Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tại Sao Bồ Đề Đạt Ma Phủ Định Công Đức Của Lương Vũ Đế?

24 Tháng Tám 201300:00(Xem: 8646)
Tại Sao Bồ Đề Đạt Ma Phủ Định Công Đức Của Lương Vũ Đế?

TẠI SAO BỒ ĐỀ ĐẠT MA
PHỦ ĐỊNH CÔNG ĐỨC CỦA LƯƠNG VŨ ĐẾ?


Chúc Phú

Lương Vũ Đế, tự Tiêu Diễn, lên ngôi vào năm 37 tuổi, tại vị 49 năm, thọ 86 tuổi1. Là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lương (502-556) trong giai đoạn Nam Bắc triều (420-589) của Trung Hoa.

Lương Vũ Đế được lịch sử Phật giáo ghi nhận là vị vua có nhiều công lao phát triển Phật giáo. Ông được Phí Trường Phòng, tác giả của bộ Lịch đại Tam bảo ký2, ca ngợi về niềm tin không thể nghĩ bàn của một vị vua Bồ-tát (信不思議菩薩君也). Thậm chí, một số nhà nghiên cứu còn cho rằng, sự nghiệp hộ trì Phật giáo của Lương Vũ Đế có thể sánh với vua A DụcẤn Độ thuở xưa.

bodedatmaTuy nhiên, trong cuộc hội kiến lịch sử với Bồ Đề Đạt Ma vào năm đầu Đại Thông (527), vua Lương Vũ Đế đã nêu lên trăn trở: Trẫm một đời tạo tự, độ Tăng, thiết trai bố thí, được bao nhiêu công đức? Tổ Đạt Ma đáp: Không có công đức3.

Hình bên: Tranh vẽ tổ Bồ Đề Đạt Ma.

Câu trả lời của Bồ Đề Đạt Ma như tiếng sét giữa trời quang, làm cho Lương Vũ Đế và cả triều đình nín lặng. Sau cuộc vấn đạo bất thành, Bồ Đề Đạt Ma đã vượt sông Dương Tử đi về mạn Bắc.

Trong những công trình nghiên cứu được quy tập trong Đại tạng kinh đại chính tân tu (ĐTKĐCTT), tùy theo môn quy, tông phái mà đã có nhiều cách luận giải khác nhau về câu trả lời của Bồ Đề Đạt Ma đối với Lương Vũ Đế. Ở đây, dựa trên những tác phẩm của chính Lương Vũ Đế cũng như những ghi chép trong Lương thư (梁 書) và nhiều tác phẩm liên quan nằm rải rác trong ĐTKĐCTT, chúng tôi cố gắng phác thảo vài nét về chân dung của ông, cũng như đưa ra những kiến giải bước đầu về một nghi án lịch sử.

Không hài hòa trong ứng xử với Tam giáo

Lương Vũ Đế am tường Tam giáo (Nho, Phật, Lão). Đọc lời tự sự của Lương Vũ Đế trong Thuật tam giáo thi4 có thể thấy rõ điều đó: Thiếu thời học Nho gia, làu thông kinh Chu, Khổng (少 時 學 周 孔, 弱 冠 窮 六 經)5… Trung niên cầu Đạo giáo/ Am tường diệu pháp thuật/ Rành rẽ Danh, Vô danh (中 復 觀 道 書,有 名 與 無 名, 妙 術 鏤 金 版)6 …Khi tóc bạc niên cao, Mới tìm cầu Phật đạo (晚 年 開 釋 卷)7.Từ sự thừa nhận kể trên, có thể thấy Lương Vũ Đế có mối quan hệ sâu sắc với tư tưởng Tam giáo.

Trước hết, với Nho giáo, là một bậc quân vương, lẽ dĩ nhiên sự ảnh hưởng của Nho gia có phần nổi trội. Ông được xem là một trong tám vị thi nhân nổi tiếng thơ văn thời Nam Bắc triều. Đọc Bài ca về nước giữa dòng sông Hoàng Hà (河中之水歌) có thể thấy được hồn thơ chan chứa của ông trước thân phận vô định, chênh vênh của những người thiếu nữ.

Vào năm Thiên Giám thứ tư, ông đã hạ chiếu cho thành lập miếu Khổng Tử khắp thiên hạ (梁 武 帝 天 監 四 年. 詔 天 下 立 孔 子 廟)9. Quan điểm về Nho gia còn thể hiện khá nhiều trong những luận giải về Phật giáo của ông. Ngay những dòng đầu tiên trong tác phẩm Tịnh nghiệp phú, ông đã dùng Thoán truyện để dẫn luận9. Ảnh hưởng tư tưởng của Nho gia còn được thể hiện trong luận cứ Trời còn có đức hiếu sinh (皇德好生)10 khi ông kêu gọi việc ăn chay và không sát hại chúng sanh. Không những vậy, ông còn dẫn kinh Lễ về việc người quân tử nên tránh xa bếp núc (君子遠庖廚),11 nhằm kêu gọi việc cúng chay cho tông miếu. Có thể nói, với lời bộc bạch am tường sáu kinh căn bản của Nho gia khi đến tuổi trưởng thành (弱冠窮六經) được ghi lại trong Thuật tam giáo thi, đã chứng tỏ kiến thức về Nho gia đã ngấm sâu vào ông ngay từ những buổi đầu.

Với Đạo giáo, tuy thừa nhận bản thân có khả năng quán thông những triết lý, phép thuật căn bản của Đạo giáo, thế nhưng, sau khi hướng Phật, ông đã có những thái độ gay gắt đối với tôn giáo này. Cụ thể, nhà vua cho rằng, đạo có 96 thứ, chỉ có Phật giáochánh đạo, còn 95 tôn giáo kia đều là tà đạo (道 有 九 十 六 種. 惟 佛 一 道 是 於 正 道. 其 餘 九 十 五 種 名 為 邪 道)12. Hơn thế nữa, đã gọi là đệ tử Phật thuần thành, thì các niềm tin khác ngoài Phật đều là tà kiến (故 言 清 信 佛 弟 子. 其 餘 諸 信 皆 是 邪 見)13. Sau đó, vào năm Thiên Giám thứ 16 (518), vua ra sắc dụ phế bỏ các đạo quán của Đạo giáo trong nước, bắt đạo sĩ phải hoàn tục (十 六 年. 敕 廢 天 下 道 觀. 道 士 皆 反 俗)14. Thái độ của vua Lương Vũ Đế đối với Đạo giáo, quá cứng rắn và khác xa với cách hành xử của Đức Phật trong mối quan hệ với các tôn giáo cùng thời15.

Vốn có truyền thống thân cận Tam bảo từ gia tộc, Lương Vũ Đế đã có một thái độ đặc biệt với Phật giáo. Mở đầu, vào ngày mùng tám tháng tư, năm Thiên giám thứ 3 (504) sau khi lên ngôi, Lương quốc Hoàng đế Lan Lăng Tiêu Diễn đã chí thành quy ngưỡng mười phương chư Phật, mười phương tôn Pháp, mười phương thánh Tăng (維 天 鑒 三 年 四 月 八 日. 梁 國 皇 帝 蘭 陵 蕭 衍 稽 首 和 南. 十 方 諸 佛 十 方 尊 法 十 方 聖 僧)16. Không những tự mình quy hướng Tam bảo, trên lầu Trùng các của điện Trùng vân, ông cùng Đạo gia và quần thần tự mình viết lời phát nguyện phát tâm Bồ-đề với số lượng lên đến hai vạn người (于 時 帝 與 道 俗 二 萬 人. 於 重 雲 殿 重 閣 上.手 書 此 文 發 菩 提 心)17. Từ sự phát tâm quy hướng Tam bảo, Lương Vũ Đế tích cực xây dựng chùa tháp, quan tâm đến việc giảng kinh, lập đàn cúng tế và chẩn bần. Có thể nói, Lương Vũ Đế đã dành nhiều sự quan tâm cũng như tận hiến một phần cuộc đời cho Phật giáo tại Trung Hoa.

Trang nghiêm tự thân nhưng bất cập trong giới luật

Về phương diện đạo đức tự thân, Lương Vũ Đếvị cưtại giamột đời sống chuẩn mực, nếu không nói quá nghiêm khắc với chính bản thân mình. Chủ trương ăn chay, không uống rượu, nghe nhạc, y phục đơn giản, chỗ ngủ đơn sơ, siêng năng lễ sám… Các tiện nghi trong đời sống của Lương Vũ Đế cũng tương tự như những vật dụng thường ngày của một người xuất gia lý tưởng. Trong những năm cuối đời, ông chỉ ăn ngày một bữa với thức ăn giản tiện, đạm bạc18.

Với các bậc cao tăng, ông một lòng phụng kính. Phật Tổ thống kỷ ghi rằng, mỗi khi Huệ Ước pháp sư (Cũng còn gọi là Lâu Ước) vào triều, Lương Vũ Đế thiết trí một bảo tọa trang nghiêm dành cho Pháp sư ở giữa, còn bản thân thì ngồi một bên để thính pháp19. Đặc biệt, có vị Pháp sư người Tây Tạng, vào năm đầu Thái Thanh, đã đường đột xông vào cung cấm, ngang nhiên ngồi trên ngai vàng và bị thị vệ truy bức, vua cũng hoan hỷ cho qua20.

Tuy nhiên, có rất nhiều điều cần phải bàn về phương diện thọ trì giới pháp của vua Lương Vũ Đế. Trong lễ phát nguyện quy y Tam bảo của nhà vua, chúng tôi vẫn chưa phát hiện tư liệu nào cho thấy Lương Vũ Đế thọ trì ngũ giới, cũng như không có một vị Tăng nào đứng ra chủ trì Phật sự này. Đây là điều có ý nghĩa quan trọng. Vì lẽ, quy y Tam bảo thì có thể tự mình thực hiện, còn vấn đề giới pháp phải do sự truyền thọ của Tăng-già. Không những vậy, sử liệu cũng không đồng nhất về thời điểm ông thọ giới Bồ-tát.

Trong bối cảnh thực tế, từ lòng nhiệt thành hộ pháp của nhà vua, số lượng người xuất gia ở thời Lương Vũ Đế tăng nhanh về số lượng và có những dấu hiệu suy giảm về phẩm chất. Trong khi đó, những vị Tăng có trách nhiệm không thể quản lý việc của Tăng (時 釋 子 多 縱 逸. 主 僧 不 能 制)21. Đây là một thực tế dẫn đến những bất cập trong hành xử về giới luật của Lương Vũ Đế.

Ở đây, trước tình hình xuống cấp về phẩm hạnh của một bộ phận người xuất gia, Lương Vũ Đế muốn trực tiếp can dự vào việc của Tăng. Biết rõ sự nhiệt thành của hoàng đế, Pháp sư Tây Tạng đã khuyên vua không nên cưỡng làm. Mặc dù vậy, với quyết tâm thực hiện việc chỉnh đốn Tăng, Lương Vũ Đế đã tự mình thọ cụ túc giới (帝自受具戒)22. Đây là một việc làm phi pháp, phi luật của vua Lương Vũ Đế diễn ra vào năm đầu Thái Thanh (547), và qua đó chứng tỏ những hạn chế nhất định của nhà vua trong việc nhận thức về giới luật.

Sự kiện này còn được đề cập nhiều lần trong quyển Phật Tổ thống kỷ23. Như nơi quyển 53 của tác phẩm khẳng định, Lương Vũ Đế thọ cụ túc giới với Huệ Ước pháp sư, riêng các vị thái tử, công khanh đạo tục bao gồm bốn vạn tám ngàn người thì thọ Bồ-tát giới. Đặc biệt trong đợt này, có các vị Sa-môn lớn tuổi thì cũng được thọ cụ túc giới (梁 武 帝. 從 約 法 師 受 具 足 戒.太 子 公 卿 道 俗. 從 師 受 戒 者 四 萬 八 千 人 (此 應 受 菩 薩 戒) 沙 門 耆 艾 亦 重 受 戒 法 (此 受 具 足 戒). Từ đây cho thấy đã có sự phân liệt rõ ràng trong việc thọ giới giữa nhà vua, các vị Sa-môn già cả, hoàng tộc và số đông dân chúng. Không những thế, trong quyển thứ 51 còn ghi rằng, Lương Vũ Đế đắp y ruộng phước, lễ Lâu Ước pháp sư thọ cụ túc giới (帝 服 田 衣 禮 婁 約 法 師 受 具 足 戒).

Sự kiện thọ cụ túc giới đã bộc lộ những hạn chế nhất định trong hành xử về giới luật của Lương Vũ Đế, vì theo tư liệu vừa dẫn ở trên, thì các điều kiện để tác thành giới thể Tỳ-kheo chưa đảm bảo. Đồng thời, từ việc làm này cho thấy, đôi lúc Lương Vũ Đế dao động giữa vị trí của một nhà lãnh đạo thế tục và một bậc lãnh đạo về tâm linh. Việc ra chiếu cất nhắc, chỉ đạo chư Tăng thừa hành Phật sự, kiểm tra trình độ Phật học của người xuất gia24… là những trường hợp tiêu biểu. Trong lời dẫn phần đầu của bài văn Khuyên bỏ rượu thịt (斷 酒 肉 文), Lương Vũ Đế đã bộc lộ quan điểm này khi cho rằng: Phật pháp được gửi gắm cho các vị vua (佛 法 寄 囑 人 王)25. Ngay như trường hợp thầy dạy cho Thái tử Chiêu Minh, là Lưu Hiệp (通 事 舍 人 劉 勰), một tác gia văn học với tác phẩm nổi tiếng còn lưu lại đến hôm nay là “Văn Tâm Điêu Long”, phát tâm xuất gia vào năm Đại Đồng thứ tư, ông đã ân ban pháp danh là Tuệ Địa (賜 名 慧 地)26. Tuy chỉ là quán lệ ân ban tên tuổi cho quần thần, nhưng qua đó đã cho thấy Lương Vũ Đế đã thể hiện năng lực lãnh đạo trên phương diện tinh thần, tâm linh.

luongvudeHình bên: Tranh vẽ Lương Vũ Đế.

Việc đoạn phòng thất và chủ trương ăn chay

Lương Vũ Đế là một vị vua có nhiều điều đặc dị. Hai trong những điều đặc biệt của vị vua này là chấm dứt việc quan hệ nam nữ trong lúc còn trẻ và chủ trương ăn chay một cách tuyệt đối.

Theo Lương thư (梁 書), ngoài năm mươi tuổi thì nhà vua chấm dứt việc phòng thất (五 十 外 便 斷 房 室)27. Đây là việc khó làm đối với một người bình thường, huống hồ là một nhà vua. Do đó, vua Lương Vũ Đế đã được nhiều nhà nghiên cứu Phật học quan tâm và dành nhiều thiện cảm.

Tuy nhiên, trong lời tự thuật của vua Lương Vũ ĐếTịnh nghiệp phú, đã hé lộ đôi điều về việc đoạn phòng thất của vua Lương Vũ Đế: Khi ta hơn bốn mươi tuổi, thân thể nhuốm bệnh, tứ chi rã rời. Nên hỏi quan danh y Lưu Trừng Diêu Bồ Đề về nguyên nhân của bệnh. Ngài Lưu Trừng đáp, sở dĩ phát bệnh như vậy là do ăn uống quá nhiều. Lương Vũ Đế thừa nhận, quả đúng như vậy, ta đây áo mặc ấm thân, thức ngon sung mãn. Ngài Lưu Trừng nói tiếp, quan trường tiệc tùng suốt sáng thâu đêm. Ngài nghiêng đầu cười hàm tiếu và nói: Có một điều mà Bồ Đề biết chắc chắn là do nhà vua phòng thất quá nhiều nên dẫn đến bệnh như vậy. Ngay khi đó, ta không ăn cá thịt và cũng dứt hẳn việc phòng thất (四 十 餘 年 矣.于 時 四 體 小 惡. 問 上 省 師 劉 澄 之 姚 菩 提 疾 候. 所 以 劉 澄 之 云. 澄 之 知 是 飲 食 過 所 致. 答 劉 澄 之 云. 我 是 布 衣 甘 肥 恣 口. 劉 澄 之 云 . 官 昔 日 食 . 那 得 及 今 日 食 . 姚 菩 提 含 笑 搖 頭 云 . 唯 菩 提 知. 官 房 室 過 多. 所 以 致 爾. 于 時 久 不 食 魚 肉. 亦 斷 房 室)28. Từ sự thừa nhận này có thể thấy rõ việc ăn chay trường cũng như việc chấm dứt phòng thất có liên quan đến yếu tố sức khỏe của Lương Vũ Đế. Cùng đồng tình với quan điểm này, tác giả Nghê Phương Lục29 cho rằng, cụm từ 四 體 小 惡, chứng tỏ vua Lương Vũ Đế có khả năng viêm tiền liệt tuyến và thậm chí là liệt dương (的 陽 痿). Căn cứ vào Lương thư (梁 書), Lương Vũ Đế đã thừa nhận về tình trạng bệnh tật của mình trong chiếu chỉ ban hành vào năm Thiên Giám thứ sáu, khi ông cho rằng, bản thân luôn chìm đắm trong bệnh tật (兇 荒 疾 疬)30.

Sau khi tự mình phát nguyện ăn chay, Lương Vũ Đế đã cổ xúy việc ăn chay gần như trở thành một pháp hành trong tu tập. Các chiếu chỉ liên quan đến việc ăn chay mà nhà vua đã ban ra như: Chấm dứt việc sát sanh trong việc cúng tế tông miếu (斷 殺 絕 宗 廟 犧 牲 詔)31; ra lệnh cho Thái y không được sử dụng các giống sinh vật làm dược liệu (勅 太 醫 不 得 以 生 類 為 藥)32. Đặc biệt, cao điểm của việc đề cao chủ trương ăn chay là bài văn Khuyên bỏ rượu thịt (斷 酒 肉 文)33. Trong bài văn này, ngoài những nội dung tích cực nhằm kêu gọi Tăng Ni ăn chaygiữ giới; bản văn cũng thể hiện sự quá đà khi ví von người tu sĩ Phật giáo không bằng chín hạng ngoại đạo và không bằng chín hạng người cư sĩ tại gia khi còn ăn thịt và uống rượu.

Cần phải thấy, ăn chay là phương thức sinh tồn mang tính nhân văn và được nhiều tôn giáo lựa chọn, cổ súy. Ngay trong thời Đức Phật, Kỳ Na giáo cũng chủ trương tuyệt đối ăn chayhạn chế sát sanh đến mức tối đa với lý thuyết Ahimsa (bất hại) nổi tiếng. Đức Phật đã phân tích những bất cập trong chủ trương của giáo phái này và ngài đã có những lý giải thỏa đáng về lý thuyết bất hại trên cơ sở tâm bình đẳng, từ bi. Với Đức Phật, do bối cảnh lịch sử, Ngài không quá đặt nặng chuyện ăn uống và ứng xử mọi chuyện trên tinh thần Trung đạotùy duyên. Trong kinh Tập thuộc Tiểu bộ, ngài đã biện minh khá chi tiết về việc ăn uống của các vị Tỳ-kheo trong thời kỳ đầu34.

Hơn đâu hết, Đức Phật vẫn kêu gọi bảo hộ sanh linh bằng khả năng có thể; thậm chí Ngài chủ trương kêu gọi việc cúng tế không nên sát sanh35. Thế nhưng, khi cổ súy việc không sát sanh và xem việc ăn chay trở nên như một pháp môn tu tập, giữ gìn cứng nhắc như một giới cấm thủ, cũng là điều đi quá xa so với tôn chỉ căn bản của Phật giáo.

Hâm mộ quyền năngtính tình cố chấp

Trong năm đầu lên ngôi, vua đã nằm mộng thấy tượng Phật do vua Ưu Điền ở nước Thiên Trúc tạo, giáng lâm đất nước mình (天 監 元 年.帝 夢 釋 迦 檀 像 入 國 (天 竺 優 填 王 所 造 者)36. Trong cả cuộc đời, nhà vua có nhiều giấc mộng liên quan đến Phật giáo và đã có những quan tâm thâm thiết đến những giấc mộng này, bằng những việc làm cụ thể như xây tháp thờ Phật, giảng kinh, bố thí.

Trong những biến dị của thiên tai, trời đất, vua Lương Vũ Đếniềm tin rất đặc dị. Cụ thể, ngôi nhà cũ của vua phát ánh sáng bảy đêm liên tục, vua bèn cải gia vi tự thành chùa Quang Trạch (舊宅七夜放光.敕建光宅寺)37. Đặc biệt, vào năm Đại Đồng thứ ba, trong khi tu sửa nền móng tháp Trường Can, phát hiện bộ bình kim anh lưu ly đựng xá-lợi tóc và móng của Phật (詔修長干塔.掘基得石凾.內有金罌流離瓶盛舍利爪髮)38. Sự kiện này làm cho nhà vua tăng trưởng niềm tin Tam bảo và tiến hành nhiều Phật sự quan trọng ngay sau đó như chú tạo tượng đồng mười phương Phật ở chùa Đồng Thái và ân xá những tội nhân trong thiên hạ. Vào năm đầu Trung Đại Đồng, tháp của chùa Đồng Thái bị hỏa hoạn. Vua cho rằng do ma quỷ phá và sau đó xây lại tháp mười hai tầng39.

Với vua Lương Vũ Đế, việc tế lễ cầu cúng có ý nghĩa quan trọng. Ông liên tục tổ chức các pháp hội Phật giáo. Chính bản thân ông soạn Thủy lục nghi văn40. Khảo sát chỉ riêng tác phẩm Phật Tổ thống Kỷ, đã cho thấy Lương Vũ Đế tổ chức: Vô già đại hội (Panca Vàrsika Maha), Cứu khổ trai, Đạo tục đại trai, Vô ngại pháp thực, Vu lan bồn trai, Nhân vương trai, Thủy lục đại trai … với hàng vạn người tham dự trong mỗi lần đại hội. Đành rằng, việc cúng tế là việc cần, thế nhưng, khi nhà lãnh đạo đất nước đưa việc tổ chức cúng tế, lễ hội lên một tầm mức mới và thường xuyên, thì sẽ tạo nên những bất cập trong niềm tin, ứng xử.

Với Phật giáo, niềm tin rất quan trọng. Lương Vũ Đếniềm tin vững chắc về ba ngôi Tam bảo. Đó là phước báu của bản thân ông và là sự thật được ghi nhận bởi chính sử. Thế nhưng, đi sâu vào niềm tin của Lương Vũ Đế, ngoài đức tin vững chãi nơi ba ngôi Tam bảo, thì đôi khi niềm tin của ông còn được thể hiện như là một dạng biến thể của tính cố chấp.

Từ sự cố chấp trong niềm tin khi xem Phật giáochánh đạo, ông đã không những cải đạo bản thân, hoàng tộc, thần dân mà còn bắt đạo sĩ của Đạo giáo hoàn tục, phế bỏ tất cả những cơ sở của Đạo giáo khắp đất nước. Đây là một ứng xử quá mức cố chấp và cứng nhắc. Kinh nghiệm ứng xử với các tôn giáo gần một ngàn năm trước của Đức Phật,41 của đại đế Ashoka42 cho thấy rằng, Phật giáo luôn dung dị, khoan hòa và nhuần nhuyễn với các tôn giáo khác.

Ngay như việc xây dựng chùa chiền, Lương Vũ Đế đã không có những cân nhắc cần thiết khi sử dụng tài sản chung của quốc gia. Khách quan mà nhìn nhận, Lương Vũ Đế góp phần phát triển Phật giáo thông qua hình ảnh ngôi chùa tại đất nước Trung Hoa. Mặc dù vậy, trong một vài trường hợp, Lương Vũ Đế hơi nghiêng về một thái cực trong việc kiến tạo các công trình Phật giáo. Việc xây dựng chùa Đồng Thái là một ví dụ điển hình, vì chi phí xây dựng công trình đã làm cho quốc khố bị cạn kiệt (窮 竭 帑 藏)43.

Bên cạnh đó, từ lịch sử cho thấy, đến thời Lương Vũ Đế, kinh sách Phật giáo vẫn chưa đầy đủ, phong phú. Mãi đến thời nhà Đường (618-906), kinh điển Phật giáo vẫn còn những bất cập nên ngài Huyền Trang mới phát nguyện Tây du44. Khảo sát về cơ sở lý luận của Lương Vũ Đế trong những tác phẩm của ông cho thấy, chất liệu Phật học vẫn chưa nhiều, nếu không nói là còn mang dấu ấn của Nho và Lão. Ngay cả việc cổ súy ăn chay trong bài văn Khuyên bỏ rượu thịt (斷 酒 肉 文) cũng cho thấy sự khập khiễng, cố chấp trong lý luận của ông. Tin kinh giáo là điều quý, nhưng tin một cách quá mức về những kinh giáo chưa được khảo nghiệm và tuyển trạch, là một đức tin dễ tạo nên những di họa khôn lường cho bản thân và cho cả thế hệ.

Đó cũng là cảm nhận rất thẳng thắnmạnh bạo của đại thi hào Nguyễn Du, khi ông sang Trung Hoa và đứng bên Đài đá phân kinh của Lương Chiêu Minh thái tử: Tâm si theo Phật, Phật thành ma. Cha con một nhà ngờ nghệch cả (癡 心 歸 佛 佛 生 魔, 一 門 父 子 多 膠 蔽)45.

Kết luận

Yếu tính nhân duyên luôn có mặt trong mọi dạng thức của đời sống. Sự vận hành của nguyên lý này vô cùng vi tế và không giản đơn. Quán sát một sự kiện, một con người, cần phải thấy rõ những yếu tố nhỏ nhiệm, lẫn khuất và chi phối bên trong, mới phần nào thấu đạt chân tướng của một con người hay sự vật, hiện tượng.

Việc xây chùa, tạo tượng, độ Tăng, bố thí… lẽ tất nhiên vẫn có phước báo và mức độ cao, thấp tùy thuộc vào tâm thế cùng các điều kiện cụ thể của người thực hiện. Mái tranh đơn sơ của người thợ gốm Ghatikara nghèo khó cúng dường Đức Phật Kassaspa46, vẫn chứa đựng nhiều giá trị cao tột hơn điện đài nguy nga, nếu như công trình đó là kết quả của việc vắt kiệt sức dân và vun bồi tự ngã, dù đó là tự ngã tâm linh. Tổ Bồ Đề Đạt Ma, một bậc thánh Tăngnội chứng, thế nên phát biểu của Ngài dựa trên sự quán thông chân tướng của các pháp. Khảo sát về những góc khuất trong cuộc đời của Lương Vũ Đế, đã cho thấy tính khách quan và chân thực trong câu trả lời của Tổ sư.

Đã có nhiều nghiên cứu của các nhà Phật họcthẩm quyền viết về cuộc đời cũng như các phương diện đóng góp của vua Lương Vũ Đế. Qua những điều vừa trình bày, người viết chỉ mong góp một hướng lý giải tồn nghi về cuộc hội kiến lịch sử giữa Bồ Đề Đạt MaLương Vũ Đế. Trên tinh thần cầu thị, người viết mong mỏi sự chung tay góp sức của thức giả quan tâm, nhằm làm sáng tỏ thêm về một nghi án trong lịch sử Phật giáo

 Chú thích

(1)大正新脩大藏經第四十九冊 No 2034, 歷代三寶紀卷第十一. Tuy nhiên, theo 大正新脩大藏經第五十二冊 No 2103, 廣弘明集, 卷第四, 捨事李老道法詔, thì Lương Vũ Đế lên ngôi năm 34 tuổi, nắm quyền 49 năm.

(2) 大正新脩大藏經第四十九冊 No 2034, 歷代三寶紀卷第十一(譯經齊梁周).

(3)大正新脩大藏經第四十八冊 No 2008, 六祖大師法寶壇經, 疑問第三. Xem thêm: 大正新脩大藏經 第五十一冊 No 2076, 景德傳燈錄卷第三; 大正新脩大藏經第四十九冊 No 2035, 佛祖統紀卷第二十九.

(4) 大正新脩大藏經第五十二冊 No 2103, 廣弘明集統歸篇第十卷三十.

(5) Lục Kinh: kinh Dịch, kinh Thư, kinh Thi, kinh Lễ, kinh Nhạc và kinh Xuân Thu. Thời Lương Vũ Đế, Lục kinh Nho giáo vẫn còn, như vậy, nghi án cho rằng Tần Thủy Hoàng đốt mất kinh Nhạc cần phải khảo cứu lại.

(6) Sđd.

(7) Sđd.

(8)大正新脩大藏經第四十九冊 No 2035, 佛祖統紀卷第五十四. Lương thư (梁 書) cũng ghi lại điều này.

(9)君子道消小人道 長

(10)大 正 新 脩 大 藏 經 第 五 十 二 冊 No 2103,廣 弘 明 集, 慈 濟 篇 序 卷 第 二 十 六, 斷 殺 絕 宗 廟 犧 牲 詔.

(11)大 正 新 脩 大 藏 經 第 五 十 二 冊 No 2103, 廣 弘 明 集, 慈 濟 篇 序 卷 第 二 十 六, 斷 殺 絕 宗 廟 犧 牲 詔.

(12)大正新脩大藏經第五十二冊 No 2103, 廣弘明集, 卷第四, 捨事李老道法詔.

(13) Sđd.

(14)大正新脩大藏經第四十九冊No 2035, 佛祖統紀卷第五十四.

(15) Kinh Trung bộ, tập 1, Kinh Ưu ba ly, số 56. NXB. Tôn Giáo, 2012, tr.462-463.

(16)大正新脩大藏經第五十二冊 No 2103, 廣弘明集, 卷第四, 捨事李老道法詔.

(17) Sđd.

(18)大正新脩大藏經, 第 49 冊, No 2035 佛祖統紀, 第 37 卷.

(19)大正新脩大藏經, 第 49 冊, No 2035 佛祖統紀, 第 51 卷.

(20)大正新脩大藏經, 第 49 冊, No 2035 佛祖統紀, 第 37 卷.

(21) Sđd.

(22) Sđd.

(23)大正新脩大藏經, 第 49 冊, No 2035 佛祖統紀.

(24)大正新脩大藏經, 第 49 冊, No 2035 佛祖統紀, 第 51 卷.

(25) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 五 十 二 冊No 2103, 廣 弘 明 集,慈 濟 篇 序 卷 第 二 十 六, 斷 酒 肉 文. Bản dịch tiếng Việt của Hòa thương Thích Phước Sơn. Xem thêm, HT. Thích Phước Sơn, Một số vấn đề về giới luật, NXB. Phương Đông, 2010

(26) Sđd.

(27) 梁 書, 卷第三本紀,武帝下.

(28)大正新脩大藏經第五十二冊 No 2103, 廣弘明集統歸篇序第二十九.

(29) Xem thêm, 倪方六, 帝王秘事,湖北人民出版社出版.

(30)梁 書,卷 第 二本 紀, 武帝中.

(31)大 正 新 脩 大 藏 經 第 五 十 二 冊 No 2103, 廣 弘 明 集, 廣 弘 明 集, 慈濟篇序卷第二十六.

(32)大正新脩大藏經, 第 49 冊, No 2035 佛祖統紀, 第 52 卷.

(33)大 正 新 脩 大 藏 經 第 五 十 二 冊 No 2103, 廣 弘 明 集, 慈 濟 篇 序 卷 第 二 十 六, 斷 酒 肉 文. Xem, bản dịch tiếng Việt của HT. Thích Phước Sơn, Một số vấn đề về giới luật, NXb. Phương Đông, 2010, tr.213.

(34) Kinh Tiểu Bộ, kinh Tập, chương Hai, Tiểu phẩm, kinh Hôi thối.

(35) Kinh Trường Bộ, tập 1, kinh Cứu la đàn đầu.

(36)大正新脩大藏經, 第 49 冊, No 2035 佛祖統紀, 第 37 卷.

(37)大正新脩大藏經, 第 49 冊, No 2035 佛祖統紀, 第 53 卷.

(38)大正新脩大藏經, 第 49 冊, No 2035 佛祖統紀, 第 37 卷.

(39)Sđd.

(40)大正新脩大藏經, 第 49 冊, No 2035 佛祖統紀, 第 51 卷.

(41) ĐTKVN, kinh Tăng chi bộ, tập 2, chương 4 pháp, Đại phẩm, kinh Bhaddya, VNCPHVN, 1996, tr. 191.

(42) Xem thêm: Ven.S.Dhammika, the Edicts of King Ashoka, the fourteen Rock Edicts, XII. (www-accesstoinSight.org).

(43) 大正新脩大藏經第五十一冊 No 2094, 梁京寺記, 同泰寺.

(44)大正新脩大藏經第五十二冊, 史傳部, No 2119 寺沙門玄奘上表記.

(45) 阮攸, 北行雜錄, 梁 昭 明 太 子 分 經 石 臺.

(46) ĐTKVN, kinh Trung bộ, tập 2, kinh Ghatikara,  VNCPHVN, 1992, tr. 493.

 Chúc Phú

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8479)
Trong một quyển sách nhỏ «Phật Giáo Nhập Môn» tác giả Fabrice Midal đã dành riêng một chương để tóm lược thật ngắn gọn một số các khái niệm căn bản...
(Xem: 10098)
Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương.
(Xem: 18480)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 14458)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 8785)
Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo...
(Xem: 8881)
Phẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi tức là không, cũng là giả danh về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo.
(Xem: 8171)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận và Du-già hành tông hay trường phái Duy thức...
(Xem: 8981)
Không là pháp quán chung của Phật giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của các tông phái khác.
(Xem: 14109)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 8429)
Niệm tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm...
(Xem: 15243)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13077)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 7786)
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc..."
(Xem: 16586)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15456)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 8965)
Chấp nhận một hình thức Phật giáo rồi dấn thân bằng thực nghiệm, hành giả không cần phải dành quá nhiều công sức cho những vấn đề lý thuyết và những mục tiêu lý tưởng của các truyền thống khác nhau.
(Xem: 7911)
Pháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc?
(Xem: 7080)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị".
(Xem: 11235)
Đạo Phậtđạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.
(Xem: 14229)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10423)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20426)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 8762)
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ"
(Xem: 9244)
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành...
(Xem: 24050)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12597)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 7786)
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng.
(Xem: 16187)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 15545)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 8709)
Indriya có nghĩa là căn, gốc, khả năng, làm chủ, cốt yếu... Bala là lực, là sức mạnh. Vậy ngũ căn là 5 trạng thái tâm căn bản, 5 yếu tố tâm lý căn bản có khả năng kiểm soát tâm, làm chủ tâm.
(Xem: 7622)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội.
(Xem: 14575)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 9255)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu.
(Xem: 15453)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 15095)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16574)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 13409)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 15279)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 7790)
Tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành ra nước trà.
(Xem: 7473)
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễchúng ta đang thực hiện ngày hôm nay, Ngài cũng không vì vấn đề nghi thứcnghi lễ mà khuyến khích dân chúng...
(Xem: 7327)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu.
(Xem: 8990)
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật GiáoChánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương."
(Xem: 13985)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 7998)
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của Phật giáo...
(Xem: 7822)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn...
(Xem: 15762)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10239)
Chúng ta luôn bị bất an, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sinh mạng, quyền lợi, địa vị, vợ con, tiếng tăm, của cải… của mình bị thương tổn hay bị đe dọa.
(Xem: 7669)
Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
(Xem: 7475)
Trung-quán-luận hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để giảng Giáo lý của đức Phật.
(Xem: 12753)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 7824)
Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời.
(Xem: 8072)
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến ngày nay.
(Xem: 13941)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 7257)
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS / WHO) định nghĩa sức khoẻ là một "thể dạng an vui toàn diện, từ thể xác đến tâm thần và cả cuộc sống trong xã hội
(Xem: 9151)
Trong Thiện kiến tì-bà-sa cũng có thuyết này, nhưng vì độ người nữ xuất gia nên tổn chính pháp năm trăm năm.
(Xem: 9629)
“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ.
(Xem: 13060)
Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người.
(Xem: 7560)
Nếu không có ngã, sự liên quan giữa một hành nghiệp và kết quả của nó là điều không thể có, vì nếu tác giả của một hành nghiệp chết, ai sẽ có kết quả?
(Xem: 10104)
Chúng ta lễ lạy để tịnh hóa mọi tình huống trong quá khứ khi ta không kính trọng người khác... Nguyên tác: Lạt Ma Gendyn Rinpoche; Liên Hoa dịch Việt
(Xem: 7175)
Sau khi Đức Phật diệt độ, Tôn giả Maha Kassapa đã triệu tập 500 vị A-la-hán vân tập tại thành Rājagaha để kiết tập kinh điển... Chúc Phú
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant