Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vài Nét Lịch Sử Phật Giáo Đại Thừa Tại Sri Lanka

12 Tháng Chín 201300:00(Xem: 16127)
Vài Nét Lịch Sử Phật Giáo Đại Thừa Tại Sri Lanka

VÀI NÉT LỊCH SỬ
PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA TẠI SRI LANKA


Thích Nguyên Lộc

tuong_bo-tat_quan_the_am_tai_kelaniya_srilankaPhật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này. Phật giáo hiện nay tại Sri Lanka là Phật giáo thuộc truyền thống Theravāda. Nhưng trong quá khứ, Phật giáo Đại thừa cũng đã tồn tại và ít nhiều ảnh hưởng trong đời sống tín ngưỡngtâm linh của người dân Sri Lanka gần 1.000 năm. (Hình bên: Tượng Bồ tát Quan Thế Âm tại Kelaniya, Srilanka)

Theo các biên niên sử Tích Lan, khoảng 200 năm sau Phật diệt độ, vua A-dục (Aśoka) gởi một đoàn truyền giáo do ngài Mahinda, con vua A-dục hướng dẫn, đến Sri Lanka. Đoàn truyền giáo được vua Devānaỵpiya-tissa và người dân Sri Lanka trân trọng đón tiếp. Sau đó, đức vua quy yphát nguyện hộ trì Tam bảo. Ông xây tu viện Mahāvihāra dâng cúng cho Trưởng lão Mahinda và đoàn truyền giáo. Từ đó, tu viện Mahāvihāra trở thành trung tâm hoằng pháp của Phật giáo. Và Phật giáo nhanh chóng trở thành quốc giáo tại Sri Lanka. Phật giáo lúc bấy giờ, theo góc nhìn lịch sử phân phái, là Phật giáo thuộc truyền thống Theravāda. Truyền thống này chọn ngôn ngữ Pāli là ngôn ngữ chính để tụng đọc và biên chép kinh điển. Đến cuối thế kỷ thứ I trước Tây lịch, Phật giáo Theravāda lại bị phân ra thành hai phái: Mahāvihāra (Đại tự viện) và Abhayagiri (Vô úy sơn). Và vào thế kỷ thứ IV TL, Từ bộ phái Vô úy sơn phân ra thêm một bộ phái. Người sáng lập của phái này ở tu viện Jetavana (Kỳ viên), nên phái này cũng gọi là phái Kỳ viên (Jetavana). Phái Vô úy sơn, sau này, trong quan điểm của những người theo Đại thừa tại Ấn Độ, được xem là trung tâm hoằng pháp của Đại thừa tại Sri Lanka. Và phái Kỳ viên ảnh hưởng tư tưởng Đại thừathừa nhận kinh điển Đại thừa.

Phật giáo Theravāda bị phân phái vào những năm cuối trước Tây lịch. Về nguyên nhân phân phái, vào năm 43 trước Tây lịch, kinh thành Anurādhapura của Sri Lanka bị những người Bà-la-môn giáo Tamil từ Ấn Độ tấn công và chiếm đóng. Khi kinh thành thất thủ, vua Vaṭṭagāmani Abhaya và một số hoàng thân được hộ tống trốn thoát khỏi kinh thành. Sau đó, họ được đưa đến và trú ẩn an toàn tại tu viện Hambugallaka do Trưởng lão Mahātissa trụ trì. Những người Tamil theo Bà-la-môn giáo cai trị Sri Lanka trong 14 năm. Suốt thời gian này, hàng chục nghìn Tăng NiPhật tử bị giết chết hoặc bị đói chết. Hàng nghìn tu sĩ đã vượt biển sang tị nạn tại Ấn Độ. Đến năm 29 TTL, nhận thấy thời cơ thuận lợi, vua Abhaya khởi binh tái chiếm kinh thành Anurādhapura. Cuộc chiến thắng lợi, vua Abhaya trở lại ngai vua. Để tri ân Trưởng lão Mahātissa, vua xây cúng Trưởng lão tinh xá Abhayagiri (Vô úy sơn). Trưởng lão Mahātissa chuyển đến sống tại Vô úy sơn (Abhayagiri) và được kính trọng đặc biệt của vua và triều thần. Khi chuyển đến tu viện Vô úy sơn, theo Nikāya-saṅgraha thuộc truyền thống Đại tự viện (Mahāvihāra), Trưởng lão Mahātissa quan hệ quá gần gũi với các gia đình thế tục. Do đó, chư Tăng Đại tự viện cho rằng trưởng lão Mahātissa đã vi phạm giới luật Tỳ-kheo về sở hữu tài sản và quan hệ gần gũi với những người thế tục. Họ yết-ma kết tội Trưởng lão Mahātissa. Tuy nhiên, nhiều Tỳ-kheo tại Đại tự viện phản đối phán quyết của đa số chúng Tỳ-kheo Tăng. Và những Tỳ-kheo này cũng bị cáo buộc là đồng tội với Trưởng lão Mahātissa. Để phản đối phán quyết của chư Tăng Đại tự viện, họ đã rời tu viện này và đến sống tại tu viện Vô úy sơn. Từ đó, họ không còn liên lạc với chư Tăng Đại tự viện(1).

Lúc đầu sự bất đồng giữa chư Tăng Đại tự viện (Mahāvihāra) và Vô úy sơn (Abhayagiri) chỉ là sự bất đồng về những sai phạm liên quan đến Trưởng lão Mahātissa. Nghĩa là lúc đầu chư Tăng ở hai tu viện chỉ là bất đồng về giới luật. Tuy nhiên, không lâu sau đó, Trưởng lão Mahātissa và chư Tăng tại Vô úy sơn chấp nhận giáo thuyết của những tu sĩ thuộc bộ phái Vajjiputtaka đến từ Ấn Độ, bộ phái này, theo các Trưởng lão thuộc truyền thống Theravāda, có nhiều quan điểm sai trái với tinh thần lời Phật dạy(2). Những sự bất đồng về giáo thuyết đã dẫn đến một cuộc tranh luận giữa phái Đại tự viện và Vô úy sơn vào những năm cuối trước Tây lịch. Kết thúc cuộc tranh luận, chư Tăng Vô úy sơn, thay vì biên chép kinh điển bằng tiếng Pāli như chư Tăng Đại tự viện, họ đã biên chép kinh điển và giáo thuyết của họ bằng tiếng Sanskrit(3). Đến thế kỷ thứ III TL, sự bất đồng giữa Đại tự viện và Vô úy sơn càng thêm sâu nặng khi chư Tăng Vô úy sơn thừa nhận kinh điển của Đại thừa.

Nửa cuối thế kỷ thứ III Tây lịch, những nhà truyền giáo Vaitulyavāda (Pāli: Vetullavāda) từ Ấn Độ đã đến Sri Lanka. Theo ngài Phật Âm (Buddhaghosa), các nhà truyền giáo này cũng được gọi là Mahāsuññavāda, tức là những người theo trường phái tánh Không. Có thể họ là những người thuộc trường phái Trung quán của ngài Long Thọ. Những nhà truyền giáo này mang theo một số kinh điển viết bằng tiếng Sanskrit. Kinh điển này được gọi là kinh Vaitulya. Theo ngài Vô Trước (Asanga) trong Abhidharma-Samuccaya, ba thuật từ Vaitulya, VaipulyaVaidalya là đồng nghĩa. Và cũng theo ngài Vô Trước, kinh Vaipulya được xếp vào Bồ-tát tạng(4). Kinh Vaipulya cũng được gọi là kinh Phương đẳng Đại thừa. Như vậy, theo Giáo sư Kern và Paranavitana, những nhà truyền giáo Vaitulyavāda là những nhà truyền giáo Đại thừa(5). Kinh điển của họ được chư Tăng phái Vô úy sơn (Abhayagiri) thừa nhận như là kinh điển của Phật giáo. Tuy nhiên, chư Tăng Đại tự viện (Mahāvihāra) phản đối quyết liệt sự hiện diện của các nhà truyền giáo này cũng như kinh điển của họ. Trước sự phản đối này, theo Nikāya-saṅgraha, vua Vohārika-Tissa - người ủng hộ cả hai bộ phái, cử đại thần Kapila - người được cho là tinh thông cả luật phápPhật pháp, duyệt xét nội dung kinh điển mới để xem có phù hợp với lời Phật dạy hay không. Sau khi xét duyệt, đại thần Kapila kết luận rằng những kinh sách này là kinh sách của những “kẻ dị giáo”. Vì vậy, toàn bộ kinh điển Đại thừa bị thiêu đốt và các nhà truyền giáo Đại thừa bị trục xuất khỏi Sri Lanka.

Mặc dù vua Vohārika-Tissa ngăn cấm tu sĩ Đại thừa vào Sri Lanka, nhưng khoảng 50 sau, khi vua Vohārika-Tissa băng hà, vua Goṭhābahya (309-322) lên ngai, Phật giáo Đại thừa lại xuất hiện trở lại tại Sri Lanka. Lần này, Tăng sĩ thuộc phái Vô úy sơn (Abhayagiri) lại thừa nhận kinh điển Đại thừakinh điển của Phật giáo. Tuy nhiên, Trưởng lão Ussiliya-tissa thuộc Vô úy sơn không chấp nhận kinh điển Đại thừa. Nên Trưởng lão Ussiliya-tissa cùng 300 Tỳ-kheo, những thầy nghe theo lời khuyên của ngài, rời khỏi tu viện Vô úy sơn đến sống tại tu viện Dakkināgiri. Sau này, chư Tăng tu viện Dakkināgiri thành lập một phái mới, do Tỳ-kheo Sāgala lãnh đạo, gọi là phái Sāgaliya. Sự thừa nhận kinh điển Đại thừa dẫn đến sự chia rẽ Tăng đoàn Vô úy sơn đến tai vua Goṭhābahya (309-322). Theo Nikāya-saṅgraha, vua Goṭhābahya yêu cầu các Tăng sĩ trí thức đại diện năm tu viện lớn nhóm họp để thẩm xét kinh điển mới này. Sau khi thẩm xét, họ kết luận rằng những kinh điển mới này không phải là lời dạy của Đức Phật. Và kinh Vaipulya lại lần nữa bị thiêu đốt và sáu mươi Tỳ-kheo bị trục xuất khỏi Sri Lanka(6).

Nghe kinh điển Đại thừa bị thiêu đốt và nhiều Tỳ-kheo bị trục xuất, Trưởng lão Sanghamitra, lúc bấy giờ còn trẻ, vội đến Sri Lanka với ý định sẽ cố gắng giúp các Tỳ-kheo bị kết tội là “kẻ dị giáo” và chuyển hóa vua Goṭhābhaya theo Đại thừa. Theo Đại sử (Mahāvaṃsa), bằng những phép thuật của mình, Tỳ-kheo Sanghamitra đã chuyển hóa được vua Goṭhābhaya. Vua Goṭhābahya giao hai Hoàng tử Jeṭṭha-Tissa và Mahāsena cho ngài dạy bảo. Hoàng tử Mahāsena rất kính trọng Sanghamitra. Nhưng Thái tử Jettha-Tissa không ủng hộ tư tưởng Đại thừa của Sanghamitra(7). Sau khi vua Gothābhaya băng hà, Thái tử Jettha-Tissa (323-333) lên ngai vua, Sanghamitra đã phải rời khỏi Sri Lanka về lại Ấn Độ. Tuy nhiên, sau khi vua Jettha-Tissa qua đời, Hoàng tử Mahāsena kế vị, Trưởng lão Sanghamitra trở lại Sri Lanka. Suốt 27 năm trị vì, vua Mahāsena (334-362) hết lòng ủng hộ ngài Sanghamitra(8). Được sự ủng hộ của vua Mahāsena, Trưởng lão Sanghamitra muốn chuyển hóa chư Tăng thuộc truyền thống Đại tự viện (Mahāvihāra) theo truyền thống Đại thừa. Tuy nhiên, chư Tăng Đại tự viện phản đối quyết liệt sự “cải hóa” này. Để tạo áp lực lên chư Tăng Đại tự viện, vua Mahāsena ban hành sắc lệnh cấm người dân kinh thành cúng dường phẩm thực cho chư Tăng Đại tự viện, ai cúng bị phạt 100 tiền đồng. Chư Tăng Đại tự viện quyết định, thà chết chứ không chấp nhận giáo thuyết “dị giáo.” Họ bỏ tu viện Đại tự viện đến lánh nạn tại Rohana và Malaya. Trong chín năm, tu viện Đại tự viện (Mahāvihāra) bị bỏ hoang, một phần bị tháo gỡ để lấy vật liệu tu sửa tu viện Vô úy sơn (Abhayagiri) nơi ngài Sanghamitra đang hành đạo(9). Các biên niên sử Tích Lan không nói đến số người thiệt mạng vì không theo Đại thừa.

Hành động ủng hộ Trưởng lão Sanghamitra của vua Mahāsena, theo các biên niên sử Tích Lan, gặp phải sự phản đối dữ dội từ dân chúng và quần thần. Trong số họ, có tướng Meghavanna-Abhaya. Tướng Abhaya, cũng là bạn thân của vua Mahāsena, tuyên bố ly khai và khởi binh chống lại vua Mahāsena. Nhận thấy việc làm sai trái của mình, vua Mahāsena chấp nhận hòa giải với tướng Abhaya và chấm dứt những hành động kỳ thị giáo phái. Tướng Meghavanna-Abhaya cho người tu sửa lại Đại tự viện (Mahāvihāva) và mời chư Tăng trở về Đại tự viện. Tuy nhiên, có một vụ việc không hay xảy ra sau đó, nhiều Phật tử cực đoan giận dữ muốn giết Trưởng lão Sanghamitra. Trong số đó có một vương phi, người được vua yêu mến. Bà đã thuê người giết chết Trưởng lão Sanghamitra và đại thần Soṇa, người hết lòng ủng hộ Sanghamitra(10).

Vua Mahāsena không còn bạc đãi chư Tăng Đại tự viện (Mahāvihāva), nhưng ông vẫn không ủng hộ phái Đại tự viện. Do vậy ông xây dựng tinh xá Kỳ viên (Jetavana) bên cạnh Đại tự viện để cúng dường Trưởng lão Tissa thuộc phái Sāgaliya của tu viện Dakkināgiri, một phái tách ra từ phái Vô úy sơn. Theo chư Tăng Đại tự viện, Trưởng lão Tissa là một Tỳ-kheo phạm trọng giới(11). Lúc đầu, Trưởng lão Tissa và chư Tăng Kỳ viên giữ thái độtư tưởng trung lập. Họ không chống Đại tự viện cũng không ủng hộ Vô úy sơn. Nhưng về sau, họ thừa nhậnthực hành theo tư tưởngkinh điển Đại thừa(12). Gần đây, người ta đã tìm thấy những mảnh vụn bằng vàng khắc kinh Bát-nhã của Đại thừa trên một bảo tháp của tu viện Kỳ viên(13). Phái Kỳ viên sau này cũng là một trong ba bộ pháiảnh hưởngtồn tại cho đến thế kỷ thứ XII.

Tuy có những hành động kỳ thị giáo phái, nhưng vua Mahāsena được xem là một vị vua hùng dũng và có nhiều đóng góp cho đất nước Sri Lanka. Danh tiếng của ông cũng được biết đến tại Ấn Độ vào thời điểm Phật giáo Đại thừa đang hưng thịnh tại Ấn Độ. Theo ngài W. Raluha, Tăng sĩ và Phật tử Ấn Độ biết đến vua Mahāsena, có lẽ vì ông là người ủng hộ Đại thừa. Và đối với Tăng sĩ và Phật tửẤn Độ, tu viện Vô úy sơn (Abhayagiri) trong giai đoạn trị vì của vua Mahāsena, được xem nhưtrung tâm hoằng pháp của Phật giáo Đại thừa tại Sri Lanka(14). Cũng chính vì vậy, xá-lợi Răng Phật, theo ngài W. Raluha, được những người theo Đại thừaẤn Độ, gởi đến hiến tặng cho vua Mahāsena và chư Tăng Vô úy sơn. Nhưng ngọc xá-lợi Phật chưa kịp cung tống đến Sri Lanka thì vua Mahāsena đã băng hà. Một pho tượng Bồ-tát bằng ngà voi được Hoàng tử Jettha-Tissa, con vua Mahāsena tôn tạo. Điều này cho thấy, Đại thừa đã có ảnh hưởng tại Sri Lanka trong giai đoạn trì vị của vua Mahāsena(15).

Vua Mahāsena qua đời, Thái tử Sirimeghavaṇṇa (362-) kế thừa ngai vị của vua cha. Ông chính thức ngỏ lời xin lỗi chư Tăng Đại tự viện (Mahāvihāra) và những người ủng hộ chư Tăng phái này về những việc mà phụ thân ông đã làm đối với chư Tăng Đại tự viện. Vua Sirimeghavaṇṇa tôn tạo thánh tượng Trưởng lão Mahinda và tổ chức lễ hội kỷ niệm ngày Trưởng lão Mahinda truyền Phật giáo đến Sri Lanka. Ông mời đại diện chư Tăng của tất cả các bộ phái Phật giáo tham dự Đại lễ. Vào niên đại Sirimeghavaṇṇa thứ chín, ngọc xá-lợi Răng Phật được cung tống đến Sri Lanka từ Kalinga, Ấn Độ. Ngọc xá-lợi Phật được tôn trí trong một bảo điện tại kinh thành và được trưng bày mỗi năm một lần tại tu viện Vô úy sơn để quần chúng Phật tử chiêm ngưỡng.

Ngài W. Rahula lưu ý rằng xá-lợi Răng Phật, sau này trở thành bảo vật hộ quốc của Sri Lanka, được hiến cúng cho chư Tăng Vô úy sơn, không phải cho chư Tăng Đại tự viện. Nên theo ngài, hoàng tử và công chúa, người cung thỉnh ngọc xá-lợi Phật đến Sri Lanka, là những người theo Phật giáo Đại thừa và có liên hệ với Vô úy sơn(16). Ngài Pháp Hiển, nhà chiêm bái đầu tiên của Trung Quốc đến Ấn Độ và Sri Lanka, đã viếng thăm Sri Lanka vào đầu thế kỷ thứ V trong giai đoạn trị vì của vua Buddhadāsa. Ngài đã viếng thăm và lưu lại một thời giantu viện Vô úy sơn. Ngài Pháp Hiển ghi lại, lúc bấy giờ, tu viện Vô úy sơn có 5.000 Tỳ-kheo. Trong khi, tu viện Đại tự viện chỉ có 3.000 Tỳ-kheo(17).Đến năm Silākāla thứ 12, một thương gia Ấn Độ từ Varanasi mang theo kinh Dharmadhātu (kinh Pháp giới), một quyển kinh được cho là của Đại thừa đến Sri Lanka. Vua Silākāla (524-537), theo ngài W. Rahula, có lẽ đã có tiếp xúc với Phật giáo Đại thừa trong thời gian ông lánh nạn tại Ấn Độ. Nên vua Silākāla rất tôn kính kinh Pháp giới của Đại thừa. Ông tôn trí kinh này trong một bảo điện gần hoàng cung và mỗi năm một lần kinh này được trưng bày tại tu viện Kỳ viên để quần chúng Phật tử chiêm ngưỡnglễ bái. Chư Tăng Đại tự viện và nhiều người dân không thừa nhậntôn kính kinh này(18). Tuy nhiên, Tăng sĩ Đại thừa và Tăng sĩ thừa nhận kinh điển Đại thừa vẫn nhiều hơn Tăng sĩ thuộc truyền thống Đại tự viện.

Ba mươi năm sau, trong giai đoạn trị vì của vua Aggobodhi I (568-601) có một sự thay đổi đáng kể giữa các bộ phái Phật giáo khi Trưởng lão Jotipāla, một tu sĩ thuộc truyền thống Theravāda Ấn Độ đến Sri Lanka. Để bảo vệ luận thuyết của truyền thống Theravāda và phủ nhận giá trị của kinh điển Đại thừa, Trưởng lão Jotipāla đã tham gia những cuộc tranh biện được tổ chức nơi công cộng với sự tham dự của hàng nghìn Tăng sĩ các bộ pháitrí thức xã hội. Theo Nikāya-sagraha, trong những lần tranh luận giữa ngài và các nhà Đại thừa, Jotipāla đã đánh bại tất cả luận thuyết của các nhà Đại thừa Sri Lanka. Và từ đó, cũng theo Nikāya-sagraha, phái Vô úy sơnKỳ viên bị giải tán và một phần trở thành chi phái của Đại tự viện(19).

Trưởng lão Jotipāla hoàn toàn có thể thắng tuyệt đối trong những lần tranh biện với các nhà Đại thừa Sri Lanka. Bởi vì, theo ngài W. Rahula, Trưởng lão Jotipāla đến từ Ấn Độ, đất nước thường xuyên tổ chức những cuộc tranh biện về triết họctôn giáo ở nơi công cộng và là tu sĩ Phật giáo, ít nhiều ngài phải ảnh hưởng phương pháp tranh biện của các nhà logic học Phật giáo như Trần NaPháp Xứng. Trong khi, các Tăng sĩ Sri Lanka ít có cơ hội tiếp xúc với những phương pháp tranh biện này từ Ấn Độ(20). Sau kết quả tranh biện, vua Aggabodhi I ủng hộ Trưởng lão Jotipāla và chư Tăng Đại tự viện. Tuy nhiên, Hoàng tử Dathāpabhati, người giữ thái độ im lặng về những cuộc tranh biện giữa Trưởng lão Jotipāla và các nhà Đại thừa, đã lên tiếng ủng hộ các nhà Đại thừa(21). Điều này cho thấy không có sự bắt buộc theo hay không theo phái Đại tự viện. Vì vậy, có thể có Tăng sĩ của hai bộ phái Vô úy sơnKỳ viên chuyển theo Đại tự viện. Nhưng khó có thể, tất cả Tăng sĩ của hai bộ phái, đặc biệt là phái Vô úy sơn, đã có ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội và xuyên suốt mấy trăm năm, dù bị áp lực từ chính quyền hay dân chúng, vẫn kiên quyết thừa nhận kinh điển Đại thừa, mà dễ dàng bị giải tán, rồi hủy bỏ kinh điển Đại thừa và theo Đại tự viện. Hai phái Vô úy sơnKỳ viên không hoàn toàn bị giải tán hay chuyển sang Đại tự viện nên sau đó, vua Aggobodhi II (601-612) và hoàng hậu lại ủng hộ Vô úy sơnKỳ viên(22).

Trong hơn 200 năm kế tiếp, không thấy các biên niên sử Tích Lan đề cập nhiều về những tranh luận giáo nghĩa hay giới luật giữa ba bộ phái. Thỉnh thoảng có vài lần “tịnh hóa Tăng-già”. Nhưng nhìn chung, sau những lần “tịnh hóa Tăng-già” này, cả ba bộ phái, Đại tự viện, Vô úy sơnKỳ viên vẫn cùng tồn tại. Và có nhiều chỉ dấu cho thấy không nhiều thì ít tư tưởngtín ngưỡng của chư Tăngtín đồ Đại tự viện đã chịu ảnh hưởng tư tưởngtín ngưỡng của Đại thừa, cụ thểĐại thừa của Vô úy sơn(23).

Đến khoảng giữa thế kỷ thứ IX, trong giai đoạn trị vì của vua Sena I (831-853), một số Tăng sĩ thuộc truyền thống Vajrayāna (Kim cang thừa hoặc Mật tông) đã đến Sri Lanka. Họ mang theo một số kinh điển Đại thừa, trong đó có kinh Đại bảo tích (Ratnakuta) và nhiều hình tượng Phật, Bồ-tát. Một số mảnh vụn bằng vàng viết kinh Bảo tích và một số hình tượng Phật, Bồ-tát đã được tìm thấy, có niên đại trong giai đoạn trị vì của vua Sena II (851-885). Những hình tượng này được tin là do vua Sena II (851-885) tôn tạo(24).

Ba bộ phái Phật giáo Đại tự viện, (Mahavihara), Vô úy sơn (Abhayagira) và Kỳ viên (Jetavana) cùng tồn tạithịnh suy tại Sri Lanka cho đến thế kỷ thứ XII. Đến thế kỷ thứ XII, vua Parakkama Bāhu I ủng hộ phái Đại tự viện tiến hành “tịnh hóa” Tăng đoàn(25). Sau lần “tịnh hóa” Tăng đoàn này, tu sĩ của hai bộ phái Vô úy sơnKỳ viên hoặc buộc hoàn tục hoặc trở thành tu sĩ của Đại tự viện. Từ đó, hai bộ phái kia không thể phục hoạt trở lại tại Sri Lanka. Hiện nay, Phật giáo Sri Lanka là Phật giáo thuộc truyền thống Mahāvihāra của Theravāda.

Bên cạnh Phật giáo Đại thừa có tính kinh viện được truyền đến và tồn tại, lúc thịnh lúc suy, gần 1.000 năm tại Sri Lanka, Phật giáo Đại thừa có tính tín ngưỡng cũng được truyền đến và ảnh hưởng sâu rộng, thậm chí cho đến ngày nay, trong đời sống tín ngưỡng của người dân Sri Lanka. Chúng tôi sẽ trình bày những ảnh hưởng của tín ngưỡng Đại thừa, đặc biệttín ngưỡng Bồ-tát Quan Thế Âm, trong đời sống tôn giáo của người dân Sri Lanka trong một bài riêng biệt.

Lịch sử truyền bá Phật giáo nói chung và các bộ phái Phật giáo nói riêng, lúc này lúc khác, có những lần va chạm, nhưng chủ yếu là va chạm trên ngôn từ. Sự va chạm là điều phải xảy ra trong quá trình vận động giữa khuynh hướng bảo thủ và cách tân(26).Lịch sử truyền bá và phát triển Phật giáo tại Sri Lanka cũng có những lần va chạm giữa bộ pháitư tưởng bảo thủbộ pháitư tưởng cách tân. Nhưng chính nhờ những lần va chạm này mà ít nhiều tư tưởng của các bộ phái Phật giáo đã ảnh hưởng qua lại. Và nhờ ảnh hưởng qua lại mà, ngày nay, Phật giáo Theravāda, tiêu biểu của truyền thống này là Phật giáo Sri Lanka và Phật giáo Đại thừa có nhiều điểm chung và Tăng sĩ của hai truyền thống xem nhau như huynh đệ trong ngôi nhà chung của Phật giáo.

 Chú thích

(1) W. Rahula, History of Buddhism in Ceylon, Dehiwala: the Buddhist Cultural Centre, 1993, tr.81-4.
(2) Như trên, tr.84-5.
(3) J. C. Holt & Sree Padma, “Buddhism in Andhra and Its influence on Buddhism in Sri Lanka”, Buddhism in the Krishna River Valley of Andhra, State University of New York Press, 2008, tr.115.
(4) W. Rahula, sđd., tr.87-9.
(5) Như trên, tr.89. Có xem thêm trong S. Paranavitana, “Civilisation of the Early Period: Religion and Art”, History of Ceylon, Colombo: Ceylon University Press, tập I, 1959, tr.249-50.
(6) Mahāvaṃsa, sđd., tr.654-5; E.W. Adikaram, Early History of Buddhism in Ceylon, Dehiwala: the Buddhist Cultural Centre, 1994, tr.90-1.
(7) Mahāvaṃsa, như trên, tr.656.
(8) W. Rahula, sđd., tr.93.
(9) Mahāvaṃsa, sđd., tr.658-9.
(10) Như trên, tr.660.
(11) Như trên, tr.660-1.
(12) G. Panabokke, History of Buddhist Sangha in India and Sri Lanka, Colombo: University of Kelaniya, 1993, tr.95.
(13) J. C. Holt & Sree Padma, sđd., tr. 116.
(14) W. Rahula, sđd., tr.96-7.
(15) Như trên, tr.114.
(16) Như trên, tr.97.
(17) Fa-Hein, A Record of Buddhistic Kingdoms, J. Legge (dịch.) New Delhi: Munshiram Monoharlal, 1991, tr.102, 107.
(18) W. Rahula. sđd., tr.102.
(19) Như trên, tr.103
(20) Như trên, tr.103.
(21) G. Panabokke, sđd., tr.95-6.
(22) W. Rahula, sđd., tr.103
(23) G. Panabokke, sđd., tr.96.
(24) W. Rahula, sđd., tr.109-10.
(25) Richard F. Gomrich, Theravāda Buddhism, London: Routledge, 2006, tr.157-8.
(26) Mỗi khuynh hướng bảo thủ hoặc cách tân có điều hay của nó. Khuynh hướng bảo thủ có khả năng duy trì được tính nguyên thủy của Phật giáo. Trong khi, khuynh hướng cách tân có khả năng điều chỉnh một số nội dung của Phật giáo cho phù hợp với bối cảnh xã hội mới. Hai khuynh hướng này bổ sung cho nhau. Nhờ bổ sung cho nhau mà Phật giáo đã tồn tại và phát triển đến ngày nay và trở thành là một tôn giáo lớn của nhân loại.

Thích Nguyên Lộc

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7989)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7702)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6908)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13794)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7502)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9283)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7827)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7739)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7307)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7703)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7438)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8620)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 11037)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15375)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19147)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14848)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8789)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8806)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14605)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15245)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8501)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 10955)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11299)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8693)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9046)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19711)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24617)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8776)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9116)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10770)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 9001)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7895)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8787)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8255)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7268)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 11068)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7358)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8246)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17595)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44172)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45456)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 45005)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10588)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8507)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7534)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7553)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7343)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12073)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 7904)
Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa?
(Xem: 8404)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9145)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 8073)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8870)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 7980)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8153)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8655)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16322)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
(Xem: 7123)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
(Xem: 6919)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
(Xem: 9611)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant