Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Tài Liệu Tham Khảo & Phụ Lục

20 Tháng Hai 201300:00(Xem: 9289)
4. Tài Liệu Tham Khảo & Phụ Lục

Niên Biểu Phật Giáo Việt Nam

Trần Tri Khách


4. Tài Liệu Tham Khảo & Phụ Lục


1- Phạm Văn Sơn (1960), Việt Sử Toàn Thư (viết tắt VSTT), California: Ðại Nam in lại, không ghi năm tái bản.
2- Nguyễn Quốc Thắng & Nguyễn Bá Thế, Từ Ðiển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam (viết tắt TÐNVLS), thành phố HCM: nhà xuất bản Văn Hóa in lần thứ tư, 1997
3- Lê Mạnh Thát , Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (viết tắt LSPGVN), tập 1, Huế: nhà xuất bản Thuận Hóa, 1999. Tập 2 , thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 2000.
4- Lê Mạnh Thát, Nghiên Cứu Về Thiền Uyển Tập Anh (viết tắt TUTA), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 1999.
5- Lê Mạnh Thát, Toàn Tập Minh Châu Hương Hải (viết tắt MCHH), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 2000.
6- Lê Mạnh Thát, Toàn Tập Trần Nhân Tông (viết tắt TTTNT), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 2000.
7- Nguyễn Lang (Nhất Hạnh), Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (viết tắt VNPGSL). Tập 1 (1973), Paris: Lá Bối in lần thứ hai năm 1977. Tập 2, Paris: Lá Bối, 1978. Tập 3, Paris: Lá Bối, 1985.
8- Trần Hồng Liên, Phật Giáo Nam Bộ từ thế kỷ 17 đến 1975 (viết tắt PGNB), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 1996.
9- Thích Ðức Nhuận , Ðạo Phật và Dòng Sử Việt (viết tắt ÐPVDSV)
10- Kiêm Ðạt, Ðại Giới Ðàn Thiện Hòa, California: Phật Học Viện Quốc Tế, 1983.
11- Thích Mật Thể (1943), Việt Nam Phật Giáo Sử Lược , California: Phật Học Viện Quốc Tế in lại 1984.
12- Ðông Tiến, Việt Nam 20 Năm 1975- 1995, San Jose: Cơ Sở Ðông Tiến, 1996.
13- Phúc Trung , Lược Sử Gia Ðình Phật Tử, trang nhà Người Cư Sĩ : http://membres.lycos.fr
14- Cung Ðình Thanh, Nguyễn Văn Tuấn và Nguyễn Ðức Hiệp, Một Vài Ghi Chép Thêm Về Văn Minh Cổ Và Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam, trang nhà www.giaodiem.com, tháng 8. 2002.


PHỤ LỤC 1:

CÁC DANH TƯỚNG CỦA HAI BÀ TRƯNG ÐƯỢC THỜ TẠI CÁC ÐỀN MIẾU NƯỚC TA CHO TỚI NGÀY NAY

(Tham khảo: Ðông Tiến, Nước Tôi Dân Tôi, San Jose: Cơ Sở Ðông Tiến, 1989 - Nguyễn Quyết Thắng & Nguyễn Bá Thế, Tự Ðiển Nhân Vật Lịch Sử VN, Thành phố HCM: nhà xuất bản TP/HCM in lần thứ 4, 1997 )
- Ðền thờ ở làng Ðồng Nhân, Hà Nội: thờ tượng Hai Bà và tượng 12 vị nữ tướng.
- Ðền Hai Bà Trưng ở huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên (kinh đô Mê Linh cũ).
- Ðền thờ Hai Bà Trưng ở làng Hát Môn, tỉnh Phú Thọ, các đồ thờ đều sơn màu đen tuyền. Trước đền là bàn thờ bà hàng bán bánh trôi đã đi theo phò giúp Trưng Vương.
- Các huyện gần sông Hát Giang (sông Ðáy) như Phú Thọ, Thạch Thất, Quốc Oai tỉnh Sơn Tây có đền miếu thờ các vị anh hùng liệt nữ thời Trưng Vương như: Thượng Cát, Bạch Hoa Công Chúa, Ðào Khang, Hoàng Ðạo, Ðỗ Năng Tế, Giám Sát Ðại Vương, Ả Tú, Ả Huyền, Nhất Trung Á, Mai Thi Trang, Chàng Năm, Nàng Năm, Thủy Hải Công Chúa ...

- Các huyện gần sông Ðáy (Hát Giang) tỉnh Hà Nam như Thanh Liêm, Kim Bảng có đền miếu thờ các anh hùng thời Trưng Vương như: Cao Bà Văn Tổ, Hảo Nương, Lưu Nương, Quách Thị, Khoan Nhân Ðại Vương,Vạn Phúc Phu Nhân, Lê Hằng Nghị, bà Tái Kênh, Linh Bảo Nương, Ngọc Dung Công Chúa, Ngọc Nhân, Nguyễn Phúc, Nguyễn Dung, Nguyễn Phúc Tính, Nguyệt Nga, Ông Ðốc, Quỳnh Anh Phu Nhân ...

- Ðền làng Trung Am, tỉnh Hải Dương thờ một vị tướng của Trưng Vương tử trận ở Lạng Sơn.
- Ðền thờ ông Tam Giang, một tướng giỏi của Hai Bà tại làng Bần Yên Nhân, tỉnh Hưng Yên.
- Ðền thờ bà Lê Chân ở Ngõ Nghè, Hải Phòng (nên còn gọi là Ðền Nghè).
- Ðền làng Tiên La, tỉnh Thái Bình, thờ bà Bát Nàn ( còn gọi là Bát Nàn Công Chúa, Bát Nàn Phù Tướng).
- Ðền làng Hiền Quan, tỉnh Phú Thọ thờ bà Hoàng Thiếu Hoa ( còn gọi là bà Thiều Hoa, Ðông Cung Tướng Quân).
- Ở tỉnh Phú Thọ cũng thờ danh tướng Ðô Dương. Ông có công lớn nhất trong việc giải phóng 65 thành trì năm 39. Năm 43, ông là người chỉ huy chiến tuyến sau cùng chống lại đại quân của Mã Viện ở Thanh Hóa sau khi Trưng Vương trầm mình xuống sông Hát.
- Ở Sơn Tây thờ Thị Nội Tướng Quân Phùng Thị Chính và chồng bà là Ðinh Lượng. Bà Phùng Thị Chính võ nghệ cao cường, đánh giặc hăng say, sanh con ngay trên mình ngựa, quân địch khâm phục tôn là Mã Thị Nam Chinh. Khi Trưng Vương trầm mình xuống sông Hát, bà cũng tử tiết. Chồng bà là Ðinh Lượng, một hào kiệt giỏi võ nghệ theo phò Trưng Vương cũng bỏ mạng trong trận chiến cuối cùng với Mã Viện
Tại năm tỉnh miền Nam Trung Quốc (Quảng Ðông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên) có hơn 100 đền miếu thờ các danh tướng của Hai Bà Trưng, theo kết quả quan sát thực địacủa bác sĩ Trần Ðại Sĩ. Bản báo cáo này của ông được phổ biến trên trang nhà Internet www.thuvienvietnam.org mục tạp chí Thư Viện Việt Nam số 3. Vùng đất này, trong nhiều thế kỷ qua, chiến tranh xảy ra liên miên, gương hào hùng hẳn nhiên phải có mà đền miếu thì không sao tránh khỏi bị tàn phá,sụp đổ. Nếu các anh hùng liệt nữ thời Trưng Vương không tạo được chiến công hiển hách, oai hùng, sẽ chẳng ai nghĩ tới chuyện tu bổ lại đền miếu để thờ phượng tới ngày nay.
Thời Trưng Vương là thời thịnh trị của nhà Hán, sau khi Hán Quang Vũ thống nhất được Trung Quốc. Mã Viện (17 BC- 44) là một tướng giỏi, nhiều kinh nghiệm chiến trường của nhà Hán, vậy mà ông phải chuẩn bị lực lượng từ mùa xuân năm 42 tại các Quận phía Nam Trung Quốc và phải một năm sau mới hoàn thành cuộc tấn công. Một điểm cần nói thêm: Mã Viện thọ 62 tuổi, cho nên không có chuyện ông cầm quân đánh bại Trưng Vương vào năm 70 tuổi như ghi trong một số sử sách nước ta.


PHỤ LỤC 2:

BƯỚC ÐẦU ÐẠO PHẬT DU NHẬP VÀO NƯỚC TA

quan niệm lầm lẫn cho rằng nước ta bắt đầu có văn hiến là nhờ hai thái thú Tích Quang (năm 2) và Nhâm Diên (năm 24), lại thấy kinh điển Phật Giáonghi thức tụng niệm ở nước ta mang gốc gác chữ Hán, một số đáng kể các nhà biên khảo Phật giáo kết luận vội vã là đạo Phật du nhập vào nước ta từ Trung Quốc, bắt đầu vào thời Sĩ Nhiếp (cuối thế kỷ 1).

Thực ra mãi tới năm 67, khi vua Hán Minh Ðế (58- 76) nằm mộng thấy người vàng, cận thần Trương Nghị giải thích người vàng thân thểhào quang bay trên không đó là người đắc đạo ở nước Thiên Trúc gọi là Phật; vua mới cử một phái đoàn qua nước Ðại Nhục Chi thỉnh được kinh Tứ Thập Nhị Chương và mời được hai vị tăng Ma Ðằng Ca DiếpTrúc Pháp Lan. Trong mấy thế kỷ đầu, hoạt động của Phật Giáo Trung Quốc chủ yếu là dịch kinh, xây chùa. Mãi tới năm 258 sư Châu Tử Hàng khai đàn, giảng kinh Bát Nhã ở kinh đô Lạc Dương, việc giảng pháp cho đại chúng Trung Quốc mới bắt đầu.

Ở nước ta, người Phật tử đầu tiên là Chử Ðồng Tử, đời Hùng Vương thứ 18 (chấm dứt vào năm 258 BC) được nhà sư Phật Quang (còn gọi là sư Bần, người gốc Ấn Ðộ) truyền pháp, trao cho cây gậy và chiếc nón. Tích này được ghi lại trong Lĩnh Nam Chích Quái. Chử Ðồng Tử được thờ ở đền Trung, trong cụm đền thờ vua Hùng tại núi Nghĩa Lĩnh, tỉnh Phú Thọ và ở phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Chử Ðồng Tử là thương gia buôn bán đường sông, quen biết nhiều. Sau khi truyền pháp cho vợ là công chúa Tiên Dung, hai người bỏ hẳn việc buôn bán mà lo mở rộng việc truyền pháp.

Mặt khác, cũng có những bằng cớ về việc phái đoàn truyền giáo dưới sự hướng dẫn của Sona và Uttara do vua A Dục phái đi đã tới nước ta. Nhân dân ta đã dựng tháp tại thành Nê Lê ở núi Mẹ tại Ðồ Sơn để tạ ơn vua A Dục (269 BC- 232 BC) đã truyền Phật pháp tới Luy Lâu. Cho tới những năm 380- 420, những người lượm củi ở vùng núi Mẹ (Mẫu Sơn) còn thấy tháp này. Thiền sư Mật Thể trong Việt Nam Phật Giáo Sử Lược (tr.69) cho biết từ năm 245 BC Trung Quốc và Ấn Ðộ đã giao thương với nhau qua cửa ngõ nước ta. HT Ðức Nhuận trong Ðạo Phật Và Dòng Sử Việt: vào thế kỷ 3 BC, phong trào di dân rộng lớn tại Ấn từ Kalinga sang phía Ðông rồi xuống Nam vì "cơn sốt " mua bán vàng có thể đưa một số tăng sĩ Ấn Ðộ theo thuyền buôn tới nước ta. Có thể sự thông thương giữa Ấn Ðộ và nước ta đã xảy ra trước đó khá lâu. Năm 135 BC, Hoài Nam Vương Lưu An dâng thư can ngăn vua Hán đừng đem quân đánh Nam Việt, có viết: Từ thời Tam Ðại, đất Hồ đất Việt không theo lịch pháp Trung Quốc. Thời Tam Ðại gồm nhà Hạ (2140 BC- 1711 BC), nhà Thương hay nhà AÂn (1711 BC- 1066 BC) và nhà Chu (1066 BC- 256 BC). Theo Lê Mạnh Thát (LSPGVN 1) và Nhất Hạnh (VNPGSL 1), thời đó nước Văn Lang theo lịch pháp Ấn Ðộ (năm có 4 mùa, 12 tháng, tháng có 30 ngày).

Sự kiện dân ta gọi Thích Ca là BỤT, phổ thông trong ca dao còn truyền tụng tới ngày nay, là bằng chứng vững chắc khác cho thấy Phật Giáo du nhập vào Việt Nam trước tiên qua ngả Ấn Ðộ. Phật là một từ do pháp sư Trung Quốc Huyền Tráng tạo ra khi dịch kinh Phật vào thế kỷ 7. Lê Mạnh Thát ( Lịch Sử Phật Giáo VN tập 1) còn đi xa hơn, đưa ra giả thuyết Lục Ðộ Tập Kinh trước tiên được dịch từ chữ Phạn qua chữ Việt cổ, Khương Tăng Hội đã tham chiếu bản dịch chữ Việt này để dịch qua chữ Hán.

Bằng chứng nữa: khi vua Tùy Văn Ðế (589- 601) phục hưng đạo Phật Trung Quốc rồi, muốn truyền bá Phật pháp tới Giao Châu, sư Ðàm Thiên tâu : Giao Châu có đường thẳng thông với Thiên Trúc.Khi đạo Phật mới tới Giang Ðông chưa đầy đủ thì ở Luy Lâu của Giao Châu đã có hơn 20 ngôi bảo sát (chùa), độ được hơn 500 vị tăng, dịch 15 cuốn kinh. Năm 255, Khương Tăng Hội (sau khi thọ đại giới tại nước ta) vào đất Ðông Ngô, lập am tranh thờ tượng Phật, bị quan chức Trung Quốc cho là kỳ lạ báo cho vua Ðông Ngô là Tôn Quyền. Nếu đạo Phật đã có mặt tại đây vào thời điểm này, có lẽ Khương Tăng Hội không bị những thử thách có thể mất mạng mới được phép hoằng dương Phật pháp.

Phật Giáo tại nước ta đã có chùa Liên Trì đã được xây từ thời Hùng Vương ( trước 258 BC). Năm 544, vua Lý Nam Ðế dựng chùa Khai Quốc trên nền cũ của chùa Liên Trì. Chùa Trúc Viên ở núi Sài Sơn (tỉnh Sơn Tây) đã có mặt từ thời tể tướng Lữ Gia của nhà TRiệu (năm 110 BC). Ngôi chùa đầu tiên tại Trung Quốc là chùa Bạch Mã ở kinh đô Lạc Dương xây cất khoảng năm 68 để làm chỗ Ma Ðằng Ca DiếpTrúc Pháp Lan chứa kinh và dịch kinh do ngựa trắng chở từ nước Ðại Nhục Chi về.

Năm 39, hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng đứng lên đánh đuổi tên thái thú nhà Hán tàn bạo Tô Ðịnh, sư cô Thiều Hoa rời khỏi chùa, mộ được 500, trở thành tướng tiên phong của Trưng Vương. Trưng Vương dẹp xong 65 thành trì, thâu hồi độc lập cho đất nước, sư cô Thiều Hoa lại trở về chùa làng Hiền Quan tiếp tục tu. Bà sinh năm 3, xuất gia năm 16 tuổi sau khi cha mẹ đều mất. Bà tịch năm 40. Năm 43, sau trận đánh cuối cùng ở Cẩm Khê, Hai Bà trầm mình xuống sông Hát, cuộc khởi nghĩa của TRưng Vương chấm dứt, một số tướng lãnh của Hai Bà nương mình nơi cửa Phật. Trong đó có Bát Nàn Phu Nhân. Tướng nhà Hán là Mã Viện tiến hành một cuộc thanh trừng quy mô, thậm chí bắt lưu đày dân cả một vùng Ðông Việt vào đất Giang Hoài và tìm bắt các người có khả năng lãnh đạo mà y gọi là "chủ soái" lưu đày ra Linh Lăng. Phật Giáo nước ta thời đó hẳn có tổ chức chặt chẽ mới che chở được những tăng ni mới và tồn tại được sau chiến dịch đồng hóa quy mô và gắt gao của Mã Viện, một kẻ chưa hề nghe nói tới Phật.

Như vậy Ni giới nước ta đã có mặt từ trước năm 39. Hẳn nhiên khi sư cô Thiều Hoa (còn gọi là Hoàng Thiếu Hoa) rời chùa đi cứu nước mà chỉ trong thời gian ngắn mộ được 500 quân thì phải hiểu là đạo hạnh của bà đã có sức thuyết phục đại chúng từ trước đó. Tại Trung Quốc, mãi tới năm 429 mới có một ni đoàn từ Tích Lan tới Kiến Nghiệp học chữ Hán để hướng dẫn ni chúng người Hoa.

Tăng đoàn nước ta cho tới cuối thế kỷ 2 đã được phát triển khá mạnh. Các đại sư và kinh sách của trung tâm Luy Lâu ít nhất đã đào tạo được hai nhân vật kiệt xuấtMâu TửKhương Tăng Hội.
Mâu Tử (khoảng 160- khoảng 230) người Thương Ngô, ham đọc đủ loại sách, thường đem Ngũ Kinh của Nho giáo ra vặn hỏi các Nho gia. Năm 180, thiên hạ loạn lạc, Mâu Tử đưa mẹ tới Giao Chỉ lánh nạn. Có lẽ ông bắt đầu để ý tới Phật pháp tại Luy Lâu từ năm 183. Năm 26 tuổi về Thương Ngô cưới vợ, lộ trình dài tới 5 ngàn dặm. Ít lâu sau mẹ mất, nghĩ thời thế nhiễu nhương, bèn dốc chí nghiên cứu đạo Phật tại Luy Lâu. Ông viết Lý Hoặc Luận năm 198 để trả lời những người quen biết chỉ trích ông phản bội Nho mà theo Phật. Theo Lê Mạnh Thát (Tổng tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam 1, tr. 26) Lý Hoặc Luận từng là sách gối đầu giường của giới học Phật ở Trung QuốcNhật Bản. Ðây là sáng tác lý luận Phật Giáo đầu tiên bằng Hán văn, trình bày khả năng của Phật Giáo có thể thay thế Nho Giáo trong mọi lãnh vực xử thế.

Khương Tăng Hội (khoảng 200- 280) sinh ra, lớn lên, xuất gia và được thọ giới theo nghi thức "Tam Sư, Thất Chứng" tại Giao Châu. Mối liên hệ thầy trò trong tăng đoàn thắm thiết tới mức nhiều năm sau khi ba thầy tịch, Khương Tăng Hội vẫn còn thương tiếc. Tại Trung Quốc, tới năm 258 sư Ðàm Ma Ca La từ Trung Ấn tới Lạc Dương tổ chức truyền giới theo nghi thức "Tam Sư Thất Chứng", nghi thức này mới được bắt đầu tại Trung Quốc. Năm 247 Khương Tăng Hội chống gậy, vân du qua Ðông Ngô (Trung Quốc) hoằng pháp. Pháp sư An Thế Cao, dịch giả kinh An Ban Thủ Ý, ca ngợi ông là người giảng kinh Thiền xuất sắc. Năm 258, vua Ðông Ngô Tôn Lâm phá chùa, giết sư, bị Tôn Hạo giết rồi nối ngôi. Khương Tăng Hội góp công lớn phục hồi Phật Giáo Ðông Ngô. Tại Ðông Ngô, ông dịch 14 quyển kinh ra Hán văn, trong đó có Lục Ðộ Tập Kinh. Sư ông Nhất Hạnh suy tôn Khương Tăng Hội là tổ Thiền Tông Việt Nam, mặc dù phần đóng góp chính yếu của ông là cho Phật Giáo Trung Quốc.

Khương Tăng Hội không phải là thí dụ duy nhất cho thấy từ khởi nguyên, Phật Giáo VN đã là chỗ dựa của Phật Giáo Trung Quốc. Ðầu thế kỷ 4, nhiều tăng sĩ Trung Quốc tìm đến chùa Tiêu Sơn ( Bắc Ninh) cầu học về Tịnh Ðộ, sau đó trở về Trung Quốc hoằng dương pháp môn này. Sư Ðàm Thiên (542- 607) sau khi thâu đạt về Duy Thức Học và Nhiếp Ðại Thừa Luận tại Luy Lâu đã giúp vua Tùy Văn Ðế phục hồi Phật Giáo Trung Quốc.

Tóm lại, từ khởi nguyên Phật Giáo du nhập vào nước ta từ Ấn Ðộ. Phật Giáo Ấn Ðộ đã truyền tới nước ta trước khi tới Trung Quốc. Trong những thế kỷ đầu, Phật Giáo VN đã là chỗ dựa cho Phật Giáo Trung Quốc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21162)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12279)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11943)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12838)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26704)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13096)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27090)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32924)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31728)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32626)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13051)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12189)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17560)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18786)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12597)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11802)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13153)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12264)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12530)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11684)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 12029)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10648)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10953)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28381)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11195)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11412)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13618)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11067)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11464)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10936)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11223)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26418)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12427)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14921)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11095)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20398)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12397)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11522)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10803)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23995)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11898)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12356)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12879)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11102)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38784)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10596)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12251)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17766)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25142)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10583)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10812)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12083)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11377)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11644)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14764)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21478)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9947)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11296)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27436)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11207)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant