Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đạt Lai Lạt Ma tại Harvard & Nhập Trung Đạo Cương Yếu

16 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 21144)
Đạt Lai Lạt Ma tại Harvard & Nhập Trung Đạo Cương Yếu


ĐẠT LAI LẠT MA TẠI HARVARD 
& NHẬP TRUNG ĐẠO CƯƠNG YẾU

Chân Nguyên dịch

blank

Vài nét về bản dịch Việt ngữ

 Về nội dung

 

blankSách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ và Nhập trung đạo cương yếu — một tiểu luận về Tính không được Đạt-lại Lạt-ma đích thân biên soạn bằng Tạng ngữ.

Phần đầu được dịch từ hai bản ngoại ngữ, bản Anh ngữ của giáo sư Hopkins dưới tựa »The Dalai Lama at Harvard — Lectures on the Bud­dhist Path to Peace« (Snow Lion Publications, Ithaca New York 14851, USA 1988) và bản dịch từ Anh sang Đức ngữ dưới tên »Ein­füh­rung in den Buddhis­mus — Die Harvard Vor­lesungen« của Chris­tof Spitz (»Phật học nhập môn — Các khóa trình tại Harvard«, Herder Ver­lag, Freiburg im Breisgau, 1993; cũng có tựa khác là »Die Vorträge in Har­vard«, »Các khóa trình tại Harvard«, Aquamarin Verlag, Grafing, 1991). Vì những điểm khó hiểu, cực kì phức tạp của các vấn đề được Đạt-lại Lạt-ma trình bày nên dịch giả người Việt phải sử dụng cả hai bản dịch để có thể hiểu và trình bày tinh xác hơn.

Trong bản Anh và Đức ngữ có một điểm bất đồng rất lớn giữa những đoạn văn mà trong đó, Đạt-lại Lạt-ma trình bày, diễn giảng rất trực tiếp, rất cụ thể, dễ hiểu — thậm chí khôi hài —, và những đoạn văn cực kì phức tạp, trình bày triết lí Tính không, Nhận thức học, Tâm lí học Phật giáo, những điểm mà độc giả chỉ có thể thông hiểu được khi đã đọc đi đọc lại nhiều lần một đoạn văn và làm quen với cách sử dụng thuật ngữ hết sức tinh tế của Đạt-lại Lạt-ma. Thỉnh thoảng dịch giả phải biến đổi cấu trúc của văn bản để có thể trình bày bằng Việt ngữ một cách thích hợp.

Chính vì những điểm hết sức phức tạp của phần đầu mà dịch giả quyết định đưa thêm vào tiểu luận Nhập trung đạo cương yếu với mục đích làm sáng tỏ những đoạn văn trùng phức, tối nghĩa trong phần đầu. Nhập trung đạo cương yếu có tên Tạng ngữ »dbu ma'i lde mig«, Jürgen Manshardt (Tỉ-khâu Dscham­pa Dönsang) dịch sang Đức ngữ dưới tên »Der Schlüssel zum Mittleren Weg«, được Trung tâm Tây Tạng (Tibe­tisches Zentrum e. V. Hamburg) tại Cộng Hòa Liên Bang Đức xuất bản. Độc giả nào muốn tham khảo phần này bằng Anh ngữ có thể sử dụng bản dịch của giáo sư J. Hopkins dưới tên »The Buddhism of Tibet and The Key to the Middle Way« (Unwin Hyman, London, Eng­land).

Về dịch thuật

Ghi chú ở cuối mỗi chương trong phần Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard được giáo sư Hopkins thực hiện. Ghi chú của dịch giả người Việt cũng như dịch giả người Đức được đánh dấu riêng và ghi trong ngoặc. Cước chú trong cả hai phần được dịch giả người Việt đưa vào.

Để tránh trường hợp gây phức tạp thêm những gì vốn đã khó hiểu, trong phần đầu, dịch giả không ghi thêm những thuật ngữ Phạn hoặc Tạng ngữ tương ưng trong chính bản văn mà chỉ thêm vào dưới dạng cước chú — trong trường hợp chúng chưa được giáo sư J. Hopkins lưu ý đến trong tổng mục ghi chú sau mỗi chương. Trong phần hai và Từ vị, dịch giả mạnh dạn đưa vào những thuật ngữ ngay trong chính bản — chúng được được ghi trong ngoặc đơn và viết nghiêng —, vì quan niệm phần này dành cho những người muốn tìm hiểu thêm, đã thông thạo một vài thuật ngữ ở đây. Mục Từ vị và bảng đối hiếu thuật ngữ được dịch giả người Việt đưa vào để làm sáng tỏ thêm những gì được trình bày. Ai muốn tìm hiểu thêm về những thuật ngữ Phật giáo Tây Tạngthể tham khảo thêm quyển Từ Điển Phật Học của Nguyễn Tường Bách và dịch giả.

Những điểm cần được lưu ý:

1. Danh từ phenomenon của tiếng Anh (Phạn: dharma, Tạng: chos, Đức: Phä­nomen) được dịch là »hiện tượng« thay vì »pháp« (trong trường hợp nó không có nghĩa là Phật pháp) để dễ hiểutương ưng với ngôn ngữ phổ biến hiện nay. Nhưng thỉnh thoảng cũng được biến chuyển để câu văn được xuôi tai hơn.

2. Tính từ exact (Đức: exakt) và precise (Đức: präzis) được dịch là tinh xác, hai tính từ correct (Đức: korrekt) và valid (Đức: gültig) được dịch là chính xác (với ý nghĩa »đúng đắn [chính] và rõ ràng [xác]«), đúng đắn, có giá trịtùy theo trường hợp.

3. Một biểu thị rất quan trọng trong bản dịch này là Tồn tại trên cơ sở (bản) tự tính, được dịch từ danh từ inherent existence của Anh ngữ hoặc Đức ngữ in­här­ente Existenz. Danh từ Phạn ngữ tương ưng là svabhāvasiddhi. Svabhāva có nghĩa là »tự tính«, siddhi có nghĩa »thành tựu« hoặc »khởi lập«. Cả ba dịch giả, giáo sư J. Hopkins cũng như Ch. Spitz và J. Manshardt đều dịch svabhāvasiddhi từ đầu đến cuối sách là »inhe­rent existence (inhärente Exis­tenz)«. Tính từ »inhe­rent« có nghĩa là »nội tại«, »cố hữu« và như thế, »inherent existence« có nghĩa là một cách »Tồn tại trên cơ sở tự tính«. Trong một vài đoạn văn, dịch giả rất có thể dùng chữ »tự ngã«, »tự tính«, »bản tính«, hoặc »ngã« thay vào »Tồn tại trên cơ sở tự tính« — nhưng không thực hiện vì muốn trình bày bản dịch nhất quán và vì những nguyên do khác mà độc giả sẽ tự hiểu sau khi đọc dịch bản. »Tồn tại bởi tự tính«, »Tồn tại trên cơ sở cố hữu« là những biến dạng đồng nghĩa trong bản dịch này.

4. Dịch giả cố gắng trình bày tất cả bằng Việt ngữ, giảm thành phần thuật ngữ chữ Hán nhưng rất nhiều trường hợp, rất nhiều đoạn văn không cho phép. Ví dụ như trường hợp dịch chữ Anh ngữ continum of mind (Phạn ngữ: saṃtāna hoặc tantra). Nếu chỉ dịch đơn thuần là »dòng tâm thức« thì tất cả những khía cạnh, ý nghĩa của biểu thị continuum này không được trình bày trọn vẹn. Vì vậy dịch giả đành phải sử dụng thuật ngữ Hán việt rất tinh xác là »liên tục thống nhất thể (của tâm thức)«. Trong trường hợp không tránh được những thuật ngữ Hán việt đặc thù Phật giáo thì cước chú kèm theo sẽ làm sáng tỏ vấn đề hơn. Và ngược lại, trong trường hợp dịch giả biết rõ các thuật ngữ Hán việt tương ưng thì chúng sẽ được ghi thêm vào dưới dạng cước chú. Bảng đối chiếu thuật ngữ trong phần Từ vị có thể giúp độc giả xác định từ nguyên và cách dịch được áp dụng trong dịch phẩm này.

Cách phát âm Phạn và Tạng ngữ

Phạn ngữ được trình bày ở đây dưới dạng phổ biến nhất trong kinh sách Phật giáo nước ngoài. Sau đây là một vài qui tắc phát âm cơ bản, giản lược:

c
 như ch của Anh ngữ. Cakra được đọc như chakra

ṃ, ṅ
 phát âm gần như -ng, nhưng kéo dài một chút, ví dụ như saṃ-sā-ra như sang-sā-ra, kéo dài ng- với giọng mũi.


 phát âm như ri, đọc nhanh, phớt qua chữ y. Rajāgṛha đọc như ra-jā-gri-ha. Ṛddhi đọc như riddhi.

ś, ṣ
 như sh trong Anh ngữ, ś được phát âm mạnh hơn ṣ một chút, ś như (t)sh và ṣ như (d)sh. Śikṣāsamuucaya được đọc như shik-sh-sa-much-cha-ya.

ū
 đọc như u Việt ngữ kéo dài

ā
 đọc như a Việt ngữ kéo dài

ō
 đọc như ô Việt ngữ kéo dài

e
 đọc như ê Việt ngữ kéo dài

ī
 đọc như y Việt ngữ kéo dài

Những dấu chấm dưới các chữ sau có thể bỏ qua như ḍ, ḷ, ṭ, ṇ. Dh được đọc như d với chữ h thật nhanh phía sau như dhātu.

Trong độc bản, Tạng ngữ được trình bày dưới dạng Hán việt hoặc cách dịch âm Việt hóa, có thể đọc gần như tiếng Việt; trong cước chú, ghi chú và Từ vị được la-tinh hóa theo hệ thống của Turrell Wylie (xem thêm trong »A Stan­dard System of Tibetan Tran­scrip­tion«, Harvard Journal of Asiatic Studies, vol. 22, 1959, trang 261-267).

Viết tắt

engl.: Anh ngữ; ger.: Đức ngữ; jap.: Nhật ngữ; skrt.: Phạn ngữ; tibet.: Tạng ngữ; tk.: Thế kỉ;

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13265)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14204)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15529)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13233)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19389)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24662)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15762)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37860)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13496)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13118)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17201)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13219)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17406)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21690)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13270)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14435)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12875)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13684)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28662)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23436)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34423)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28901)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32211)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11340)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12013)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26321)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17410)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14544)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34555)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13142)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12293)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13426)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40558)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26977)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14478)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13273)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13477)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12547)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13167)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12328)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11818)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12600)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17684)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12233)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12771)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18461)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14319)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 13021)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11336)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12175)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13491)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10865)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11093)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10315)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28949)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25326)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26890)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25804)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18697)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23079)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant