đương với thuật ngữ Phật pháp trong mỗi trường hợp được thiết lập quá vững chắc. Đó là tôi không chạm đến ngữ vựng triết học phức tạp của Abhidharma và những truyền thống luận tạng, nơi sự hiểu biết chính xác và chuyển dịch đúng dựa vào những suy xét tinh tếphức tạp. Hãy xem từ “vedanā” (thọ), hầu như luôn được dịch là “feeling”. Những sinh viên mà tôi dạy từng gặp khó khăn với thuật ngữ này, bởi vì từ tiếng Anh “feeling” có một phạm vi nghĩa rộng hơn vedanā. Để cứu họ ra khỏi sự bối rối này, chúng ta phải nên nhìn bằng những đôi mắt sáng rõ vào cách thuật ngữ này đã được sử dụng khắp các kinh luận như thế nào. Chúng ta phải nhìn rõ vào cách nó được dịch sang những ngôn ngữ Phật pháp khác như Hán ngữ, Tạng ngữ, v.v… Sau đó, chúng ta phải tìm hiểu từ tiếng Anh “feeling” và phạm vi ý nghĩa của nó, cố gắng làm rõ và nói những giới hạn mà việc hiểu phương Tây về cách tâm thực sự đóng chức năng. Kết luận, tôi sẽ hỏi có một sự thay thế nào tốt hơn không, điều đáp ứng mục đích đầy đủ hơn.

Lại thêm một vấn đề cũng trong chiều hướng đối nghịch. Mới đây tôi có tham dự một hội nghị, ở đó nhiều học giả Tây phương giỏi nhất về Phật giáo đã thảo luận về vấn đề đạo đức học Phật giáo. Trong hầu hết mọi cuộc thảo luận, những câu hỏi căn bản đã được nêu ra. Có phải những thuật ngữ đạo đức (ethics) và “luân lý” (morality) thực sự chuyên chở được ý nghĩa của thuật ngữ “sīla/ śīla” (giới) không? Những thuật ngữ phương Tây như “tự do” (freedom) và “tự do ý chí” (free will) có giúp cho những sinh viên hiện đại học Phật pháp hiểu những gì muốn nói là giải thoát khỏi luân hồi (saṃsāra)ý muốn đạt đến giác ngộ? Không có ai có câu trả lời cho những câu hỏi này. Thậm chí không mấy người hỏi về chúng. Nó là một sự nối kết đang thiếu trong việc truyền bá Phật pháp vào thế giới hiện đại.

Trong nhiều năm qua, tôi là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Ngôn ngữ Phật giáo Mangalam (Mangalam Research Center for Buddhist Languages). Ở đấy, làm việc với những học giả hàng đầu, chúng tôi đang cố gắng làm một vài điều về sự nối kết đang thiếu này. Chúng tôi hy vọng tham gia với các vị thầy của tất cả các truyền thống trong công việc này, và khuyến khích sự cộng tác, sử dụng công nghệ số của phương Tây để tạo nên tri thức cần đến. Chúng tôi tận tâm tạo nên một nguồn tài liệu trực tuyến có tên gọi là Buddhist Translators Workbench, và qua đây chúng tôi hy vọng thực hiện một sự đóng góp khiêm tốn đối với những nhu cầu cấp bách mà tôi đã trình bày.

Càng làm tôi càng nhận thấy đề án này là rộng lớn và thật sự cấp bách. Nghiên cứu ngôn ngữlịch sử tưởng để làm rõ ý nghĩa của giáo pháp không phải là một quan tâm học thuật. Những gì chúng tôi làm sẽ giúp định hướng tương lai Phật pháp. Nó sẽ giúp quyết định Phật pháp có một tương lai hay không.

Tất cả mọi truyền thống Phật pháp đồng ý rằng ngôn ngữ không bao giờ có thể khai mở chân lý cao nhất. Nếu điều đó là như vậy thì vấn đề ngôn ngữ chúng ta sử dụng có thật sự quan trọng không? Vâng… nó là quan trọng. Nó hết sức quan trọng. Chân lý của Phật pháp vượt qua ngôn ngữ, nhưng ngôn ngữ chỉ ra chân lý, giống như một tấm bản đồ chỉ hướng đúng để đi. Ngôn ngữ là tiếng nói mà thông qua đó chân lý mở ra, mời gọi chúng ta thực hiện một cuộc hành trình vào những lĩnh vực không được biết. Nếu ngôn ngữ của chúng ta dẫn chúng ta đi lạc đường, nếu chúng chỉ hướng sai hay đánh lừa chúng ta về mục đích, cuộc hành trình sẽ kết thúc ở nơi sự thất vọng hay sự lừa gạt.

Để tìm một tiếng Anh có thể chuyển tải được Phật pháp, chúng ta cần những học giả giỏi nhất từ phương Tây, những học giả được đào tạo về ngôn ngữ đúng cách mà họ đang trở nên quý hiếm ngay cả ở nơi những trường đại học Tây phươnguy tín nhất. Chúng ta cũng sẽ cần sự giúp đỡ của những vị thầy giỏi Phật pháp từ tất cả mọi truyền thống, những vị đạo sư có thể rót trí tuệhiểu biết của họ vào trong những chiếc bình ngôn ngữ nói và viết.

Đây là nơi sự đối thoại phải bắt đầu. Đây là cách Phật pháp sẽ tìm lấy tiếng nói của nó: với sự quan tâm, nhiệm vụ và tính chính xác. Nếu tiến trình này thành công thực sự, tiếng Anh sẽ trở thành một ngôn ngữ Phật pháp, và Phật pháp, được tái tạo để nói với thế giới hiện đại, sẽ ảnh hưởng ngôn ngữ trong đời sống hàng ngày, định hướng sự nhận thức. Phật pháp sẽ thêm một lần nữa làm công việc chuyển đổi kỳ diệu của mình. Như ở trong những thế kỷ qua, người ta sẽ hiểu bằng tất cả con tim rằng giải thoát khổ đau là có thể. Họ sẽ biết điều này bởi ngôn ngữ mà họ sử dụng, khái niệm mà họ học để suy nghĩ, thực tạitừ ngữ lập nên. Nếu điều này xảy ra, giáo pháp của Đức Phật sẽ thật sự tìm ra tiếng nói của nó cho thế giới hiện đại, và chúng ta có thể hy vọng rằng Phật pháp sẽ trường tồn.

Nguồn: www.mangalamresearch.org.

 Jack Petranker(*) - Nguyên Hiệp dịch

(*) Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Ngôn ngữ Phật giáo Mangalam

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14203)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15529)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13232)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19389)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24659)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15762)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37860)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13496)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13117)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17198)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13219)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17406)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21689)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13270)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14434)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12871)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13684)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28661)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23435)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34423)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28901)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32211)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11340)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12013)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26320)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17410)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14543)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34553)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13142)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12293)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13425)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40557)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26975)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14478)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13273)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13477)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12547)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13167)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12328)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11818)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12600)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17684)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12231)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12771)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18461)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14314)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 13021)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11335)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12174)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13491)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10865)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11092)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10315)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28947)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25324)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26888)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25804)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18697)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23078)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34601)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant