Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 08: Phiên dịchấn hành Phật điển Trung Hoa

03 Tháng Năm 201300:00(Xem: 9327)
Chương 08: Phiên dịch và ấn hành Phật điển Trung Hoa

LƯỢC SỬ PHẬT GIÁO TRUNG QUỐC

(Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X)

 Soạn giả: Viên Trí


Chương Tám

PHIÊN DỊCHẤN HÀNH PHẬT ĐIỂN TRUNG HOA


Công trình phiên dịchbiên soạn tam tạng Thánh điển có lẽ được hoàn thành vào cuối triều đại nhà Đường. Toàn bộ tam tạng thánh điển được đưa vào Trung Quốc đều được tăng nhân ngoại quốc cũng như Trung Hoa phiên dịch sang Hoa ngữ. Trong thực tế, phần lớn văn điển đã được phiên dịch hoàn tất trước thời đại nhà Tùy; chỉ còn một số ít được thực hiện vào nhà Đường và một vài triều đại về sau. Thành phẩm này là tài sản vĩ đại của Phật giáo, đóng góp cho nền văn hóavăn minh Trung Hoa. Trong thực tế, tiến trình làm việc và ứng dụng kỹ thuật phiên dịch của giới Phật giáo Trung Quốc để đưa đến thành quả cuối cùng ấy phải kinh qua trong một thời gian dài với nhiều khó khăn và hạn chế của nó, bắt đầu từ nỗ lực cá nhân với những giới hạn nhất định về văn hóa, ngôn ngữ…, cho đến khi được tổ chức thành hội đồng phiên dịch mang tính quốc gia.

I. Lãnh vực phiên dịch

Ban đầu, phiên dịch Phật điển chỉ là công việc mang tính riêng lẻ do một vài Tỷ-kheo thực hiện. Trường hợp của hai tăng sĩ Ấn Độ, tên là Wei-chi-nan và Chu-fu-yen (biết một ít Hoa ngữ), cùng cộng tác để dịch kinh Pháp Cú vào năm 224, là một ví dụ điển hình. Tuy nhiên, một số tăng nhân ngoại quốc khác cũng nỗ lực phiên dịch số kinh điển do chính họ mang đến Trung Quốc, nhưng vì không viết được chữ Hán, họ thường phải tìm kiếm một vài trí thức Trung Hoa phụ tá. Trong trường hợp này, tăng nhân ngoại quốc giải thích kinh bằng tiếng Trung Hoa, sau đó người phụ tá ấy sẽ viết ra những gì họ nghe được. Phương pháp dịch thuật này được áp dụng rộng rãi trong thế kỷ thứ III và thứ IV. Ví dụ, Nhiếp Thừa ViễnNhiếp Đạo Chânphụ tá của Dharmaraksha. Kỹ thuật phiên dịch như thế rõ ràng biểu lộ rất nhiều nhược điểm và sai sót. Điều này được thấy trong nhiều trường hợp, ví dụ giới tăng sĩ ngoại quốc do không hiểu được chữ viết Trung Hoa và chỉ có một số vốn liếng ít ỏi của ngôn ngữ đàm thoại; vì vậy khi giải thích bản kinh gốc cho người phụ tá nghe, tăng nhân ấy chỉ có thể giải thích bản kinh với vốn liếng ngôn ngữ đàm thoại hạn chế của tự thân và không biết gì về những điều được viết lại bằng Hoa ngữ. Có lẽ do ý thức được điều này nên phong trào Tây du cầu pháp đã dấy lên trong giới Phật tử Trung Hoa với mục đích chỉnh lý tình trạng yếu kém trên.

Vào cuối thế kỷ thứ IV, Đạo An thành lập ban dịch thuật để phiên dịch văn điển của Sarvastivàda (Nhứt Thiết Hữu Bộ) từ Sanskrit sang tiếng Hoa. Tổ chức này được công nhận thành một cơ quan hợp pháp và sứ mệnh của nó mang tầm vóc quốc gia khi Kumàrajìva (Cưu-ma-la-thập) đến Trung Quốc vào năm 401. Cơ quan này thường tọa lạc trong phạm vi của hoàng cung hay trong những ngôi chùa nổi tiếnghoạt động dưới sự bảo trợ của đông cung thái tử. Đây có thể xem là giai đoạn thứ hai[1] trong quá trình phiên dịch văn điển. Lúc này, giới tăng sĩ ngoại quốc như Kumàrajìva… rất thành thạo Hoa ngữ, đồng thời kiến thức Phật học cũng như trình độ Sanskrit của tu sĩ người Hoa như Tăng Triệu và Tăng Duệ… cũng thiện xảo tương tự. Kumàrajìva làm việc rất cẩn trọng. Khi dịch thuật, thông thường ngài cầm cuốn sách trong tay, nêu ý nghĩa của nó bằng tiếng Hoa, giải thích bản kinh hai lần, cố gắng chọn lựa cách diễn đạt chính xác để chuyển tải ý nghĩa của bản kinh gốc. Nếu có đoạn nào trong cuốn kinh đang dùng bị thiếu sót, ngài liền tìm cuốn kinh tương tự để bổ sung phần bị mất ấy. Nếu có bất cứ nghi hoặc nào trong khi đọc duyệt lại tiếng Hoa, Kumàrajìva kiểm tra chúng với nguyên bản. Khi thấy không có gì có thể thay đổi được nữa, ngài mới cho phép ghi chép phần phiên dịch vào trong bản sách sau cùng.

Khi bộ phận phiên dịch được hình thành, chức vụ và trách nhiệm công việc cũng được phân định một cách có hệ thống; đặc biệt dưới triều đại nhà Tùy và Đường. Thông thường, mỗi bộ phận phiên dịch bao gồm một vị thủ lĩnh, một vài người phiên dịchtrách nhiệm đọc kỹ càng bản kinh gốc (Sanskrit) rồi dịch sang tiếng Hán, vài người thẩm tra ý nghĩa của bản kinh Sanskrit, người viết lời phiên dịch ấy ra Hoa ngữ, người thẩm tra ý nghĩa được chuyển dịch sang tiếng Hoa, người nhuận văn, người đọc và sửa bản thảo và người hiệu đính tiếng Hoa.

Công tác phiên dịch dưới triều đại nhà Tùy và Đường hình thành nên giai đoạn thứ ba của quá trình phiên dịch văn điển Phật giáo. Huyền TrangNghĩa Tịnh là hai nhân vật tiêu biểu cho thời kỳ này. Vốn đã thiện xảo Sanskrit và Hoa ngữ, đồng thời am hiểu cả văn hóa Trung Quốc lẫn Ấn Độ nên sau chuyến Tây du cầu pháp trở về, cả hai vị này trở thành những người dịch thuật đầy năng lực. So sánh một bản dịch của Paramartha (Chân Đế) và một của Huyền Trang về tác phẩm “Madhyantavibhaga” người ta thấy rằng bản dịch của Huyền Trang trội hơn Chân Đế trong cả văn phong lẫn nội dung. Ngôn từ trong bản dịch của Chân Đế đôi khi tỏ ra vụng về và chưa thể hiện đúng văn phong của Hán ngữ. Độ chính xác trong lối dịch của Huyền Trang có thể tìm thấy trong bản dịch “Vimalakìrti” (Duy-ma-cật) khi đem nó so sánh với bản dịch cùng kinh ấy của Kumàrajìva.

II. Ưu khuyết trong công tác phiên dịch

Một số khó khăn gặp phải trong quá trình dịch thuật từ Sanskrit sang Hoa ngữ vào giai đoạn mở đầu là một thực tế không thể tránh được. Trước hết là vấn đề cách thức phiên dịch; nghĩa là người ta nên chuyển dịch tư tưởng mà không cần câu nệ ngôn ngữ hay phải trung thành với nguyên bản? Thứ hai, làm thế nào để xử lý vấn đề tên tuổi cũng như thuật ngữ Phật học trong Sanskrit? Chúng nên được dịch nghĩa hay chỉ nên chuyển âm? Ban đầu, các vấn đề trên rõ ràng không được thống nhất trong giới phiên dịch. Ví dụ, An Thế Cao và Chih-chan có khuynh hướng trung thành với nguyên bản khi phiên dịch, nhưng Chieh Chien và Dharmaraksha lại chú tâm đến việc chuyển dịch những ý tưởng quan trọng của bản kinh sang loại văn phong sáng sủa và dễ đọc. Trong thực tế, cách dịch này dễ dàng mất đi tính chính xác của nguyên bản, vì nó chỉ nhắm đến việc duy trì ý nghĩa với loại văn hay, chữ tốt. Vì vậy, mặc dù vẫn công nhận đặc điểm của nó, nhiều học giả Phật giáo phản đối cách phiên dịch này. Theo họ, phương pháp ấy gây nên sự lộn xộn trong các chủ đề của kinh với kết quả là những mục tiêu trọng yếu lại bị lạc mất trong các ngôn ngữ không chính xác, và chân ý nghĩa của nó cũng bị phai nhạt đi qua việc chú trọng trau chuốt ngôn từ.

Mặc dầu không thiện xảo về văn học Sanskrit, Đạo An vẫn là người nêu ra nhược điểm của phương pháp dịch trên một cách nghiêm túc. Theo Đạo An, một trong những nhược điểm lớn nhất của lối phiên dịch tự do hay còn gọi là dịch ý là người phiên dịch thường diễn dịch ý nghĩa kinh sách theo lối suy nghĩ chủ quan của mình. Kết quả là số bản dịch ấy thường bị trộn lẫn nhiều khái niệm phi Phật giáo. Do vậy, Đạo An chủ trương rằng dịch thuật kinh điển cần phải trung thành với nguyên bản trong khả năng có thể. Ngài nêu ra năm điểm gọi là “Ngũ Thất Bổn” mà phương pháp dịch ý đi trệch nguyên bản: (1) Giới phiên dịch thường đảo ngược trật tự câu cú của văn bản Sanskrit để thích nghi với thói quen của người Hoa; (2) Nhằm lôi cuốn sự chú ý của người đọc, các dịch giả thường đánh bónggiản dị hóa ngôn ngữ khiến tinh hoa của nguyên bản trở thành yếu tố phụ; (3) Họ thường bỏ bớt phần lặp văn, kệ tụng và các nhóm từ cảm thán; (4) Thỉnh thoảng họ bỏ sót các giải thíchbình luận dài nằm giữa đoạn; và (5) Họ thường bỏ qua những đoạn lặp lại các ý tưởng đã được thảo luận ở phần trước. Tuy nhiên, Đạo An cũng thừa nhận một số khó khăn trong khi phiên dịch văn điển Phật giáo. Trước hết, dịch giả cần phải trung thành với nguyên bản, nhưng cần phải chuyển tải qua bản dịch ấy cái ý nghĩa thâm sâu của bản kinh khiến cho đọc giả đương thời có thể hiểu được. Đây là một đòi hỏi không dễ thực hiện. Tiếp đến, sự cách biệt giữa tuệ giác của đức Phậthiểu biết của phàm phu thì quá to lớn, do vậy không dễ dàng gì khiến cho người đương thời có thể hiểu được lời dạy vi diệu của một bậc Thánh cách đó hàng ngàn năm. Đây là khó khăn thứ hai của giới dịch thuật. Cuối cùng, Đạo An nói rằng kinh điển được kiết tập một cách cẩn thận dưới sự chủ tọa của ngài Đại Ca-diếp và 500 A-la-hán ngay sau khi đức Phật nhập diệt, do vậy có thể kiểm tra được sự sai lạc. Nhưng đến thời điểm ấy, tức đã hơn 1000 năm trôi qua, làm thế nào chúng ta có thể xác quyết và thẩm định lời dạy chân chính của Thế Tôn? Do vậy, người ta cần phải cẩn thận khi phiên dịch kinh điển!

Trái lại, mặc dù không chống đối quan điểm của Đạo An, Kumàrajìva vẫn có chủ trương độc lập. Ngài cho rằng việc phiên dịch sẽ không bao giờ chuyển tải được tinh hoa của nguyên bản, vì nó giống như một người được nuôi dưỡng bằng thức ăn do người khác nhai mớm, không những người ấy không cảm nghiệm được hương vị vốn đã phai lạt, lắm khi lại còn dị ứng. Do đó, Kumàrajìva không những không áp dụng cách dịch thuật của Đạo An , mà còn chủ trương lựa chọn, tóm tắt bản kinh rồi chỉ tập trung giữ lại ý nghĩa của nguyên bản. Đối với ngài, mục tiêu chính của phiên dịch là nắm bắt chủ đề chính của kinh. Cần lưu ý rằng mặc dầu không tuân thủ một cách nghiêm túc nguyên bản, Kumàrajìva vô cùng lưu tâm đến kỹ thuật phiên dịch nhằm tránh tối đa sai sót trong khi dịch thuật. Ngài thường tu chính bản dịch và bất cứ khi nào cảm thấy nghi ngờ, ngài liền đem chúng đối chiếu với nguyên bản. Thỉnh thoảng, vì lợi ích của người đọc, ngài cũng chuyển đổi một số địa danh và danh từ riêng mà người Hoa chưa biết thành những danh từ đã phổ biến sâu rộng; ví dụ, núi tên Mandara hay Vindhaya thành núi tên là Tu Di (Sumeru).

Yeng Tsung, người rất thiện xảo tiếng Sanskrit, là một nhân vật khác quan tâm đến vấn đề hình thái ngôn ngữ. Ông nói rằng ông có thể diễn dịch kinh điển bằng ngôn ngữ không trau chuốt mà vẫn gần với sự thật hơn là đánh bóng ngôn ngữ nhưng lại sai lệch với nguyên nghĩa. Theo ông, một dịch giả cần phải hội đủ tám đặc tính: (1) Cần phải kiên nhẫn, trung thành và tận tụy với Phật pháp; (2) Phải nghiêm trì giới luật khi nhận trách nhiệm thiêng liêng này; (3) Cần phải học tập thấu triệt tam tạng của cả hai bộ phái[2]; (4) Cần phải giỏi văn học dân gian và thành thạo với điển tích, thơ văn; (5) Cần phải công bằng, rộng lượng; (6) Cần có kinh nghiệm sâu sắc về lý thuyết và sự hành trì của tôn giáo, bình thản với lợi danh, không khoác lác, khoe khoang; (7) Phải thiện xảo Sanskrit (tiếng Phạn); và (8) Phải có kiến thức về triết học, từ nguyên và từ điển.

Tuy nhiên, liên quan đến nguyên tắc dịch thuật, cuối cùng chủ trương của Kumàrajìva trở nên thịnh hành nhất. Rõ ràng, uy tín của ngài là yếu tố quyết định cho sự thịnh hành trên. Nhưng phương pháp của Kumàrajìva chủ yếu chỉ chuyển dịch những phần quan trọng được tuyển chọn trong nguyên bản cũng biểu hiện sự hạn chế của nó. Ví dụ, nếu một phần nào đó trong nguyên bản Sanskrit bị bỏ sót, rõ ràng người ta không dễ dàng gì để tái xây dựng phần thiếu sót ấy trên căn bản của bản dịch tiếng Hoa, hoặc là đối chiếu Hán bản để tìm lại đoạn sót ấy trong nhiều nguyên bản Sanskrit khác nhau. Để khắc phục nhược điểm này, ngày nay người ta thường dựa vào bản dịch của Tây Tạng để chỉnh lý, vì văn điển Tây Tạng được xem là dịch sát với nguyên bản nhất. Riêng về phần địa danh hay tên riêng, giới phiên dịch thường có khuynh hướng giữ nguyên từ gốc và chỉ chuyển ngữ sang âm Hán.

III. Danh mục kinh điển

Cần lưu ý rằng nỗ lực không ngừng của giới dịch giả Phật học Trung Hoa trong việc tìm kiếm hình thức, phong cách thích hợp, ngữ pháp và từ vựng chính xác là nhằm làm cho kinh điển trở nên dễ hiểu hơn đối với quần chúng bình dân. Khi số lượng kinh sách phiên dịch quá nhiều, tăng sĩ Trung Hoa đã phát minh ra phương pháp mới để giúp cho người đọc có một cái nhìn bao quát đối với số lượng văn điển khổng lồ ấy bằng việc biên soạn Bảng Danh Mục (Catalogue), bao gồm tên tuổi của dịch giả và đề mục kinh sách mà họ dịch. Cuốn Danh Mục đầu tiên và quan trọng nhất là “Thống Lý Chúng Kinh Mục Lục” do Đạo An biên soạn vào năm 374, gọi tắt là “An Lục”. Hiện nay “An Lục” không còn, nhưng sử liệu của nó được ghi lại khá rõ ràng trong “Xuất Tam Tạng Ký Tập” do Tăng Hựu biên soạn vào năm 518. Tác phẩm này của Tăng Hựu là cuốn Danh Mục xưa nhất còn tồn tại, chứa đựng nhiều nguồn tài liệu rất có giá trị, không những đề cập đến văn điển Phật giáo mà còn liên quan đến lịch sử. Về sau, rất nhiều Danh Mục được giới học giả Phật giáo biên soạn. Hiện còn lưu truyền được 18 tác phẩm. Chỉ riêng đời Đường, có chín Danh Mục (Catalogues) được biên soạn, trong số đó “Khai Nguyên Thích Giáo Lục” do Trí Thăng biên soạn vào năm 730 là tác phẩmgiá trị nhất. Là một bảng tóm tắt tất cả nhan đề kinh sách hiện hành, tác phẩm này hệ thống hóa theo thứ tự thời gian, tên tuổi của các dịch giả cùng với đề mục, số lượng chương phẩm mà họ phiên dịch. Nếu một cuốn kinh được nhiều dịch giả phiên dịch thì số bản dịch ấy cùng với danh tánh của người dịch chúng cũng như thời gian và địa điểm phiên dịch được ghi chú rõ ràng. Lược sử của dịch giả và phân loại kinh sách thành từng loại khác nhau cũng là một đặc điểm của “Khai Nguyên Thích Giáo Lục”. 

 

IV. Ấn hành tam tạng

Trước khi kỹ thuật ấn loát ra đời, kinh điển Phật giáo tại Trung Hoa thường được viết tay, sao chép trong hình thức của một cuộn giấy dài mà ngày nay gọi là “chuan” để nhằm chỉ một phần hay một chương. Người ta dùng hồ để dán nhiều trang giấy lại, nối kết thành một cuộn dài. Vào cuối thế kỷ XIX, rất nhiều kinh sách trong dạng này được phát hiện ở động Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc, miền Bắc Trung Hoa. Ví dụ, theo L. Giles, cuốn Luật ghi năm 406, hiện được cất giữ trong Viện Bảo Tàng Anh Quốc, dài 7,8 mét (26 bộ Anh). Cuộn dài nhất đo được 29,7 mét (99 bộ).[3] Cần lưu ý rằng ngay cả khi kỹ thuật in khối ra đời, kinh điển vẫn lưu hành trong hình thức giấy cuộn. Theo dòng thời gian, những bước phát minh mới về in ấn dần dần được ứng dụng. Kinh điển lúc này được in trên những tờ giấy, nối kết liên tục lại với nhau và được gấp lại. Sau cùng người ta dùng hồ hoặc khâu gáy của chúng lại thành cuốn sách. Kỹ thuật in ấn này được Trung Quốc áp dụng cho việc in ấn đại tạng đến tận ngày nay.

Với sự xuất hiện của kỹ thuật in ấn trong thế kỷ thứ XVIII, Phật giáo đồ là những người tiên phong trong diễn biến này. Họ lập tức ứng dụng lợi thế ấy để truyền bá văn điển Phật giáo. Số văn điển của Đôn Hoàng thuộc niên đại 868 mà ngày nay bảo tàng Anh Quốc còn lưu giữ là kinh sách cổ xưa nhất được in ấn theo kỹ thuật mới ấy theo lệnh của Wang Chieh. Ông ta ấn tống nhiều sách kinh để tỏ lòng tôn kínhhồi hướng công đức cho hai bậc sinh thành của mình. Tuy nhiên, trước đó hơn 1.000 năm, một công trình in ấn với tầm vóc quốc gia đã được thực hiện. Cụ thể, vào năm 972, hoàng đế đầu tiên của nhà Tống ra lệnh in ấn lại toàn bộ tam tạng văn điển Trung Hoa. Công trình này hoàn tất vào năm 983 và được xem là tam tạng văn điển Phật giáo đầu tiên của Trung Hoa, bao gồm 1.076 mục, gộp khoảng 5.048 chuan. Sau đó, đại tạng còn được triều đình nhà Tống tái bản thêm bốn lần nữa. Lần thứ nhất bắt đầu vào năm 1080, hoàn tất vào năm 1176; lần thứ hai khởi sự vào năm 1112, kết thúc vào năm 1172; lần thứ ba bắt đầu năm 1132 (không rõ ngày hoàn tất); và lần thứ tư khởi sự vào năm 1237, kết thúc vào năm 1252.

Trong khi ấy, các triều đại do vua chúa ngoại tộc cai trị ở phía Bắc cũng rất năng động trong việc ấn hành văn điển. Cụ thể, một công trình in ấn tam tạng bao gồm 579 hộp được thực hiện do lệnh của hoàng đế Liao (Liêu 907-1124) . Sau khi tiếp quản chính quyền, triều đại nhà Chin (Kim) cũng tiến hành in ấn một đại tạng kinh tại Sơn Tây từ năm 1148-1173, bao gồm 682 hộp, vào khoảng 7.000 chuan; trong đó hơn 4.900 chuan còn tồn tại cho đến ngày nay. Dưới thời nhà Nguyên, đại tạng được tái bản ba lần. Lần thứ nhất in tại chùa Phổ MinhHàng Châu vào những năm 1278-1294, gồm 1.422 mục, 587 hộp, tức vào khoảng 6.010 chuan; lần thứ hai in tại Kiangsu–(công trình này khởi sự năm 1231-dưới thời nhà Tống nhưng cho đến năm 1322 của nhà Nguyên mới hoàn thành, bao gồm 1.532 mục, 591 hộp, khoảng 6.362 chuan); và lần thứ ba in tại chùa Hoằng Pháp- Bắc Kinh vào các năm 1277-1294, gồm 1.654 mục trong 7.182 chuan.

Hai công trình ấn loát khác được thực hiện dưới thời nhà Minh, một ở Nam Kinh và một ở Bắc Kinh. Tam tạng cũng được in ấn trong triều đại Mãn Châu hai lần. Lần thứ nhất hoàn tất vào năm 1677 và lần hai vào năm 1738. Bên cạnh ấy, đại tạng thứ ba được Tu Viện P’in chia ở Thượng Hải thực hiện vào năm 1909 và hoàn thành vào năm 1914.

Cần lưu ý rằng việc ấn loát tam tạng bằng tiếng Tàu không chỉ khoanh vùng ở Trung Quốc. Kinh sách thuộc đại tạng nhà Tống sớm được đưa vào Triều Tiên. Vào năm 1011, trên căn bản của số kinh sách ấy, Triều Tiên bắt đầu xuất bản tam tạng Triều Tiên đầu tiên. Công trình ấy hoàn thành dưới triều đại Wen-tsung (1074-1082), bao gồm 570 hộp, khoảng 5.924 chuan. Do vì tam tạng in ấn kỳ này bị người Mông Cổ thiêu hủy trong năm 1232, đại tạng thứ hai của Triều Tiên được khởi sự thực hiện vào năm 1236 và hoàn tất năm 1251, bao gồm 639 hộp, vào khoảng 6557 (hoặc 6589) chuan. Vào cuối thế kỷ thứ XVI, nhờ chiến dịch vận động của Hideyoshi tại Triều Tiên, kỹ thuật in ấn được đưa vào Nhật Bản. Vào những năm 1633-1645, Tỷ-kheo Tenkai lập tức tiến hành in ấn tam tạng bằng Hoa ngữ tại Nhật bản. Vài năm sau, trên căn bản của tam tạng đời Minh, Tetsugen lại tiếp tục in một đại tạng khác ở Nhật Bản.

Nói tóm lại, tam tạng văn điển Trung Hoa đang lưu hành hiện nay bao gồm cả kinh điển của Phật giáo Nguyên Thủy và Phát Triển (Đại Thừa). Trong thực tế, tại Trung Hoa, văn điển Phật giáo Nguyên Thủy không phổ biếnthịnh hành bằng văn điển Phật giáo Phát Triển, đặc biệt là các kinh như Pháp Hoa, Duy-ma-cật… Lý do là vì ngôn ngữ của kinh điển Nguyên Thủy được chuyển dịch tương đối gần với lời Phật dạy từ xa xưa, do vậy không thích hợp tâm thái của người Tàu, trong khi ấy ngôn ngữ của Đại thừa gần gũi và đáp ứng được khuynh hướng sống cũng như sở thích của người đương thời nên dễ dàng được quần chúng chấp nhận.

Tài liệu tham khảo
***

1/- Ngô Vinh Chính-Vương Miện Quý (chủ biên), Đại Cương Lịch Sử Văn Hóa Trung Quốc, Nxb.Văn Hóa Thông Tin, 1994.

2/- Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc, tập I, Nxb.VHTT-Hà Nội, 1996.

3/- Henri Maspero, Đạo Giáo và Các Tôn Giáo Trung Quốc, Lê Diên (dịch), Nxb. Khoa Học Xã Hội, 1999.

4/- Phùng Hữu Lan, Đại Cương Triết Học Sử Trung Quốc, Nguyễn Văn Dương (dịch), Nxb. Thanh Niên, 1999.

5/- HT.Thích Thanh Kiểm, Lịch Sử Phật Giáo Trung Quốc, THPG TP.HCM, 1991.

6/- Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nxb. Văn Học, Hà Nội, 2000.

7/- Lê Mạnh Thát, Nghiên Cứu Về Mâu Tử, tập I, Tu Thư Vạn Hạnh, 1982.

8/- Viên Trí, Khái Niệm Về Bồ Tát Quán Thế Âm, Nxb. Tôn Giáo, 2003.

9/- Kenneth K.S. Ch’en, Buddhism in China, Princeton University Press, New Jersey, 1964.

10/- Kenneth K.S. Ch’en, The Chinese Transformation of Buddhism, Princeton University Press, New Jersey, 1973.

11/-Zenryù Tsukamoto, A History of Early Chinese Buddhism, tập I, Leon Hurvitz (dịch), Tokyo- New York-San Francisco, 1985.

12/- Zenryù Tsukamoto, A History of Early Chinese Buddhism, tập II, Leon Hurvitz (dịch), Tokyo- New York- San Francisco, 1985.

13/-Arthur F. Wright, Studies in Chinese Buddhism, Yale University Press, New Haven and London, 1990.

14/- Arthur F. Wright, Buddhism in Chinese History, Stanford University Press, California, 1959.

15/- S. Beal, Buddhism in China, I.B.H, India.

16/- Mircea Eliade (chủ biên), The Encyclopaedia of Religion, Macmillan Publishing Company, New York, 1987.

17/- G.P. Malalasekera (chủ biên), Encyclopaedia of Buddhism, Government of Srilanka, 1990.

18/-Joseph Edkins, Chinese Buddhism, Paragon Book Reprint Corp., New York, 1968.

19/-Wing-tsit Chan, A Source Book in Chinese Philosophy, Princeton Univeristy Press, New Jersey, 1973.



[1] Thế kỷ thứ V và thứ VI

[2] Nguyên Thủy (Thượng Tọa) và Phát Triển (Đại Thừa)

[3] Xem Buddhism in China, Kenneth K.S. Ch’en, tr. 374.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6104)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9981)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7082)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7330)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6978)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9341)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5830)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7098)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6513)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6091)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7159)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14373)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20417)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9460)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7858)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8179)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7443)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9368)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7442)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7476)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7648)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9466)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8764)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7364)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7955)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7004)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7658)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9851)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8280)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8828)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7665)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8824)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8627)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 7997)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 8997)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9421)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8719)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8877)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7219)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9168)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8594)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7887)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9606)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10160)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8749)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8358)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7619)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9320)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7468)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15346)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7294)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8471)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12223)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7296)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11490)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8309)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8031)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7901)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8916)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7405)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant