Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Lúc Làm Việc: Phương Pháp Mới Điều Giải Sự Cực Nhọc

30 Tháng Tám 201300:00(Xem: 17827)
Thiền Lúc Làm Việc: Phương Pháp Mới Điều Giải Sự Cực Nhọc


Thiền Lúc Làm Việc: Phương Pháp Mới Điều Giải Sự Cực Nhọc

 

Huỳnh Kim Quang

 

thien(Lời giới thiệu: Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003. Bà chuyên môn trong các lãnh vực chế ngự căng thẳng, làm việc tập thể, và truyền thông hữu hiệu, cũng như nhiều năng khiếu làm việc quan trọng khác. Wendy đã có kinh nghiệm nhiều năm trong kinh doanh và giáo dục người lớn, được hỗ trợ nhờ bà có bằng Cao Học và Chứng Chỉ Giáo Dục Người Lớn. Bà giúp cho thân chủ đạt được nhiều thành quả làm việc và lợi tức. Wendy cũng là thành viên tích cực của Hệ Thống Strategic Capabilities Network, và Hội the International Psychology Association. Sau đây là bản dịch tiếng Việt bài khảo luận của Wendy Woods “Meditating at Work: A New Approach to Managing Overload.”)

Nhân viên và công ty hiện nay bị vùi dập dưới khối lượng thông tin và sự tán loạn chưa từng thấy. Nếu không phải là điện thư, viết trao đổi, và lời nhắn liên tục, thì cũng là những cú điện thoại, đồng nghiệp, và đòi hỏi thay đổi và hối thúc đáo hạn liền liền. Nghiên cứu của công ty Basex cho thấy 50% thời gian trong ngày làm việc mà kiến thức của nhân viên được bỏ ra cho “việc giải quyết thông tin” và sự tiếp cận thông tin đưa tới kết quả “mất khả năng để quyết định, xúc tiến thông tin, và các công việc ưu tiên.” Thực tế, nghiên cứu cho thấy sự quá tải thông tin liên tục làm cho não bộ phải chiến đấu với căng thẳng, mà vốn [não bộ] là để bảo vệ chúng ta thoát khỏi những con hổ ăn thịt người và các mối đe dọa khác.

 Theo Bác Sĩ Edward Hallowell, vỏ não bộ phía trước (bộ phận của não bộ đáp ứng với các chức năng điều hành như quyết định, giải quyết khó khăn, và đặt kế hoạch) không thể thực hiện đúng khi nó bị căng thẳng. Thay vì vậy, “phần thấp hơn” của não bộ, để đáp ứng với việc đối phó với sự sinh tồn, phải làm việc thay thế. Rồi thì vỏ não bộ phía trước chờ đợi tín hiệu từ não bộ thấp hơn cho biết rằng nguyên nhân căng thẳng đã biến mất. Cho đến lúc đó, vỏ não bộ phía trước vẫn còn chức năng, nhưng yếu kém. Thông minh sút giảm, và sự linh hoạt teo lại (1). Kết quả của sự quá tải thông tin và tán loạn này là sự tàn phá sức khỏe tinh thầnvật chất của nhân viên và công ty, cũng như hiệu năng sản xuất. Như Jonathan Spira viết trong “Overload! How Too Much Information Is Hazardous to Your Organization (Quá Tải! Thông Tin Quá Nhiều Nguy Hại Cho Tổ Chức Của Bạn Như Thế Nào), vấn đề này đã được tiên đoán là làm thiệt hại kinh tế Hoa Kỳ 900 tỉ đô la mỗi năm trong “hiệu năng sản xuất của nhân viên giảm thấp và cùn lụt sáng kiến,” (2). Số liệu này cũng gồm thời gian hồi phục, có thể là từ 10 tới 20 lần lớn hơn thời gian tổn thất từ chính sự gián đoạn.

 Trong khi đó các tổ chức tuyên bố những thách thức này với nhiều giải pháp chế ngự căng thẳng, cho đến gần đây thiền vẫn chưa nằm trong số đó. Thiền vẫn có tiếng là trừu tượng và không thích hợp cho công ty thu dụng. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu khoa học đã chứng minh giá trị của thiền làm thay đổi não bộ cho thấy sự áp dụnghiệu quả của thiền trong chỗ làm việc. Thiền hiện đang được chấp nhậnsử dụng trong nhiều công ty Mỹ có tên tuổi như General Mills, Google, và Prentice Hall, v.v…

Thiền Chánh Niệm Là Gì?

Để hiều thiền chánh niệm, cần hiểu chánh niệm trước. Jon Kabat Zinn, cựu giám đốc của Trung Tâm Center for Mindfulness tại Trường Y Khoa của Đại Học Massachusetts, định nghĩa chánh niệm là “chú tâm trong một phương cách đặc biệt, vào mục tiêu, trong khoảnh khắc hiện tiền, và không phán đoán.” Căn bản, chánh niệm là tập trung vào khoảnh khắc hiện tại không có căng thẳnglo lắng của sự phán đoán về nó. Nhưng, như nhiều nhân viên biết, việc làm là tương lai và sự định giá liên tục -- phần kế tiếp trên danh sách việc cần làm, điện thư bị hiểu sai, hay trận chiến mất mát vô hạn ngày càng nhiều hơn. Sự tập trung vô cảm vào hiệu năng sản xuất dẫn đến kết quả trong các môi trường làm việc tập thể ngày càng tán tâm nhiều hơn là chánh niệm.

Chủ yếu, chánh niệmtrạng thái hiện tiền mà bạn trải nghiệm cuộc sống một cách trọn vẹn hơn, thay đổi mối quan hệ của bạn với nhiều vấn đề, đào luyện sức mạnh cá nhân, và điều chế tốt hơn những tư tưởng và tập quán vị kỷ. Dù thuật ngữ này thường được dùng thay thế nhau, đây là cách đơn giản để phân biệt chúng: chánh niệmmục tiêu, trong khi thiền chánh niệm là tiến trình để hoàn thành mục tiêu ấy. Ngược lại với niềm tin phổ thông, thiền chánh niệm không bao gồm đốt hương, tụng niệm, thực hành tôn giáo, hay làm sạch mọi tư tưởng trong tâm bạn. Sự thực tập thiền gồm tập trung vào hơi thở hay những cảm thọ của thân thểnhận thức tư tưởng tạp niệm và cảm xúc mà không phán đoán khi chúng xảy ra. Rồi bạn nhẹ nhàn chuyển đối tượng tập trung, có thể là hơi thở của bạn trong thời gian thiền hay hoạt động hàng ngày như uống cà phê.

Nối Kết Nghiên Cứu Khoa Học Với Những Lợi Ích Nơi Làm Việc

Sự gia tăng các nghiên cứu khoa học làm nổi bật những tác dụng của thiền chánh niệm lên sức khỏe cá nhân và những vấn đề kinh niên của nhiều nhân viên làm việc quá độ là một phần lý do mà công ty Mỹ đang đầu tư vào sự thực hành [thiền] mà đã từng liên quan với các phong trào thanh niên lập dị và yêu đương tự do. Hơn nữa với những thành quả tích tực tức thì, nghiên cứu cho thấy bởi vì não bộ cũng thay đổi cấu trúc do kết quả của thiền, những ảnh hưởng của nó là lâu dài.

Giảm Căng Thẳng

Một lợi ích rõ ràng của thiền chánh niệm là giảm căng thẳng. Theo Viện the American Institute of Stress, vấn đề này gần đây đã làm Hoa Kỳ hao tốn “hơn 300 tỉ đô la hàng năm vì nghỉ việc, thay đổi nhân viên, năng suất làm việc bị giảm, các tốn kém về y tế, pháp lý, và bảo hiểm, và trả tiền Bồi Thường của Nhân Viên.” (3) Ảnh hưởng trên các nhân viên có thể là sự tê liệt, với 68% đạt tới “điểm cảm giác cực kỳ mệt mỏi và mất kiểm soát.” (4)

Nhiều nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng thư giãn của thiền. Bác Sĩ Herbert Benson, sáng lập và chủ tịch của Viện the Mind/Body Medical Institute tại Trường Y Khoa Harvard, khám phá rằng thiền thúc đẩy các thay đổi vật lý của việc thư giãn, như làm thấp nhịp đập tim và hô hấp, làm hạ áp huyết, và làm thấp sự tiêu thụ oxy. Thiền cũng được tìm thấy làm cho mức hóc môn căng thẳng hạ thấp hơn. (5)

Một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng thiền chánh niệm thực sự làm giảm kích thước của một phần não bộ liên kết với phản ứng căng thẳng. (6) Ngay cả điều tốt hơn về những kết quả này là sự thay đổi cũng đã xảy ra trong não bộ của những người mới thực hành thiền. Những người tham dự khóa tu 8 tuần Giảm Căng Thẳng Do Thực Hành Chánh Niệm (MBSR) trong đó họ thiền trung bình mỗi ngày một lần 27 phút. Chụp hình não được thực hiện trước và sau khóa tu MBSR cho thấy chất xám giảm trong cục hình hạt hạnh, một bộ phận của não bộ điều khiển cảm xúc sợ hãithúc đẩy sự phản ứng chống lại hay giải thoát. Trong khi nửa giờ đồng hồ có thể là dài vô tận trong môi trường làm việc, một nghiên cứu cho thấy rằng chỉ 10 phút thiền mỗi ngày trong 5 ngày của một tuần và kéo dài 4 tuần như thế có thể mang đến kết quả “làm giảm các triệu chứng kiệt sức, gia tăng thư giãn, và cải thiện sự mãn nguyện trong đời sống.” (7)

Tập Trung

Một lãnh vực khác mà thiền chánh niệm chứng tỏ có nhiều lợi ích thiết thực trong sở làm là sự tập trung vào đối tượng và tập trung tư tưởng. Một nghiên cứu vào năm 2011 với các nhà nghiên cứu từ Đại Học Harvard, Đại Học MIT, và Bệnh Viện Tổng Quát tại Massachusetts cho thấy rằng sau khóa tu thiền MBSR 8 tuần, những người tham dự đã có sự kiểm soát tốt hơn làn sóng não bộ bình thường. (8) Một nghiên cứu trước đây cho thấy chỉ thiền 20 phúc mỗi ngày trong vòng 4 ngày đã có kết quả có khả năng giữ được sự chú tâm. (9)

Thâm Cảm

Theo nghiên cứu của Hay McBer, 80% thành công nơi chỗ làm việc được cho là do sự nhạy cảm (khả năng tự chế, liên hệ tới những người khác, và đương đầu với những áp lực của cuộc sống). (10) Sự thâm cảm là một khả năng quan trọng của sự nhạy cảm. Có khả năng đi giép vào bụng người khác bằng sự nhận thứchiểu biết dự phóng của người khác là chính yếu để phát triển và giữ mối quan hệ lành mạnh và làm việc hiệu năng. Tuy nhiên, trong chỗ làm việc gấp gáp, nó [thiền] là điểu tiên quyết để đi tới sự thu hẹp đối tượng từ con người và các mối quan hệ để hoàn thành công việc.

Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng thiền từ bi, ở đó bạn tập trung vào lòng thương yêucảm thông người khác, sẽ gia tăng sự thâm cảm. Trong một nghiên cứu vào năm 2008, Rechard Davidson và các đồng nghiệp phát hiện rằng thiền từ bi làm hoạt động hệ thống liên đới, hệ thống cảm xúc của não bộ, trong cả những người mới thực hành thiền và các vị tăng sĩ. (11) Trong một nghiên cứu khác cùng năm tại Đại Học Stanford, chỉ 4 phút thực hành thiền từ bi-tử tế chứng minh kết quả gia tăng các cảm xúc của liên đới xã hộilạc quan hướng tới những người xa lạ. (12)

Quyết Định Sáng Suốt

Trong khi việc lấy quyết định được tin là tiến trình lý trí thuần túy, nó cũng là cảm xúc mạnh. Antonio Damasio phát hiện rằng những quyết địnhtính cách nhận thức không thể được thực hiện mà không có nối kết với cảm xúc liên quan tới quyết định đó. (13) Điều này có những quan hệ mật thiết lớn đối với chỗ làm việc. Những chọn lựa, một khi được cho là được thực hiện dựa trên căn bản thuần túy kinh tế hay lý trí, gắn bó với các cảm xúc có thể dẫn tới việc chống lại sự hợp lý.

Tuy nhiên, một nghiên cứu cho thấy rằng những người thực hành thiền có kinh nghiệm có thể tách rời tốt hơn các cảm xúc của họ với những quyết định khi họ đối mặt với nhiều chọn lựa có vẻ không công bằng, trong thể thức của “những cống hiến khác.” (14) Kết quả, những người hành thiền chấp nhận nhiều cống hiến dựa trên công đức thực sự của họ so với nhóm kiểm soát. Tại sao? Rõ ràng, các thành viên trong nhóm kiểm soát thường vận dụng một phần não bộ của họ liên đới tới sự giận dữ, loại bỏ, và phản bội, dẫn tới tình trạng cao hơn của sự khước từ những cống hiến. Các nhà hành thiền, ngược lại, không bị hạn chế bởi bộ phận đó của não bộ. Sự tập luyện thiền chánh niệm có vẻ cải thiện việc lấy quyết định bằng cách giảm thiểu tối đa hay buông bỏ những thành tố cảm xúc có thể che khuất việc suy nghĩ trong sáng.

Tự Giác

Theo các chuyên gia nhận thức cảm xúc, “Tất cả khả năng nhận thức cảm xúc được xây dựng trên sự tự giác.” (15) Chủ yếu, tự giác cung cấp cái nhìn vào nội thể để nhận diệncải thiện những khu vực còn yếu kém trong khi đầu tư nhiều hơn để làm cho mạnh thêm. Điều này là quan trọng trong bất cứ khả năng nào nhưng đặc biệt trong vai trò lãnh đạo. Bill George, cựu Tổng Giám Đốc của Medtronic và hiện là giáo sư về quản trị tại Trường Kinh Doanh của Đại Học Harvard, phát hiện rằng thiền giúp ông “tự giác và từ bi hơn với chính mình và những người khác.” Trong nghiên cứu vào năm 2011, thiền chánh niệm được cho thấy mang lại sự gia tăng trong một phần của não bộ liên kết với tự giác. (16)

Tâm Trạng Lạc Quan

Quan niệm về tâm trạng và “sự tiêm nhiễm xúc cảm” có những mối quan hệ trọng đại đối với chỗ làm việc. Cả tâm trạng tốt và xấu đều thay đổi nhanh chóng thông qua một tổ chức, dù tâm trạng xấu đi nhanh hơn. Trong khi những thành viên làm việc trong văn phòng ý thức về ảnh hưởng của tâm trạng của họ lên người khác, Daniel Goleman cảm thấy rằng điều này là quan trọng đặc biệt đối với những người lãnh đạo bởi vì tâm trạng của họ giống như “vi khuẩn lây lan” nhanh nhất. “Có tâm trạng tốt… giúp nhiều người nhận được thông tin hữu hiệu và đáp ứng lại một cách nhậm lẹ và sáng tạo.” (17)

Richard Davidson và các đồng nghiệp phát hiện rằng sau khóa tu thiền chánh niệm 8 tuần, những tham dự viên nghiên cứu cho thấy sự năng hoạt lớn hơn trong vỏ não phía trước bên trái của họ. (18) Vỏ não phía trước bên trái được liên kết với cảm xúc lạc quanphản ứng thích đáng hơn đối với các sự kiện tiêu cực hay căng thẳng, trong khi sự năng hoạt trong vỏ não phía trước bên phải nối kết với sự hạn chế phản ứng và những cảm xúc tiêu cực hơn.

Làm Thế Nào Để Toàn Thế Giới Thực Hành Thiền

Dù ngày càng có nhiều tổ chức đón nhận những lợi lạc của phương thức cổ xưa này, vẫn không có tiêu chuẩn cho thiền trong chỗ làm việc. Tia sáng cuối đường hầm, nhiều công ty mở “nhiều phòng thiền” (nơi mà các nhân viên có thể thực sự thiền) hay ngày càng có nhiều “bình lặng” hơn hay “những phòng hồi phục” (nơi mà các công nhân có thể đơn giản nghỉ ngơi để thư giãn căng thẳng). Những khu vực này thường lớn gấp đôi các phòng cầu nguyện. Prentice Hall, eBay, và GlaxoSmithKline là thuộc loại này.

Một tia sáng nhỏ xa hơn, là nhiều công ty cung cấp các lớp học và khóa tu thiền, với mở thêm phòng thực tập thiền. Hãng Green Mountain Coffee Roasters có một trung tâm thiền ngay trong hãng nơi mà các lớp học thiền được mở ra; họ cũng tổ chức các khóa tu miễn phí cho nhân viên cũng như gia đình và bạn bè, ngay cả các thành viên trong cộng đồng. Google mang thiền đến cho các nhân viên qua chương trình Search Inside Yourself (SIY). Chương trình này phối hợp khoa học, thiền, và chuyên môn kinh doanh. Theo Chade Meng Tan, người sáng lập của chương trình SIY, sự nhạy cảm cung cấp “chiếc xe để làm quân bình thiền với đời sống thực tế.” Daniel Goleman giúp phát triển chương trình này.

Sounds True, công ty truyền thông đa dạng có trụ sở tại Colorado, cung cấp phòng ngồi thiềnthời gian có thể chọn lựa 15 phút mỗi ngày cho nhóm nội quán hay thiền, cũng như một phút im lặng trước các cuộc họp hàng quý của công ty. Những phiên họp mỗi ngày bắt đầu với thực tập chánh niệm khác, cùng lúc kiểm tra mỗi người có mặt hay không.

Genentech and General Mills đã thực hiện cam kết tiến bộ nhất cho lợi lạc của thiền. Công ty kỹ thuật sinh hóa này được làm chủ bởi Roche, Genentech đi từ việc cung cấp các lớp thiền và chánh niệm trong năm 2006 tới chương trình hoàn hảo hơn gọi là Personal Excellence Program (PEP) dùng nội quán của chánh niệm và thiền để nâng cao sự phát triển và chuyển hóa cá nhân. PEP là hành trình 10 tháng kết hợp 3 giai đoạn: chọn chủ đề cho sự phát triển cá nhân, quan sát sự tự giác lớn hơn, và thực hành những tập quán mới có hiệu quả tốt hơn. Dù giai đoạn hai gồm chánh niệm và thiền, người sáng lập PEP là Pamela Weiss tránh xa những lợi ích đặc biệt và các tôn giáo. Người khách quan xem xét chương trình đã đưa ra những kết quả như sau:

- Việc hoàn tất nhiệm vụ của nhân viên gia tăng từ 10 tới 20%.

Thỏa mãn của khách hàng gia tăng 12%.

Cải thiện trong cảm thông, cộng tác, kiềm chế xung đột, và huấn luyện của nhân viên gia tăng 50%.

- 77% báo cáo “ảnh hưởng kinh doanh thấy rõ đáng kể” bởi kết quả của việc tham gia chương trình PEP (tiêu chuẩn là từ 25 tới 30%).

Hơn 800 người đã tham gia vào chương trình PEP, hiện chương trình này bước vào năm thứ 6, và một chương trình nâng cấp trình độ được thêm vào.

Trong năm 2006, công ty General Mills bắt đầu cung cấp chương trình The Mindful Leadership Series -- kết hợp thiền chánh niệm, yoga, và đối thoại -- để làm cho các nhà lãnh đạo của họ thêm chánh niệm đối với chính họ và những người khác và khơi nguồn những khả năng nội tại. Hơn 140 nhà lãnh đạo và giám đốc tham gia vào chương trình 4 ngày Đào Luyện Trí Tuệ Nhanh Nhẹn Lãnh Đạo Qua Chánh Niệm, trong khi 150 người khác tham gia vào chương trình Nắm Bắt Tia Sáng: Sáng Kiến và Chánh Niệm hay vào chương trình Lãnh Đạo Chánh Niệm Nơi Làm Việc. Nghiên cứu sau đó vào năm 2009 về Lãnh Đạo Chánh Niệm Nơi Làm Việc được cho thấy như sau:

- 83% người tham dự cho biết họ thường “dành thời gian mỗi ngày để tạo lạc quan về năng suất cá nhân của họ” (tăng từ 23% trước khi tham dự)

- 82% người tham dự nói rằng họ “tranh thủ trên hầu hết các ngày để giảm một số công việc/họp hành mà giá trị năng suất có hạn” (tăng từ 32% trước khi tham dự)

Nghiên cứu với những người tham dự chương trình Đào Luyện Trí Tuệ Nhanh Nhẹn Lãnh Đạo Qua Chánh Niệm cho thấy rằng:

- 80% người tham dự báo cáo sự thay đổi tích cực trong khả năng thực hiện những quyết định tốt hơn với nhiều trong sáng hơn, và

- 89% người tham dự báo cáo nâng cao được khả năng lắng nghe, với những người khác và chính họ.

Chương trình 7 tuần lễ hiện vẫn sẵn sàng cho tất cả mọi cấp bực bên trong tổ chức, và chương trình 4 ngày đã mở rộng ra ngoài phạm vi của công ty General Mills đến những tổ chức khác.

Dù các lợi lạc của thiền nơi làm việc là rõ ràng đối với nhiều công ty, những nhà lãnh đạo, các nhóm làm việc, sự mở rộng toàn diện và khắp tất cả vẫn là cần thiết. Có lẽ một ngày nào đó, thiền chánh niệm sẽ trở nên thiết yếu đối với nơi làm việc khi mà thời đại kỹ thuật đang tạo ra sự cần thiết đó.

 thich_hanh_tue_2

Ghi Chú:

1. Edward Hallowell, “Overloaded Circuits: Why Smart People Underperform,” Harvard Business Review, January 2005.

2. Jonathan Spira, How Too Much Information Is Hazardous to Your Organization (John Wiley & Sons, 2011).

3. Paul J. Rosch, ed., “The Quandary of Job Stress Compensation,” Health and Stress, American Institute of Stress (March, 2001): 3.

4. StressPulseSM Survey, ComPsych Corporation (2010).

5. Y. Y. Tang and M. I. Posner, “The Neuroscience of Mindfulness,” The NeuroLeadership Journal 1, (2008): 33–37.

6. Britta K. Hölzel, James Carmody, Karleyton C. Evans, et al., “Stress Reduction Correlates with Structural Changes in the Amygdala,” Social Cognitive and Affective Neuroscience 5, no. 1 (2010): 11–17.

7. Corey S. MacKenzie, Patricia A. Poulin, and Rhonda Seidman-Carlson, “A Brief Mindfulness-Based Stress Reduction Intervention for Nurses and Nurse Aides,” Applied Nursing Research 19 (2006): 105–109.

8. Catherine E. Kerr, Stephanie R. Jones, Qian Wan, et al., “Effects of Mindfulness Meditation Training on Anticipatory Alpha Modulation in Primary Somatosensory Cortex,” Brain Research Bulletin, 2011.

9. F. Zeidan, S. K. Johnson, et al., “Mindfulness Meditation Improves Cognition: Evidence for Brief Mental Training,” Consciousness and Cognition 19, no. 2 (2010): 597–605.

10. Daniel Goleman, Working with Emotional Intelligence (Bantam, 2000).

11. Richard Davidson, Antoine Lutz, Julie Brefczynski-Lewis, and Tom Johnstone, “Regulation of the Neural Circuitry of Emotion by Compassion Meditation,” PLoS ONE 3, no. 3 (2008): e1897.

12. Cendri A. Hutcherson, Emma M. Seppala, and James J. Gross, “Loving-Kindness Meditation Increases Social Connectedness,” Emotion 8, no. 5 (2008): 720–724.

13. Marcia Hughes, L. Bonita Patterson, and James Bradford Terrell, Emotional Intelligence in Action (John Wiley & Sons, 2005).

14. Ulrich Kirk, Jonathan Downar, and P. Read Montague, “Interoception Drives Increased Rational Decision-Making in Meditators Playing the Ultimatum Game,” Frontiers in Decision Neuroscience 5 (2011): 49.

15. Daniel Goleman, Richard Boyatzis, and Annie McKee, Primal Leadership: Realizing the Power of Emotional Intelligence (Teleos Leadership Institute, 2002).

16. Britta K. Holzel, James Carmody, Mark Vangel, et al., "Mindfulness Practice Leads to Increases in Regional Brain Gray Matter Density," Psychiatry Research: Neuroimaging 191 (2011): 36-43.

17. Daniel Goleman and Richard Boyatzis, “Social Intelligence and the Biology of Leadership,” Harvard Business Review, September 2008.

18. Richard Davidson, Jon Kabat-Zinn, Jessica Schumacher, et al., “Alterations in Brain and Immune Function Produced by Mindfulness Meditation,” Psychosomatic Medicine 65 (2003): 564–570.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22367)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 8864)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này.
(Xem: 10091)
Cho đến nay, người ta vẫn chưa biết chính xác bản kinh Pháp Hoa này được thiết lập khi nào, ở đâu và được ghi lại bằng ngôn ngữ nào trước hết.
(Xem: 16733)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 8237)
Việc nghiên cứu Kinh Lăng-già, đã được ngài D.T.Suzuki thực hiện, qua tác phẩm “rất thẩm quyền”: Studies in the Lankavatara Sutra – nghiên cứu về kinh Lăng-già.
(Xem: 19029)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 7967)
Chính pháp trụ một nghìn năm, tượng pháp trụ một nghìn năm, mạt pháp trụ một vạn năm. Thuyết này trích trong Kì-hoàn tinh xá bi.
(Xem: 6882)
Nhị đếtục đếchân đế, còn gọi là chân lý tương đốichân lý tuyệt đối hay chân lý thế gianchân lý xuất thế gian.
(Xem: 8162)
Phật giáocách sống dựa trên việc rèn luyện tâm. Mục đích cao nhất là để đi trên con đường giải thoát khỏi đau khổ, và đạt đến Niết Bàn,
(Xem: 8545)
Trong 2 giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ nguyện vọng và dấn thân, chỉ với việc dấn thân chúng ta mới thọ giới Bồ tát.
(Xem: 9642)
Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma - Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 9503)
Thực chứng giáo lý duyên khởi, người thông tuệ hoàn toàn không vướng vào những quan điểm cực đoan...
(Xem: 7670)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại họcTrung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên.
(Xem: 8246)
Đức Phật nói, nếu giữ tâm vững như hòn đảo trước phong ba bão táp của cuộc đời thì chúng ta sẽ có được chất liệu an vui, an vui về thái độ, tinh thần...
(Xem: 8261)
Phật dạy thân người do tứ đại gồm bốn chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại hình thành; đất với gió lại không thuận với nhau, gió thổi mạnh thì đất rung rinh..
(Xem: 7900)
Phật dạy trong mỗi người chúng ta đều có phần tâm linh sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết không lầm lẫn, sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó;
(Xem: 8397)
Thực tại nền tảng của thế giới Hoa Nghiêm là Phật Tỳ-lô-giá-na (Vairocana). Đây là Pháp thân của Đức Phật Thích-ca và cũng là Pháp thân của tất cả chư Phật.
(Xem: 9920)
Dựa trên giả định các hoạt động của Tâm tạo ra những cấu trúc não bộ mới (Hebb 1949) cho biết ý tưởng, tình cảm có thể để lại dấu ấn
(Xem: 8952)
Là giai đoạn duy nhất trong kinh nghiệm cận tử liên quan đến việc nhận thức thế giới mang tính vật lý hơn là tính tâm linh...GIDEON LITCHFIELD
(Xem: 8743)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”
(Xem: 8011)
Nếu quý vị không có tuệ giác trong cung cách chính mình và mọi thứ thật sự là, quý vị không thể nhận ra và xa lánh những chướng ngại...
(Xem: 9903)
Tâm ta là vật quan trọng nhất. Mọi sự đến từ tâm, vì thế tất cả những gì không ai ưa thích mà giờ đây ta đối mặt cũng đến từ tâm.
(Xem: 9800)
Những giác quan của chúng ta góp phần cho sự si mê của chúng ta. Đối với những tính năng của chúng ta về thấy, nghe, ngửi, nếm, và cảm giác, những đối tượng dường như tồn tại trong tự bản chất của nó.
(Xem: 9321)
Chết là một bộ phận trong sự sống của chúng ta. Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, thân thể này trong một ý nghĩa nào đó là một kẻ thù.
(Xem: 10216)
Bất cứ ai quan tâm đến lịch sử Đức Phật đều muốn biết về bữa ăn cuối cùng của Ngài do ông Thuần Đà (Cunda) cúng dường,
(Xem: 14499)
Là vị Bồ Tát tiêu biểu cho Trí Tuệ, Bồ Tát Văn Thù thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen.
(Xem: 9076)
Đức Phật là một bậc đạo sư thực tiễn. Mục tiêu duy nhất của Ngài là giải thích tất cả chi tiết trong vấn đề của khổ là thực tế phổ biến của cuộc đời.
(Xem: 8582)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 9740)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”.
(Xem: 15688)
Ở đời tuổi tác là một nhân tố quan trọng tác thành nên vị trí của cá nhân trong cộng đồng. Trong đạo cũng vậy, những bậc truởng lão, thâm niên lại càng được kính nể và tôn trọng hơn.
(Xem: 8156)
Bảy yếu tố khiến Tăng đoàn hưng thịnh hay còn gọi là bảy pháp bất thối được đề cập trong bài kinh Đại bát Niết bàn, gồm: Có Tín tâm, có Tàm, có Quý, Đa văn, Tinh tấn, Chánh niệmTrí tuệ.
(Xem: 11090)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh.
(Xem: 11761)
Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý tríthiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm.
(Xem: 8838)
Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
(Xem: 9061)
Điều cần bảo vệ chính là cái tâm của người con Phật, biết kiên trì thực hành những lời Phật dạy để đem lại an lạc cho chính mình và những người chung quanh
(Xem: 11965)
Chữ “giác ngộ” trong Đạo Phật, tiếng Pali và Sanskrit đều là “Bodhi”. Tiếng Anh là “enlightenment” hay “awakening”
(Xem: 9398)
Chúng tôi đã thuyết giảng về những cảm xúc đau khổ và các tai hại mà chúng sẽ gây ra cho việc hành trì tu tập của chúng ta.
(Xem: 21713)
Chúng ta đã biết đời là vô thường đau khổ, nhưng chúng ta còn cố chấp cái ngã, cái ta, cố bám víu vào cái của ta, thì chúng ta không thể trừ bỏ được kiêu mạn,
(Xem: 15266)
Người Phật tử có trí và hiểu đạo chỉ quan tâm khiến cho mỗi đời sống là một bước tiến trên con đường tiến bộ tâm linh không ngừng, dẫn tới sự giải thoátgiác ngộ tối hậu...
(Xem: 8641)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộVãng sanh khác nhau thế nào?
(Xem: 9352)
Khi đã biết nghiệp báo nhân quả không thể tránh, khủng khiếp như thế, chúng ta phải cố gắng tránh làm ác từ ý nghĩ, lời nói đến việc làm
(Xem: 7796)
Khảo sát hiện tượng "hội nhập văn hóa" tại một trung tâm Phật giáovị trí quan trọng vào hàng nhất nhì ở thời Lý-Trần như chùa Quỳnh Lâm...
(Xem: 9364)
Ta-bà là chu kỳ của sự hiện hữu (sự sinh, sự sống và cái chết) chi phối bởi nghiệp (karma). Đấy là chiếc bánh xe của khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu
(Xem: 9424)
Chúng ta sợ đủ thứ: sợ chết, sợ khốn khổ, sợ bị chê bai chỉ trích, và trên tất cả, hình như chúng ta rất sợ sự thật.
(Xem: 10401)
Con người sanh ra trên cõi đời này đã mang theo nghiệp nhân của đời trước, lúc lớn lên lại gây tạo thêm nghiệp mới.
(Xem: 8846)
Tất cả việc làm của Phật giáo đều tập chú vào lợi ích cho chúng sanh. Chúng sanh là đối tượng duy nhất của Phật giáo.
(Xem: 14838)
Mặc dù các tôn giáo nhất là Phật giáo đều nhấn mạnh đến vấn đề Nhân Quả - Nghiệp báo, song Luật Nhân quả không phải là của riêng một tôn giáo nào, nó là một luật của tự nhiên
(Xem: 8018)
“Sống Tỉnh Giác” là sống tỉnh chứ không còn ngủ mê nữa. Đây là đi vào thực hành chứ không phải là học, hiểu hay lý luận suông.
(Xem: 8316)
Sau khi trở thành phật tử, có tam qui, ngũ giới rồi, người phật tử phải sống ra sao để an lạc hạnh phúc?
(Xem: 8404)
Tất cả chúng ta đều có duyên lớn được gặp Phật pháp, được học Phật, được có người chỉ đường, có bản đồ sẵn hết rồi, chỉ còn một việc là bước đi để trở về.
(Xem: 8814)
‘Tâm’ là chữ thường xuyên xuất hiện với người Phật tử mỗi khi nói đến tu tập . Thật vậy, nào là ‘Tu tâm’ , ‘một niệm ở tâm ta’ , nào là ‘giữ tâm ý trong sạch ’ , ‘
(Xem: 9115)
Chánh Giáo (Tam Bồ Đề_ Sambhodhi) cùng Giải Thoátmục đích chung của Phật và các đệ tử Thanh Văn...
(Xem: 8625)
Cầu xin mà có hiệu qủa, chẳng có ai không cầu, cứ ngồi đó mà cầu nguyện là tự có tất cả, chẳng phải làm việc vất vả, cần gì phải học hành cực nhọc....
(Xem: 8200)
Phật Giáo Ấn ĐộTây Tạng phân loại và hệ thống hóa toàn bộ giáo huấn của Đức Phật thành ba chu kỳ khác nhau gọi là "ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp"
(Xem: 7733)
Con Đường Của Bụt là chủ đề của khoá tu An Cư Kiết Đông năm 2008 - 2009. Đây là con đường Bụt đã đi, và chúng ta đang đi theo sự hướng dẫn của Ngài.
(Xem: 9904)
con người, chúng ta có khuynh hướng bám víu vào đời sống của chính mình. Nhà Phật gọi đó là chấp thủ.
(Xem: 7922)
Con người luôn sống trong sợ hãi từ hiện tại cho đến vị lai, là do chính mình gây tạo nên bằng những hành động, lời nóiý nghĩ bất thiện
(Xem: 7852)
Kinh điển thường ví giận dữ như một cơn điên. Người điên cuồng không kiềm chế được ý thức nên hành vi, cử chỉ, việc làm gây thương tổn bản thân và người khác.
(Xem: 6941)
Trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, tạo ác nghiệp nhất định chiêu quả khổ.
(Xem: 8749)
Sinh thuận, tử an là một phước báo lớn của con người. Một khi chưa biết nghiệp duyên của mình sẽ chết bình an hay bất an thì hãy cố gắng tu tập các thiện pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant