Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nghiệp Nặng Và Sự Cứu Độ Của Đức Phật

22 Tháng Tám 201300:00(Xem: 8321)
Nghiệp Nặng Và Sự Cứu Độ Của Đức Phật

NGHIỆP NẶNG VÀ SỰ CỨU ĐỘ CỦA ĐỨC PHẬT


Nguyễn Xuân Chiến


nghiep-nang1- Một bậc trưởng lão, thọ giới Tỳ-kheo và tu hạnh đầu đà (khổ hạnh) đã hơn 50 năm. Ngài là niền tin và là tấm gương sáng cho nhiều Phật tử. tuy đã lớn tuổi, nhưng Ngài vẫn thường xuyên giữ chánh mạng, chưa hề bỏ quên khất thực hóa duyên, dù chỉ một ngày. Hôm nọ tin dữ loan truyền khắp thành phố khiến mọi người sửng sốt: Khi đi hóa duyên trở về, ngài đã gặp tai nạn bất ngờ, một chiếc xe gắn máy đụng phải. Ngài đã thâu thần nhập diệt ngay tại hiện trường. Chúng tôi nghe rất nhiều Phật tử xì xào to nhỏ: “Ngài tu hành tinh tấn và nghiêm túc, tại sao lại chết thảm như vậy? Chắc là nghiệp của Ngài quá nặng? Nghiệp nặng?

Một vị Ni sư gần 60, xuất gia từ nhỏ, giới hạnh nghiêm túc, luôn phát tâm hoằng pháp, bố thí, cúng dường. Hôm nọ ngồi sau xe gắn máy, té xuống bị xe hơi cán dập nửa thân mình. Tuy vậy Ni sư vẫn còn tỉnh táo, chắp tay niệm Phật và căn dặn đệ tử nên tha thứ cho ngời tài xế vừa gây án, xong mới nhẹ nhàng tắt thở. Người bạn tôi vô cùng bức xúc, vội vã về tường thuật mọi sự và gào to: “Không thể chịu nổi, một người tu hành như vậy sao lại nhận lấy nghiệp nặng như thế?” Tôi chờ anh ta hết xúc động mới nói: “anh còn nhớ không, trong kinh sách Phật dạy rõ: ‘Chết như thế nào và chết trong hoàn cảnh nào đều là do quả báo quá khứ từ vô lượng kiếp, chúng ta phàm phu không thể can dự được. Không phải chết trên giường là tốt hơn trên hiện trường tai nạn, tất cả chỉ là lý do để ta xa rời thân xác này để đi tới kiếp sống khác’. Anh là người Phật tửhành trì, tất nhiên không nên đặt tâm vào chuyện được chết trong tình trạng ưng ý, mà tốt nhất là được chết khi “nhất tâm bấn loạn”, khi tâm định tĩnh, khi làm chủ tâm thức lúc lâm chung – phải thế chứ?

Còn nữa, một nữ Phật tử gần như trọn đời tu tại gia, thọ giới Bồ tát, ăn chay trường, ngoài ra luôn luôn tham gia từ thiện không bao giờ tiếc lẫn tài sản và công sức. Thế nhưng, khi về già, thân thì mang trọng bệnh, gia cảnh nghèo túng, mà đạo hữu càng lúc càng thưa dần. Đã thế con cái đứa thì bị tai nạn, đứa thì làm ăn thất bại, phải bỏ xứ mà đi, khiến bà ta chỉ còn chiếc bóng thui thủi, sớm chiều chỉ biết vui với xâu chuổi hột. Nhiều nguồi chép miệng dè bỉu: “nghiệp nặng!”.

Trong cuộc sống và cả trong những buổi đàm luận chuyện đạo, chúng ta thường nghe những người xung quanh hay thốt lên hai chữ “nghiệp nặng”. Từ ngữ này được sử dụng để kết thúc một câu chuyện đời, một mẫu tin thời sự, hoặc để phê phán hành vi kém cỏi của một cá nhân nào đó.

Ở đây, chúng tôi không đánh giá việc làm ấy là đúng hay sai. Mà chỉ đơn giản thảo luận đến ý nghĩa của từ ngữ Nghiệp nặng theo quan điểm Phật giáochúng tôi được học mà thôi. Còn những ai muốn tìm hiểu sâu xa về Nghiệp thì xin kiếm tìm trong kho tàng kinh sách Phật giáo, hoặc có thể tham vấn các bậc tôn túc.

2- Phải chăng một thực thể gọi là “Nghiệp nặng” hay là không?

“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”.

Nhưng khi được Đức Thích Ca sử dụng để trình bày giáo lý do Ngài giác ngộ dưới gốc cây Bồ đề, thì từ ngữ này đã mang nhiều ý nghĩa khác biệt, phong phú hơn và thâm áo hơn. Hôm nay, chúng tôi chỉ hạn chế bài viết này trong hai từ ngữ “nghiệp nặng” mà chúng ta hay sử dụng một cách tùy tiện, dễ dãi!

“Nghiệp nặng” cũng là một từ ngữ hết sức hàm hồ đa nghĩa, vì luôn lệ thuộc vào văn cảnh , hoặc tùy thuộc vào hệ thống triết học, tư tưởng mà nó phải diễn giải. Thói thường, người ta chỉ hiểu “nghiệp nặng” nghĩa là nghiệp chướng nặng nề, hoặc là: gặp phải quả báo tệ hại, xấu xa khốn khổ.

Theo quan điểm thế gian (của những người chưa tin Phật và học Phật) thì: kẻ nào nghèo nàn túng thiếu, bệnh hoạn tật ách, tai nạn cấp kỳ, gia đạo bất an, nghịch cảnh đau đớn, đời sống khó khăn, tình cảm bấn loạn, sinh hoạt đời thường không được ổn định v.v.. thì bị thiên hạ gọi là “ kẻ có nghiệp chướng nặng nề” hoặc là “kẻ bị nghiệp nặng”

Phật giáo không hề nhìn nhận một cách thiển cậnthiếu sót như vậy.

3- Nhưng Phật giáo có rất nhiều loại nhận thức tùy thuộc vào nhiều nền giáo lý; tư tưởng khác biệt. Xin được trình bày lần lượt như sau:

Theo quan điểm nguyên thủy, một chúng sanh được gọi là nghiệp nặng khi kẻ ấy không có điều kiện để thực hiện một nếp sống giải thoát. mục tiêu của giải thoát là chứng dắc thánh quả A-la-hán (đạt tâm vô ngã), chấm dứt sự thọ nghiệp.

Vậy ta có thể kết luận rằng: ngài A-la-hán ra, tất cả chúng sanh chưa giải thoát đều là nghiệp nặng cả, vì còn sinh tồn bởi nghiệp lực chứ không bằng tâm thái vô ngã (Ngay cả những bậc đắc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm cũng còn sống bằng nghiệp lực nói chung và chưa đạt Vô ngã).

Trên đây là giáo lý dành cho bậc xuất gia, còn người tại gia (những người đã được thọ Tam quy và trì Ngũ giới) thì ngoài việc bố thí cúng dường và đặt bát cho chư Tăng, Ni , thì phải nỗ lực thọ trì Bát quan trai để được sanh Thiên ( sanh lên cõi Trời). Vậy ai không thường xuyên thọ trì Bát quan trai, sẽ không được “sanh Thiên”, như vậy có thể bị gọi là nghiệp nặng.

4- Còn quan điểm Đại thừa thì sao?

Đại thừa Phật giáo luôn luôn đặt trọng tâm nơi việc phát khởi Vô thượng Bồ-đề-tâm để giải thoát luân hồi sanh tử cho bản thân và để cứu độ tất cả chúng sanh khác, giúp mọi chúng sanh thành Phật như mình.

Vậy kẻ nào không thể liên tục phát khởi Vô-thượng Bồ-đề tâm hoặc không tạo điều kiện để mình cùng mọi chúng sanh thành tựu trí giác Phật-đà, thì kẻ ấy vẫn là n gười đa mang nhiều nghiệp chướng nặng nề.

Đó là ý nghãi tạm thời của hai chữ “nghiệp nặng” được trình bày tổng quát qua giáo lý Đại thừa.

Ngoài ra, tùy theo pháp môn tu hành mà người ta có thể diễn giải từ ngữ Nghiệp nặng theo nhiều ý nghĩa khác nhau, có thể sử dụng trong những văn cảnh khác nhau.

5- Ví dụ, Thiền tông chủ trương: “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” là tiêu chí cho tất cả môn đồ, đệ tử, không loại trừ bất cứ ai. Vậy kẻ nào chưa “thấy tánh”, nghĩa là chưa bắt gặp “cái mặt mày của mình trước khi cha mẹ sinh ra” (ngôn ngữ nhà Thiền gọi là: chưa nhận chân được cái bản lai diện mục của mình), và chưa thành tựu khả năng tành Phật- thì là một kẻ nghiệp nặng. Dẫu là hòa thượng, đại đức, thiền sư, tổ sư, nếu người nào còn lẩn quẩn bên ngoài cửa Đốn Ngộ thì còn trầm luân sanh tử, nên gọi người ấy là kẻ có nghiệp chướng nặng nề, đáng thương đáng trách!

Hoa nghiêm tông lấy “Ly thế gian, nhập pháp giới”làm yếu chỉ tu hành. Người nào còn bị vương mắc bởi dây trói ngũ dục, bị ràng buộc bởi phiền não chướngsở tri chướng. còn dính líu đến những lợi ích thế gian và ngay cả những hiệu quả xuất thế gian, mà chưa nhập thế tánh siêu việt bình đẳng bất khả tư nghị của pháp giới thì…Hoa nghiêm tông gọi kẻ ấy còn nghiệp chướng nặng nề .

Thiên thai giáo tức Pháp Hoa tông thì lấy “Khai thị ngộ nhập Phật tri kiến” làm mục tiêu và cơ sở tu hành cho tất cả tín đồ. Vậy, kẻ nào chưa ngộ nhập Phật tri kiến mà còn đang sống với quan điểm thế gian, nhìn mọi sự vật bằng con mắt phàm tục, đầy ý thức phân biệt, tách bạch thiện ác tốt xấu chỉ vì thiếu thốn chất liệu từ bi, chưa phát huy năng lực trí tuệ của Phật, thì vẫn là kẻ nghiệp chướng nặng nề, chưa liễu ngộ được tông chỉ của Thiên Thai giáo nói riêng và chưa cảm nhận diệu nghĩa của nhà Phật nói chung.

Pháp Tướng môn tức là Duy Thức tông thì lấy “Nhiếp vạn pháp quy về Chân Duy Thức Tánh” ( tất cả không ngoài thức) làm cốt lõi cho sự hành trì, đồng thời làm cứu cánh tối hậu cho cuộc sống. Người nào chưa có khả năng thực hiện Chân Duy Thức Tánh, thì gọi kẻ ấy còn nghiệp chướng nặng nề.

Luật Tông lấy “Nhiếp thân ngữ ý vào Thi-la-tánh” làm tông chỉ. Nghĩa là đi đứng nằm ngồi, tất cả mọi sinh hoạt, cử động , lời nói, tư tưởng, đều an trú trong Giới Tánh. Nếu chưa biểu hiện được như thế, thì Luật Tông gọi kẻ ấy còn nghiệp chướng nặng nề.

Tam Luận tông lấy “Lìa Có và Không, thẳng vào Trung đạo” làm tông chỉ, rồi tiến tới “siêu Tử Củ, tuyệt Bách Phi” làm cứu cánh tối hậu. Ai biểu hiện trái ngược lại, nghĩa là còn vướng víu cái Có của phàm phu, hoặc cái Không của Thánh nhân, thì ta gọi kẻ ấy còn nghiệp chướng nặng nề.

6- Pháp môn Tịnh độ thì sao?

Người theo Pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực lạc thì phải lấy “Tín Nguyện Hạnh” làm điều kiện chính yếu cho việc tu hành, và chấp nhậnMột đời vãng sanh, được bất thối chuyển” làm mục tiêu cuối cùng cho việc niệm Phật. Dù là tăng, tục, nam, nữ đều không biệt lệ. (Tín là lòng tin chuyên nhất về sự cứu độ của chư Phật. Nguyện là ý nguyện mong muốn được trở về sinh sống tại cõi tịnh độ. Hạnh là, thường xuyên xưng niệm nam mô A-di-đà Phật liên tục, không gián đoạn). Ai không có khả năng thực hiện được Tín Nguyện Hạnh và khi lâm chung không đuợc vãng sanh Cực Lạc, thì tông phái này sẽ gọi kẻ ấy là nghiệp chướng nặng nề vì “còn vướng lụy”, phải ở lại thế gian, lăn lộn trong ba cõi sáu đường.

7- Đặc biệtTịnh độ Nhật Bản, chư vị Tổ sư như Ngài Nhất Biến, Pháp NhiênThân loan, đều cực lực tuyên dương 2 phần:

I- Danh hiệu Nam mô A-di-đà là phương tiện thù thắng, vừa là cứu cánh tối thượng, vừa là chỗ quy túc cho mọi hành vi, tư tưởnglời nói của hành giả.

II- Bản nguyện A-di-đà có khả năng vĩ đại là cứu vớt tất cả kẻ “nghiệp nặng, phước khinh, chướng sâu, huệ cạn”, Hết thảy chúng sanh không phẩm tâm linh cần thiết cho mọi chúng sanh không phân biệt. Do đó chúng ta chớ quên rằng, trong Pháp môn Tịnh độ các Tổ sư vô cùng hân hoan, thích thú khi che chở cho những kẻ thường bị thế gian miệt thịnghiệp chướng nặng nề, là đôn căn hạ trí, là ươn hèn yếu đuối. Vì Đức Phật A-di-đà luôn ưu ái những người tội lỗi, nghiệp nặng, va luôn luôn đối xử với họ bằng lòng bi mẫn đặc biệt:

Nhưng thật ra, ngoại trừ những bậc thánh vào ra sanh tử cốt thị hiện để cứu độ chúng sanh thì…tất cả chúng sanh đều là kẻ nghiệp nặng hết thảy.

8- Tóm lại, từ ngữ “nghiệp nặng”không có chỗ đứng trong lòng người Phật tử ( vì ai cũng là kẻ nghiệp nặng, dưới những hình thức khác nhau, trong những lốt vỏ khác nhau, trong những vị thế khác nhau-thì cần chi phải luận bàn vô ích đến một sự kiện rất ư là hiền thiện như vậy?) hoặc nói cách khác:

Đạo Phật không có sự phân biệt “nghiệp nặng” hay là “nghiệp nhẹ”. Vì trái lại, kẻ nào nghiệp càng nặng, càng được Phật cứu độ một cách khẩn trương, càng được ưu ái bởi Bản Nguyện A-di-đà một cách triệt để, hoàn mãn.

Hòa thượng Quảng Khâm, một cao tăng trong thiền môn thời nay, đã dạy rằng: “Danh hiệu Nam-mô A-di-đà Phật chứa dựng vô biên năng lực bất khả tư nghì, há không thể tẩy rửa mọi nghiệp chướng của chúng sanh dẫu sâu nặng tới đâu chăng nữa hay sao? Vậy mà chúng ta chớ e sọ mình nghiệp chướng nặng nề, mà hãy tự hỏi: chúng ta hành trì sáu chữ hồng danh đã thực thà, chân thật hay chưa?

Lại nữa, Đức Phật A-di-đà tựa như Bà Mẹ tràn đầy yêu thương, thế nên đứa con nào gặp phải nguy nan, khốn cùng, tai họa thê thảm mà lớn tiếng kêu cứu thì Bà mẹ ấy đương nhiên phải quan tâm ngay lập tức, phải bày tỏ lòng xót xa và cứu trợ cấp kỳ. Và điều này cũng không phải khó hiểu! Cho nên chúng ta đừng ngại rằng mình nghiệp nặng, mà cũng đứng miệt thị kẻ khác là “nghiệp nặng”, vì nếu chủ trương như vậy, e rằng chúng ta dường như chưa hiểu và chưa tin vào Bản Nguyện A-di-đà! Ngài Thân Loan lại bảo:

May mắn thay cho những kẻ chất chứa nhiều ác nghiệp, bởi vì họ sẽ được Đức Phật cứu độ khẩn cấp!

Bởi vì tôi là một chúng sanh không chồng nghiệp nặng, tôi còn biết ơn sâu xa hơn đối với Bản Nguyện, nó đích thực được thiết lập ra để cứu độ tôi.

(Trích Sông Lửa Sông Nước của Taitetsu Unno, bản dịch An Cư)

Vâng, phài một danh hiệu thù thắng nhiệm màu như vậy, mới thừa khả năng cải biến tâm linh chún ta, chuyển hóa cái tâm dơ bẩn xấu ác này trở thành Niết-bàn vi diệu, bằng cách vận chuyển những kẻ u mê ám chướng tội lỗi nghiệp nặng sang định cư tại cõi Cực lạc chứ?

9- Chúng ta cần khẳng định rằng đạo Phật không những chỉ dành cho những người thông minh, đạo đức (hạng này rất ít, không mấy người), mà là đặc biệt dành cho những con người yếu đuối trước cám dỗ của tội lỗi, cưu mang lắm nghiệp nặng, hành vi xấu ác, tâm lý mê đắm. Nhờ vậy, mới làm sáng tỏ đức từ bi vô hạn của chư Phật, chư Bồ-tát.

Như Angulimala từng giết 999 người, còn âm mưu sát hại Đức Phật Thích Ca, thế mà còn được Phật khai ngộ và dạy dỗ cho đến khi chứng đạo. Như Yasa, một công tử giàu có đam mê dục lạc, vẫn được Ngài thâu nhận làm đệ tử, rồi chẳng bao lâu đã chứng quả. Như Châu-lợi Bàn-đà-già là người u mê, si độn , vẫn được Phật đưa vào giáo đoàn. Sau này trở thành người có tài biện luận sắc sảo, nổi tiếng là bậc Nhớ Nghĩa Hay đệ nhất.

Cho nên chúng ta nên lạc quan, không cần biết nghiệp mình nhẹ hay nặng, hãy hành trì chắc thật và luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự cứu độ không giới hạn của chư Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 38510)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14658)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14655)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14074)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14962)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16574)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29919)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16234)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15560)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14925)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14915)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17897)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15596)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38694)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26747)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39686)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50803)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38770)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35072)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18331)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16488)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42425)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39275)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35635)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17476)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46553)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17171)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28512)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 19011)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17609)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17124)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17572)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16551)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16914)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30870)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16953)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18520)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18482)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17395)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18179)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17085)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23522)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 17012)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17475)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17694)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17075)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15751)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18063)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17450)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17228)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29545)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27752)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18195)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16132)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15384)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23064)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14848)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55143)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14212)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13265)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant