Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trung Đạo - Trung LuậnTrung Quán

21 Tháng Sáu 201408:30(Xem: 8896)
Trung Đạo - Trung Luận Và Trung Quán


TRUNG ĐẠO - TRUNG LUẬNTRUNG QUÁN

(Trích dịch từ Chương IV của tác phẩm Nghiên cứu về thuyết Tánh Không)

Tác giả: Pháp sư Ấn Thuận
Người dịch: Thích Nhuận Thịnh


tanhkhongPhẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi (pratītya-samutpāda) tức là không (śūnyatā), cũng là giả danh (prajñāptiupādāya) về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo (madhyamā-pratipad). Ở đoạn trên đã từng nói đến: Duyên khởi của trung đạo là kinh A-hàm nói; đặc sắc của kinh Bát-nhã là chỉ có giả danh (không có thật), bổn tánh không (prakṛti-śūnyatā) và tự tánh không (svabhāva-śūnyatā). Tự tánh không là dựa theo tánh không thắng nghĩa để nói; đến giai đoạn cuối cùng của Trung bản Bát-nhã mới dùng ‘từ sự hòa hợp của nhân duyên sanh ra nên không có tự tánh’ để giải thích về tự tánh không. Trong tự tánh không đã có ý nghĩa không có tự tánh cho nên là không, do vậy Long thọ xuất hiện, dùng một cái mà xuyên suốt hết cả, nên nói rằng: “Pháp mà do nhiều nhân duyên sanh ra, thì ta nói nó là không, cũng là giả danh, cũng là nghĩa của trung đạo’ – một bài kệ vô cùng nổi tiếng trong Phật pháp Đại thừa. Trung đạoPhật pháp, cũng là nguyên tắc duy nhất mà hàng đệ tử của Phật tuân theo. Tất cả hành vi, tất cả nhận thức, tối chính xác mà lại tối thích hợp, chính là trung đạo, trung là không rơi vào hai bên (nhị biên - antadvaya) – thiên lệch về bên tà, cực đoan. Lấy sự thực hành để nói, thì kinh Câu-lâu-sấu vô tranh nói: đắm trước cái dục lạc thấp hèn là một bên, tự khổ hạnh không dùng lợi dưỡng là một bên, ‘lìa hai bên này, thời có trung đạo’, trung đạoCon đường Thánh gồm 8 ngành [Bát chánh đạo].1 Lời dạy dỗ này là được nhiều Kinh, Luật nói đến. Như Phật dạy Tôn giả Nhị thập ức nhĩ (Śrotraviṃśatikoṭī) rằng: Như ‘điều chỉnh dây của đàn cầm, không căng, không chùn, điều chỉnh thích hợp được khoảng giữa đó, thì có thể phối hợp ra âm thanh đáng yêu thích.’ Cho nên “tinh tấn quá mức thì khiến tâm loạn động (trạo cử); không nỗ lực tinh tấn thì khiến tâm sanh giải đãi. Vì vậy ngươi nên phân biệt vào lúc này thì nên quán sát tướng như thế này.”2 Tu hành cũng cần phải thích hợp cái trung ấy, là cần phải quán sát thân và tâm của chính mình, khéo léo điều chỉnh. Giống như luyện vàng vậy, không thể ‘luôn luôn thổi lửa’, ‘luôn luôn rưới nước’, ‘luôn luôn ngừng cả hai’, mà phải hoặc chỉ, hoặc cử, hoặc xả,(a) tùy thời thích hợp mà xử lý, đây mới có thể ‘tâm ắt được chánh định, dứt sạch các hữu lậu.’3 Vì vậy, tu hành thành tựu vô tướng tâm tam-muội (animitta-citta-samādhi) ấy, ‘là không vọt lên cũng không chìm xuống,’ tâm trụ nơi bình đẳng.4 Đây là một nguyên tắc, ứng dụng vào sự nhận thức, chính là duyên khởi do ‘ở nơi trung mà thuyết pháp’, pháp duyên khởi không rơi vào hai bên – đồng nhất và dị biệt, đoạn diệtthường hằng, hữu và vô. Trung đạo chính xácthích hợp, không phải là ‘tách ra để tìm cái giữa’ [chiết trung], không phải là lập lờ nước đôi, càng không phải là sự điều hòa của hai cực đoan, mà là thoát khỏi mọi kiến chấp, chấm dứtdiệt trừ tất cả hí luận (prapañca). Từ nguyên tắc này để quán sát, chỉ có tên gọi mà không có thật thể, tự tánh đều không của kinh Bát-nhã, chỉ là xiển minh đầy đủ về thuyết duyên khởi trung đạo. Vì sao pháp duyên khởi là trung? Pháp duyên khởi là không có tự tánh, cho nên chỉ có tên gọi giả (mà không có thật); pháp duyên khởi là không có tự tánh, cho nên tức là không. Không, cho nên không có tự tánh, là duyên khởi của giả danh; duyên khởi của giả danh, cho nên lìa các kiến chấp nên được vắng lặng [không tịch]. Lấy giả danh tức không – ‘tánh không duy danh’ để nói về trung đạo của duyên khởi, trung đạo là lìa hai bên [nhị biên], cũng chính là tám phủ định mà Trung luận đã nói. Dựa vào Trung đạoduyên khởi gồm tám phủ định (giả danh), có thể thành lập tất cả pháp thế, xuất thế trong thế tục đế; dựa vào trung đạo – tám phủ định (không) của duyên khởi, có thể không rơi vào các kiến chấp, khế nhập vào nghĩa chân thật (thắng nghĩa). Cho nên bài tụng rất nổi tiếng của Trung luận, có thể giải thích theo biểu đồ như sau: Tự tánh không
Pháp duyên khởi…....(vô tự tánh)………(bát bất) trung đạo
Có theo giả danh Phần sau của Hạ bản Bát-nhã nhiều lần nói đến hai loại sự thật [nhị đế], Trung luận cũng là dùng nhị đế để trình bày Phật pháp, như quyển 4* nói: “Chư Phật dựa vào nhị đếthuyết pháp cho chúng sanh. (Một là) thế tục đế, và (hai là) đệ nhất nghĩa đế.”(b) “Nếu không dựa vào tục đế thì không đắc được đệ nhất nghĩa đế. Không đắc được đệ nhất nghĩa đế thì không thể đắc được niết-bàn.”(c) Phật vì chúng sanhthuyết pháp, nên không thể không đặt để nên nhị đế; nếu như không có cái ‘hai – nhị’ tương đối thì tất cả đều đã không thể diễn tả được. Giống như sự hiểu biết của chúng sanhthế gian vậy, đúng như thế, thì gọi là thế tục đế (lokasaṃvṛti-satya – sự thật đúng theo thế gian), đế có nghĩa là không điên đảo. Đệ nhất nghĩa đế (paramārtha-satya) – thắng nghĩa đế, là nghĩa chân thật (tattva) được nhận biết bởi bậc Thánh. Cái được nhận biết bởi chúng sanhthế gian, dù đó là cái biết chung, cái thấy chung, đúng như thế, kỳ thật là mê hoặc điên đảo, cho nên bị sanh tử không dừng. Tìm cầu Phật pháp theo thắng nghĩa, là phải ở trong tất cả pháp của thế gian, lìa điên đảo mê hoặc để thông đạt được nghĩa chân thật, đây là mục đích căn bản của sự đặt để nên nhị đế. Nhưng đệ nhất nghĩa đế, thì danh, tướng, cái phân biệt bằng hư vọng của thế gian đều không thể biểu đạt được, cho nên nói rằng thắng nghĩa đếnhư vầy như vầy, vẫn là dựa vào thế tục đế, dùng phương tiện mà nói. Như kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật nói: “Các tướng như vậy (tánh không) là tướng của bát-nhã ba-la-mật sâu xa. Phật vì chúng sanh, nên dùng pháp thế gian để nói, chẳng phải là đệ nhất nghĩa.”5 “Nếu danh tựnhân duyên hòa hợp đều không có, thì ngữ ngôn và các sự việ của thế gian đều bị diệt; vì thế đế không có, nên đệ nhất nghĩa đế cũng không có.”6 Thế tục đế là cái nhận thức bằng sự mê lầm của chúng sanh, tuy là lầm lạc, nhưng lại là quan trọng, bọn phàm phu chúng ta chính là ở trong tình cảnh này vậy! Cho nên phải nương tựa vào thế tục đế mới có thể biểu thị đệ nhất nghĩa đế; mới có thể từ trong sự khám phá ra cái mê vọng của thế tục để thông đạt thắng nghĩa đế. Dựa vào nhị đế của Trung luận để xem xét một bài kệ rất nổi tiếng của Long thọ: Thế tục đế được nhận thức bằng sự mê vọng của chúng sanh, Phật nói là duyên khởi; dựa vào duyên khởi nên lìa được biên kiến. Có thể lãnh hội và thấy được nghĩa chân thật một cách chính xác, thì đây chính là trung đạo. Nhưng người thông thường, những người theo các bộ phái Phật giáo đều không thể lý giải duyên khởi đúng như thật, cuối cùng thảy đều sa vào khuôn sáo cũ của ‘dựa vào thật mà lập nên giả’, không thể tự cứu mình được. Cho nên kinh Bát-nhã nói: tất cả pháp đều là giả danh, thông đạt được tự tánh vốn vắng lặng [không tịch] thì đây chính là thuyết nhị đế. Trung luận lập luận dựa theo duyên khởi: pháp duyên khởi tức là tánh không, làm hiện rõ đệ nhất nghĩa; duyên khởi tức là giả danh, làm sáng tỏ thế tục đế. Sự có theo giả danh như thế, tức là tánh không, tánh không (cũng là dựa vào giả danh mà nói) không gây trở ngại cho giả hữu, chính là trung đạo của duyên khởi lìa hai bên. Nói duyên khởi tức là không, cũng là giả, cũng là trung (luận Hồi tránh nói rằng duyên khởi, không, trung đạo là cùng một nội dung(d)), nên chỉ là thuyết nhị đế. Thuyết tam đế gồm tức không, tức giả, tức trung, không phải là luận ý của Long thọ. Hướng dẫn cho người khác chuyển đổi mê lầm đế hướng đến giác ngộ, dựa vào thế tục đếthuyết pháp: vì duyên khởi không có tự tánh cho nên là không, vì là không cho nên nhờ vào duyên khởi mà có – thuyết trung đạo, có thể khéo léo thiết lập nên mọi pháp, xa rời hết thảy kiến chấp, có thể nói là sự thuyết giáo vô cùng thiện xảo vậy! Chẳng qua danh ngôn của thế tục là ‘hai’, là không có tính quyết định; tánh tương đối vốn có của danh nghĩa, ở trong sự thích ứng với chúng sanh, tùy thời, tùy nơi mà lưu hành, thì sẽ không tránh khỏi dẫn đến sanh ra các lời bàn tán khác nhau, đó cũng là pháp thường tình của thếgian. Căn cứ vào đệ nhất nghĩa đế, không, vô sanh, v.v., thì đó chỉ là một loại phù hiệu, đều không ngang bằng với đệ nhất nghĩa. Như không là lấy sự lìa các kiến chấp làm tác dụng, mà chấp trước vào cái không ấy thì cũng chẳng phải là trung, cho nên nói: ‘không cũng lại không có’, ‘không cũng không thể nắm bắt được’. Vả lại, trong thực hành sự quán về duyên khởi tức không, đúng như điều mà đoạn kinh dẫn ở trên đã nói, phải tùy thờithích hợp khéo léo với cái trung ấy, luận Đại trí độ nói như thế này:7 “1. Bát-nhã ba-la-mật lìa hai bên mà thuyết về trung đạo: tuy không mà không chấp trước vào không, cho nên nó là có tội, phước; tuy nói có tội, phước, nhưng chẳng sanh tà kiến chấp thường, cũng ở trong không mà không có chướng ngại.” “2. Bồ-tát trụ ở trong nhị đếthuyết pháp cho chúng sanh. Không chỉ nói về không, không chỉ nói về có, mà còn vì lòng thương xót chúng sanh cho nên nói là không, vì những chúng sanh đang chấp thủ về tướng của không cho nên nói là có, ở trong hai chỗ có và không nhưng không đắm nhiễm.” “3. Tướng có là một bên, tướng không là một bên, lìa hai bên mà đi trong trung đạo, là thật tướng của các pháp.” “4. Bát-nhã ba-la-mật ấy là thật tướng của tất cả pháp,… thường là một bên, đoạn diệt là một bên, lìa hai bên này mà đi trong trung đạo. … Đây là bát-nhã ba-la-mật, là một bên, đây chẳng phải là bát-nhã ba-la-mật là một bên, lìa hai bên này mà đi trong trung đạo, đó gọi là bát-nhã ba-la-mật.”1.2. là nói trung đạo cho chúng sanh. 1. là người nói nói về có mà không sanh ra các kiến chấp về thường, v.v., nói về không mà không dính mắc nơi không. 2. đối trị cái chấp thiên lệch của chúng sanh, vì những kẻ dính mắc vào không ấy nên nói là có, vì những kẻ dính mắc về có cho nên nói là không. Như vậy, đó mới là khéo thuyết trung đạo. 3.4. là ‘đi [thực hành] trong trung đạo’. Trong sự thực hành bát-nhã, tướng có là một bên, tướng vô – không cũng là một bên; phân chia ra đây đúng là bát-nhã và đây chẳng phải là bát-nhã cũng đều là một bên. Thực hành bát-nhã là lấy sự không chấp trước làm nguyên tắc, nếu như tâm có chấp trước liền khiến cho sự thực hành thiện, thực hành không này cũng đều là ở một bên mà chẳng phải trung. Kinh Bát-nhã gọi đó là ‘thuận đạo pháp ái sanh;(e)’8 thí dụ là ‘như ăn loại độc hỗn hợp’.9 Con đường giải thoát được Phật khai thị, như không, vô sở hữu (ākiṃcanya), vô tướng (animitta), kinh A-hàm sớm đã chỉ ra rồi: quán về vô ngãvô ngã sở - vô sở hữu, có sự thực hành quán này thì nhờ huệ để được giải thoát, đắm nhiễm vào nó thì không giải thoát được, sẽ sanh vào vô sở hữu xứ (ākiñcanayāyatana); quán tất cả là không có tướng, có thực hành pháp quán này thì nhờ huệ để được giải thoát, nếu như đắm nhiễm thì không giải thoát được, sẽ sanh vào vô tưởng xứ - phi tưởng phi phi tưởng xứ (naivasaṃjñānāsaṃjñāyatana).10 Nguyên lý và phương pháp là có chuẩn mực, nhưng dù là thế tục, mà nếu có thể khéo léo thích ứng đúng với nó, thì đúng như câu nói của người Trung quốc: ‘muốn vận dụng nó được hoàn hảo, thì phải để hết tâm vào nó’ vậy. Các vị học giả nên chú ý đến tính thực tiễn của Phật pháp, không chỉ là ‘Trung luận’ mà phải thêm là ‘Trung quán’ mới được!


1 Trung A-hàm, (169) Câu-lâu-sấu vô tranh kinh, T. 1, tr. 701b-c. Trung bộ, (139) Vô tranh phân biệt kinh, Nam truyền 11 hạ, tr. 320-321. 2 Tạp A-hàm 9, T. 2, tr. 62c. Trung A-hàm, (123) Sa-môn nhị thập ức kinh, T. 1, tr. 612a-b. Tăng chi bộ, phẩm 6 pháp, Nam truyền 20, tr. 129. (a) “Chỉ tướng 止相, cử tướng 舉相, xả tướng 捨相. Pāli, A. i. 257: samādhinimittaṃ, định tướng, paggahanimittaṃ, cần (tinh tấn) tướng, upekkhānimittaṃ, xả tướng.” Tham khảo: Tạp A-hàm, tập 2, Thích Đức Thắng dịch Việt, Nxb Phương Đông, Sài gòn, 2010, tr. 694, chú thích 10. 3 Tạp A-hàm 47, T. 20, tr. 342a. Tăng chi bộ, phẩm 3 pháp, Nam truyền 17, tr. 422-423. 4 Tạp A-hàm 20, T. 2, tr. 145a-146a. Tăng chi bộ, phẩm 9 pháp, Nam truyền 22 thượng, tr. 126-127. * Trung luận 4, T. 30, tr. 32c-33a. (b) Skt: dve satye samupāśritya buddhānāṃ dharmadeśanā |
lokasaṃvṛtisatyaṃ ca satyaṃ ca paramārthataḥ ||8|| (c) Skt: vyavahāram anāśritya paramārtho na deśyate | paramārtham anāgamya nirvāṇaṃ nādhigamyate ||10|| 5 Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 14, T. 8, tr. 325b. 6 Đại trí độ luận 42, T. 25, tr. 365a. (d) Skt: “yaḥ śūnyatāṁ pratītyasamutpādaṁ madhyamāṁ pratipadam-anekārthām.” Nāgārjuna, Vigrahavyāvartanī. 7 Đại trí độ luận: 1. Quyển 70, T. 25, tr. 551a; 2. Quyển 91, tr. 703b; 3. Quyển 61, t. 492c; 4. Quyển 43, tr. 370a-b. (e) Skt: “iyam āyuṣman śāriputra bodhisattvasya mahāsattvasya ānulomikī dharmatṛṣṇā āmaḥ.” Pañcaviṃśatisāhasrikā Prajñāpāramitā. Chữ sanh (生), Skt. āma (adj), có nghĩa là chưa chín, chưa được nấu, chưa được rèn giũa, bệnh tật, v.v. Như vậy, ‘thuận đạo pháp ái sanh - 順道法愛生’ được hiểu là, vị Bồ-tát ma-ha-tát mà học tập bát-nhã ba-la-mật chưa thuần thục, chưa thực hành đúng phương pháp của bát-nhã ba-la-mật (như đoạn kinh này đã diễn tả) thì sự thực hành của vị ấy là thực hành bằng tâm yêu thích của mình đối với Phật pháp mà chưa hiểu rõ được phương pháp đúng của bát-nhã ba-la-mật. 8 Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 3, T. 8, tr. 233b. 9 Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 11, T. 8, tr. 299c. 10 Trung A-hàm, (15) Bất động đạo kinh, T. 1, tr. 542c-543a. Trung bộ, (106) Bất động lợi ích kinh, Nam truyền 11 thượng, tr. 342-345.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8506)
Trong một quyển sách nhỏ «Phật Giáo Nhập Môn» tác giả Fabrice Midal đã dành riêng một chương để tóm lược thật ngắn gọn một số các khái niệm căn bản...
(Xem: 10099)
Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương.
(Xem: 18488)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 14496)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 8790)
Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo...
(Xem: 8190)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận và Du-già hành tông hay trường phái Duy thức...
(Xem: 8983)
Không là pháp quán chung của Phật giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của các tông phái khác.
(Xem: 14133)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 8430)
Niệm tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm...
(Xem: 15246)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13107)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 7790)
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc..."
(Xem: 16607)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15461)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 8965)
Chấp nhận một hình thức Phật giáo rồi dấn thân bằng thực nghiệm, hành giả không cần phải dành quá nhiều công sức cho những vấn đề lý thuyết và những mục tiêu lý tưởng của các truyền thống khác nhau.
(Xem: 7912)
Pháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc?
(Xem: 7080)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị".
(Xem: 11237)
Đạo Phậtđạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.
(Xem: 14232)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10424)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20429)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 8764)
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ"
(Xem: 9248)
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành...
(Xem: 24058)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12601)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 7786)
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng.
(Xem: 16194)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 15546)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 8709)
Indriya có nghĩa là căn, gốc, khả năng, làm chủ, cốt yếu... Bala là lực, là sức mạnh. Vậy ngũ căn là 5 trạng thái tâm căn bản, 5 yếu tố tâm lý căn bản có khả năng kiểm soát tâm, làm chủ tâm.
(Xem: 7625)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội.
(Xem: 14577)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 9259)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu.
(Xem: 15456)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 15099)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16582)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 13416)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 15281)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 7794)
Tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành ra nước trà.
(Xem: 7475)
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễchúng ta đang thực hiện ngày hôm nay, Ngài cũng không vì vấn đề nghi thứcnghi lễ mà khuyến khích dân chúng...
(Xem: 7327)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu.
(Xem: 8992)
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật GiáoChánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương."
(Xem: 13987)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 8000)
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của Phật giáo...
(Xem: 7822)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn...
(Xem: 15766)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10239)
Chúng ta luôn bị bất an, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sinh mạng, quyền lợi, địa vị, vợ con, tiếng tăm, của cải… của mình bị thương tổn hay bị đe dọa.
(Xem: 7669)
Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
(Xem: 7478)
Trung-quán-luận hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để giảng Giáo lý của đức Phật.
(Xem: 12753)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 7825)
Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời.
(Xem: 8074)
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến ngày nay.
(Xem: 13948)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 7260)
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS / WHO) định nghĩa sức khoẻ là một "thể dạng an vui toàn diện, từ thể xác đến tâm thần và cả cuộc sống trong xã hội
(Xem: 9155)
Trong Thiện kiến tì-bà-sa cũng có thuyết này, nhưng vì độ người nữ xuất gia nên tổn chính pháp năm trăm năm.
(Xem: 9631)
“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ.
(Xem: 13063)
Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người.
(Xem: 7560)
Nếu không có ngã, sự liên quan giữa một hành nghiệp và kết quả của nó là điều không thể có, vì nếu tác giả của một hành nghiệp chết, ai sẽ có kết quả?
(Xem: 10106)
Chúng ta lễ lạy để tịnh hóa mọi tình huống trong quá khứ khi ta không kính trọng người khác... Nguyên tác: Lạt Ma Gendyn Rinpoche; Liên Hoa dịch Việt
(Xem: 7175)
Sau khi Đức Phật diệt độ, Tôn giả Maha Kassapa đã triệu tập 500 vị A-la-hán vân tập tại thành Rājagaha để kiết tập kinh điển... Chúc Phú
(Xem: 30851)
Tăng đoàn bắt đầu hoạt động rộng rãi và có ảnh hưởng kể từ khi Phật niết bàn... Thích Nữ Trí Nguyệt dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant