Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trung quán tông và ánh sáng tâm linh

22 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 12148)
Trung quán tông và ánh sáng tâm linh

TRUNG QUÁN TÔNG và ÁNH SÁNG TÂM LINH

Huỳnh Ngọc Chiến

Trong phần mở đầu chương 3 của tác phẩm The Grand Design (Bản thiết kế vĩ đại), nhà vật lý thiên tài Hawking đã nêu lên một vấn đề lý thú. Cách đây mấy năm, hội đồng thành phố Monza ở Italy đã cấm không cho những người thích nuôi vật cưng được nuôi giữ cá vàng trong những cái bể nước kính cong. Họ lý giải rằng điều đó thật là tàn nhẫn, vì nếu như thế, khi nhìn ra ngoài, con cá sẽ có cái nhìn sai lệch về thực tại. Thế rồi tác giả đặt câu hỏi: “Nhưng làm thế nào chúng ta biết được rằng chúng ta đã có bức tranh chân thực, không hề sai lệch về thực tại?”(2). Câu hỏi đó là nỗi băn khoăn muôn thuở của con người.

Liệu cái thế giớichúng ta đang nhìn thấy đây phải chăng là cái thế giới y như thực? Đâu là khuôn mặt thực của thế giới? Đâu là chân tướng của vạn hữu? Bản nguyên của vũ trụ là Tâm hay Vật? Vấn đề này đã kéo theo cuộc tranh luận dài cả nghìn năm giữa các trường phái triết học, khi con người bắt đầu khai mở tâm thức để đối diện với thế giới chung quanh.

Tìm hiểu được chân diện mục của thế giới vẫn là nỗ lực không ngừng của con người. Suốt mấy ngàn năm qua, hàng trăm tông phái, học thuyết nối tiếp nhau ra đời trên khắp cõi Đông Tây kim cổ, với hàng ngàn các triết gia luôn khẳng định một bức tranh do mình đưa ra là hình ảnh chân thực duy nhất về thế giới. Và có bao nhiêu bức tranh “chân thực” là có bấy nhiêu sự xung độtmâu thuẫn giữa chúng! Sự xung đột giữa các kiến giải bất đồng về bức tranh thế giới vẫn kéo dài liên miên suốt mấy ngàn năm qua trong lịch sử tư tưởng nhân loại.

Giống như loài cá vàng nhìn thế giới qua tấm kính cong và “xác lập” nên những quy luật vận động phù hợp với thế giới đó; cũng vậy, con người đã dùng biết bao mô thức tư duy (thought-pattern) để cố xác lập chân diện mục của thực tướng theo cách nhìn của mình; áp đặt mọi thứ phạm trù Nhân và Quả, Động và Tĩnh, Dạng thức và Bản thể, Đồng và Dị, Nhất và Đa v.v... lên Thực tướng khiến Thực tướng đã bị che mờ dưới mạng lưới lạnh lùng của tư duy.

Mọi con đường của lý tính đều dẫn đến bế tắc, khi cố vươn đến chân diện mục của Thực tướng, do chính bản chất xung đột của lý tính (conflict of Reason). Hai bài toán “ngụy biện” đơn giản của Zeno(3) vẫn lơ lửng ở đấy như một thách thức điển hình cho mọi hệ thống lý luận của con người, để con người tỉnh ngộ hiểu ra rằng những mô thức tư duy mà mình áp đặt lên thực tại đều sai lệch, vì cứ muốn dùng Tục đế (savti) để thể ngộ Chân đế (parāmartha) bằng phương pháp suy diễn theo kiểu lý luận học phương Tây.

Khi nào con người chưa liễu ngộ được bản chất xung đột của lý tính, vẫn còn hoang tưởng rằng có thể dùng lý luận để phát lộ “chân diện mục của Lô sơn” thì Achille vẫn suốt đời không đuổi kịp chú rùa, và mũi tên vĩnh viễn không bao giờ bay đến đích, vì giữa lý tínhthực tướng có một hố thẳm không thể vượt qua, khi ta áp đặt nó thành một cấu trúc tư duy (Thought-Construction) được hình thành do tác động của Vô minh.

Cùng với sự chiến thắng vượt trội không thể chối cãi của nền khoa học kỹ nghệ Âu châu trên phạm vi toàn cầu, nếp suy tư theo kiểu phương Tây hầu như đã chi phối toàn bộ não trạng của chúng ta, hầu như đã giam hãm toàn thế giới trong mạng lưới tư duy duy lý, khiến không ít bậc thức giả hầu như tin tuyệt đối vào sự thống trị của lý trí Âu châu một cách hoàn toàn mù quáng. Đó là hiểm họa mà triết gia Heidegger đã cảnh báo là “tiến trình Âu hóa con người và trái đất đã gây tổn hại đến những điều tinh yếu ở tận cội nguồn” đang diễn ra trên toàn cõi địa cầu(4).

Triết học Ðông phương, đặc biệtPhật giáo, vẫn thường tỏ ra dè dặt với sự lãnh hội của lý tính. Người ta không tin rằng lý tính có thể thấu hiểu được mọi vấn đề bằng khả năng, phân tích tổng hợp hay tích lũy kiến thức của nó. Bởi vì điều đó chỉ đưa đến tổng số thay vì tổng hòa, nếu không có được một đầu mối nhất dĩ quán thấu suốt tất cả để thành Nhất thể viên dung.

Phản bác mọi phạm trù tư duy và tất cả các kiến giải không có nghĩa là phản bác chức năng của lý tính mà chỉ có nghĩa là phản bác năng lực của lý tính trong vấn đề liễu tri được Thực tướng. Cái Thực hữu [Real] vốn bất khả tư nghì, siêu việt cảnh giới của tư tưởng; nó là phi nhị nguyên, là Không (śūnya), siêu quá nhị nguyên tính đối đãi giữa Hữu và Vô.

Nhận thức được sự xung đột của lý tínhnỗ lực giải quyết xung đột đó bằng cách nâng nó lên một bình diện cao hơn lý tính, đó là lưỡi Tuyệt đao của Trung quán tông. Trung quán tông đi thẳng vào trọng tâm của vấn đề, tức sự xung đột của lý tính, theo kiểu đơn đao trực nhập, luận phá mọi mô thức khái niệm, xem chúng đều rỗng không (śūnya), và giới hạn chúng vào trong phạm vi tục đế.

Từ gần hai ngàn năm qua, kể từ khi xuất hiện trên đỉnh cao chót vót giữa phương trời tư tưởng lồng lộng của Ấn Độ, lưỡi Tuyệt đao của đại luận sư Nāgārjuna đã quét sạch những kiến giải hư ngụy trong não trạng loài người, gây nên một cơn chấn động vô tiền khoáng hậu trong toàn cõi đạo giáo phương Đông bằng tánh Không (Śūnyatā) gây kinh hãi. Tánh Không Trung quán tông phá hủy mọi lập trường, mọi kiến giải, quét sạch toàn bộ thế giới vật lýtâm lý với Lục căn, Lục trần, Lục thức, cho đến thuyết Tứ diệu đếThập nhị nhân duyên - nền tảng của tư tưởng Phật giáo - trong cơn cuồng phong phủ định toàn triệt của các chữ Bất, Phi, Vô; giống như Độc cô cửu kiếm dùng vô chiêu để tận phá mọi kiếm pháp hữu chiêu trong thiên hạ. Chiêu thức của Độc cô cửu kiếm là vô chiêu, không đánh theo một chiêu thức nào chỉ mà đánh vào chỗ sơ hở của kiếm pháp đối phương để phá giải; cũng giống như kiến giải của Trung quán tôngKhông chư kiến (śūnyatā of dṛṣṭi : 空 諸 見) tức xem mọi kiến giải đều là Không (śūnya); đó là kiến giải phi kiến giải, lập trường phi lập trường, quan điểm phi quan điểm. Trung quán tông, do đó, luận phá mọi kiến giải của đối phương bằng cách phát lộ cho đối phương thấy những yếu tố bất toàn tất yếu cùng sự mâu thuẫn xung đột nội tại trong mọi thể cách lập luận của họ, nhưng lại không hề đưa ra một kiến giải mới, vì kiến giải mới, nếu có, cũng là Không nốt; nếu khác đi thì kiến giải mới đó cũng sẽ chứa những yếu tố bất toàn tất yếu cùng sự mâu thuẫn xung đột nội tại, nên nó sẽ tiếp tục bị luận phá, rồi sự luận phá mới đó lại dẫn đến một kiến giải mới khác nữa; điều đó sẽ dẫn đến sự hồi quy vô tận [regress ad infinitum]. Đối với Trung quán tông, bản thân sự luận phá mọi kiến giải tự nó đã là một kiến giải, cũng như đường kiếm vô chiêu tự nó đã hình thành một chiêu thức. Đó là ý nghĩa của hai chữ “phê phán” (criticism) mà tác giả Murti dùng trong suốt tác phẩm, trong nỗ lực muốn dìu những độc giả quen thuộc với tư tưởngphê phán” của Kant và biện chứng pháp của Hegel, đặc biệt là Kant, tiếp cận được thông lộ dẫn về cội nguồn của Bát bất Trung đạo của Trung quán tông, đồng thời vạch ra những suy tư hời hợt của nhiều nhà nghiên cứu phương Tây khi đồng nhất triết học về Tánh Không của Trung quán tông với hư vô luận [nihilism] một cách thiển cận và hời hợt.

Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã) hay Trực giác Vô nội dung [contentless Intuition]. Đó là Bất nhị trí hay Vô phân biệt trí. Nội dung của Trực giác Vô nội dung là Cảnh giới tuyệt đối hay Toàn thể thực tướng, chứ không phải là một đối tượng cụ thể bất kỳ nào. Khi mọi kiến giải theo mô thức tư duy bị quét sạch khỏi tâm trí, khi tâm không còn chướng ngại thì nó sẽ hoàn toàn trong suốt. Trong cảnh giới đó, Tâm và Thực tướng viên dung hòa hợp, bất khả phân ly trong Prajñāpāramitā (Bát-nhã Ba-la-mật) - một cảnh giới hoàn toàn tương phản với quan niệm hiện đại xem triết học là một khoa học phổ quát, dung hợp được nhiều ngành khoa học khác nhau vào một hệ thống mạch lạc.

Trong pháp môn Lục độ, Prajña (trí Bát-nhã) phải đi cùng với bố thí (dāna), trì giới (śīla), nhẫn nhục (kānti), tinh tấn (vīrya), thiền định (dhyāna) mới có thể giúp tâm thanh tịnh để thể ngộ chân lý. Rồi đến lượt đó, Prajña lại giúp cho các pāramitā kia được hoàn thiện, tựu thành vô lượng điều toàn mỹ, khiến cho mỗi pāramitā được là pāramitā - hay sự toàn mãn. Chỉ có Prajñāpāramitā (Bát-nhã Ba-la-mật) - tức một loại Chân trí bằng trực giác phi khái niệm - mới có thể là loại thuốc đối trị hữu hiệu mọi vọng tưởng phân biệt vọng tưởng (vikalpa) của lý trí con người.

Prajñāpāramitā là chỗ kết tinh của mọi lý luận trong thiên hạ, còn tánh Không làm tiêu dung tất cả các kiến giải cổ kim. Mô phỏng theo Ngọa Long Sinh(5) ta có thể nói “Trước Thiên kiếm Prajñāpāramitā, lý luận không còn tuyệt học; dưới Tuyệt đao Śūnyatā, kiến giải không có sinh cơ.”! Đẩy lý trí con người vào tuyệt lộ bằng pháp môn quy mậu chứng pháp (prasanga) hay phương pháp quy kết bội lý (reductio ad absurdum), đưa tất cả mọi biện giải đến chỗ bế tắc, buộc tất cả các luận sư uyên bác phải đối diện với sự sụp đổ tan tành của mọi hệ thống lý luận, của mọi nền triết học do những mâu thuẫn xung đột nội tại, để thấy được rằng mọi điện đài duy lý đồ sộ của họ đều là những công trình xây trên cát; đó là Tuyệt đao. Nhưng phủ định toàn triệt theo tinh thần Prajña là thể cách vi diệu để đưa đến sự khẳng định toàn triệt trong cảnh giới tự do tuyệt đối; trong cảnh giới thù thắng đó thì khẳng định là phủ định, và phủ định là khẳng định, để đưa tâm thức con người đến cảnh giới giải thoát tối hậu, đó là Thiên kiếm. Tuyệt đao thì phá hủy mọi kiến giải theo thể cách của Trí tuệ, còn Thiên kiếm thì từ bi hóa độ theo thể điệu của Bi tâm. Cả kiếm lẫn đao đều vạch ra một thông lộ cho hành giả tìm về cõi đạo uyên nguyên trong sự im lặng của Đức Phật- sự im lặng bao trùm tất cả những chân trời tư tưởng của nhân loại. Trong Tuyệt đao đã hàm ẩn Thiên kiếm, và trong Thiên kiếm vẫn thấp thoáng Tuyệt đao. Và tại chỗ chót vót sơ đầu, cả Thiên kiếm và Tuyệt đao đều hợp nhất thành cái một tuyệt đối, viên dung nhất thể trong phương trời lồng lộng của cõi viên mãn Như Lai.

T.R.V Murti được xem là một trong những nhà tư tưởng lỗi lạc nhất về triết học Ấn Độ trong thế kỷ XX. Ông đã phân tích và đánh giá cặn kẽ giáo lý Trung quán tông qua cái nhìn thông tuệ của một bậc thức giả phương Tây đầy uy tín, một người được giới học giả xem là người có đầy đủ thẩm quyền về kinh điển Ấn Độ mà ông hầu như thuộc lòng, như kinh điển Phật giáo, kinh văn Upanisads, văn phạm của Panini, cùng nhiều kinh văn quan trọng khác…

T.R.V Murti là một bậc thức giả phương Tây, nhưng tâm hồn ông lại được nuôi dưỡng trong không khí tâm linh phương Đông, nên đọc ông, ta có cảm giác gần gũi như một bậc luận sư phương Đông đã thấu hiểu tận ngọn ngành của triết học phương Tây, liễu tri được toàn bộ sự bế tắc của nền văn minh duy lý châu Âu đang làm khốn quẫn toàn thế giới trong mạng lưới tư duy theo kiểu Âu châu. Một người được nuôi dưỡng trong bầu không khí triết học phương Tây lại mạnh dạn khẳng định : “Biện chứng pháp của Hegel là một sản phẩm xa hoa phù phiếm, chứ hoàn toàn vô giá trị về phương diện tâm linh”(6). để kêu gọi thế giới quay về đời sống tâm linh phương Đông, đặc biệtTuyệt đối luận của Trung quán tông Phật giáo, xem như đó là lối thoát cuối cùngduy nhất cho toàn thế giới. Cũng như Heidegger, ông ý thức sâu sắc sự tàn phá khốc liệt của nền văn minh phương Tây đối với tư tưởng nhân loại. Toàn thể nhân loại đang khát khao mong đợi sự hợp nhất tâm linh cho một thế giới đang bị xâu xé tan nát bởi biết bao sự xung đột, bởi những hệ tư tưởng hiếu chiến đang đe dọa nhận chìm toàn thể thế giới vào sự diệt vong. Những phát minh khoa học, đặc biệt là mạng internet với những chiếc máy tính đã tạo thành một hệ thống tinh xảo để nối kết toàn cầu vào trong mạng lưới khổng lồ của những siêu xa lộ thông tin. Không gian dường như đã dần thu hẹp lại, thế giới dường như đã có thể dần sát kề vai nhau, thế nhưng sự khác biệt và xung khắc giữa con người, giữa các quốc gia, giữa các chủng tộc lại gia tăng một cách khủng khiếp; đấu tranh và thống khổ vẫn ngập tràn trên cõi thế. Chiến tranh đã trở thành căn bệnh kinh niên lan rộng trên phạm vi toàn cầu.

Sau khi trình bày sự hỗn loạn và đổ vỡ tràn lan trên cõi thế, Murti mạnh dạn kết luận:

“Căn nguyên nào có gì là bí ẩn đâu. Nền văn minh phương Tây, kể từ thời phục hưng, đã phát triển mạnh mẽ theo lộ tuyến duy vật (materialistic lines) và trở thành quy phạm cho toàn thế giới… Con người đã chinh phục được thiên nhiên hoặc gần như đã làm được điều đó, nhưng lại không làm chủ được bản thân mình. Hậu quả thật là thảm khốc. Cuộc sống được tổ chức tưởng chừng ổn định và an toàn đã trở nên bấp bênh, bất ổn. Chúng ta giành được cả thế giới nhưng lại đánh mất linh hồn(7).

Mọi chủ trương tăng gia số lượng sản phẩm và tổ chức lại cơ cấu xã hội để đem đến bình yên cho thế giới đều thất bại, khi những nỗ lực đó không có một nền tảng tâm linh. Mọi sự đối thoại giữa các quốc gia, giữa các chủng tộc đều bế tắc không thể dẫn đến cảm thông, khi con người chỉ có thể nhìn nhau như loài cá vàng nhìn thế giới qua bể kính nước cong. Chỉ có tâm linh mới đem đến một nền tảng thực sự cho xã hội, và hướng dẫn con người thực hiện được những giá trị khác. Về phương diện này thì Tuyệt đối luận của Trung quán tông Phật giáo với tư tưởng Prajñāpāramitā thù thắngTánh Không (Śūnyatā) thâm diệu sẽ là “nền tảng cho sự phục sinh tâm linh cho thế giới” (back-ground for the spiritual regeneration of the world)(8), như Murti, và cả loài người, đang mong đợi

 Chú thích

(1) Cảm nhận của người viết sau khi đọc tác phẩm “The Central Philosophy of Budshism” của T.V. Murti.

(2) “But how do we know we have the true, undistorted picture of reality?” (Hawking, The Grand Design, Bantam Books, New York, 2010, p. 50.)

(3) Nghịch lý Achille và con rùa: là nghịch lý nổi tiếng của Zeno. Achille là một dũng sĩ Hy Lạp có tài chạy nhanh. Achille và Rùa cùng chạy thi. Giả sử rùa đứng trước Achilles 100 mét, và tốc độ của Achille gấp 100 lần rùa. Khi Achilles chạy được khoảng cách 100 mét, đến vị trí xuất phát của rùa, thì rùa đi được 1m; khi Achille vượt tiếp qua đoạn đường 1m đó thì rùa lại đi được 10-2m; khi Achille vượt tiếp qua đoạn đường 10-2m đó thì rùa lại đi được 10-4 m v.v... Cứ tiếp tục mãi như vậy, khoảng cách giữa Achille và rùa sẽ tiến đến con số cực vi dạng 10-2n, nhưng không bao giờ bằng 0. Do đó, dũng sĩ Achilles không bao giờ đuổi kịp chú rùa!

Nghịch lý mũi tên bay: Ta bắn 1 mũi tên từ vị trí A đến tấm bia ở vị trí B. Mũi tên muốn đến được B thì phải đi qua trung điểm A1 của AB, muốn đến được A1 thì phải qua trung điểm A2 của AA1, muốn đến được A2 thì phải qua trung điểm A3 của AA2 v.v... Cứ tiếp tục như vậy, mũi tên phải lần lượt qua vô hạn các trung điểm của các đoạn thẳng chia nhỏ, do đó mũi tên không bao giờ đến được đích!

(4) “Sự mù quáng đó lớn mạnh đến mức người ta không còn khả năng thấy được tiến trình Âu hóa con người và trái đất đã gây tổn hại đến những điều tinh yếu ở tận cội nguồn như thế nào. Dường như tiến trình đó khiến cho mọi cội nguồn đều trở nên khô cạn.” (Die Verblendung wächst, so daß man auch nicht mehr zu sehen vermag, wie die Europäisierung des Menschen und der Erde alles Wesenhafte in seinen Quellen anzehrt. Es scheint, als sollten diese versiegen. (Heidegger, Unterwegs zur Sprache, Vittorio Klostermann, Frankfurt am Main, 1985, tr. 99).

(5) Lời của Thiên hạ đệ nhất đao Hướng Ngao phẩm bình kiếm pháp của Thiên hạ đệ nhất kiếm Cơ Đồng: 姬 老 兒 劍 下 無 絕 學 , 老 夫 的 刀 下無 生 機 Cơ lão nhi kiếm hạ vô tuyệt học, lão phu đích đao hạ vô sinh. (Dưới kiếm Cơ Đồng không còn tuyệt học, dưới đao lão phu không có sinh cơ - Thiên kiếm tuyệt đao 天 劍 絕 刀, chương 4). Một bên là Thiên kiếm theo nguyên lý Sinh, đem bi tâm trùm lên kiếm pháp để hóa giải tất cả võ học trong thiên hạ. Một bên là Tuyệt đao theo nguyên lý Diệt, đem sát tâm hóa vào đao pháp để tận diệt mọi đối thủ trên đời. Làm thế nào để đem được sát tâm của Tuyệt đao hòa vào Thiên kiếm, cũng như làm thế nào để hòa được bi tâm của Thiên kiếm vào sát khí của Tuyệt đao? Với tác phẩm Thiên kiếm Tuyệt đao, Ngọa Long Sinh đã lặng lẽ mở ra một chân trời huyền ẩn cho tư tưởng để tựu thành những điều bất khả tư nghì cho cõi đạo Sơ Thủy Đông Phương.

(6) “The dialectic of Hegel is a brilliant superfluity, it had no spiritual value” T.V.Murti, The Central Philosophy of Buddhism,  Goerge Allen and Unwin, 1968, p. 305.

(7) “The causes are not hidden. Western civilization, which has become the norm for all, has developed, since the Renaissance, along materialistic lines. …. Man has conquered Nature or is very near doing that; but he has not the rudimentary control over himself. The consequences are disastrous. Organised life with any pretence to stability and security has become precarious. We have gained the world, but have lost our soul.” (Op. cit. p. 338)

(8) Op. cit. p. 341.


Huỳnh Ngọc Chiến

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9630)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
(Xem: 23110)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
(Xem: 8099)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20520)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19531)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18404)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16257)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15944)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19041)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14311)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9620)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8717)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8209)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8913)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 10968)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9140)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8881)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 7951)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9096)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35631)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8560)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15095)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8703)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15294)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9182)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8844)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9359)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8457)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10303)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7664)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9540)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7519)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17231)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15021)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9502)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20904)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9215)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7180)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17713)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17638)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25823)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7835)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9920)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7274)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9656)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8146)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9109)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7419)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8781)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7936)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8362)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7544)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8730)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8168)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8888)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7300)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 14002)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7109)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
(Xem: 10364)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
(Xem: 7699)
Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant