Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quỷ La Sát

29 Tháng Mười 201300:00(Xem: 11436)
Quỷ La Sát

quy_la_satBà La Sát, cụm từ từng để chỉ những phụ nữ tính khí dữ dằn phổ biến trong khẩu ngữ dân gian. Cũng phổ biến là một nhân vật trong Tây du ký: Thiết Phiến công chúa, vợ Ngưu Ma Vương. Đây là một La Sát nữ luôn mưu sự ăn thịt Đường Tăng. Những thông tin ít ỏi về La Sát như vậy khiến cách hiểu về La Sát rất phiến diện và hời hợt. Bài viết này nhằm cung cấp một số dữ liệu về tín niệm cũng như hình tượng vị La Sát này.

Tín niệm La Sát trong Hindu

La Sát là từ được phiên âm của Rakshasa/ Raksha (Sanskrit) là một sinh vật thần thoạihình dáng, tính cách của loài người hoặc quỷ thần bất thiện trong Hindu giáo và Phật giáo. Những Rakshasa là yêu tinh hay quỷ, cũng được gọi là kẻ ăn thịt người (Nri-chaksha, Kravyad). Rakshasa cái được gọi là Rakshasi, vị La Sát nữhình dáng người này là Manushya-Rakshasi. Trong thần thoại, Asura (Atula/ Phi thiên/ Bán thần) và Rakshasa thường được thay thế, hoán đổi cho nhau, và trong kinh văn Phật giáo, lắm khi đồng nhất La SátDạ Xoa.

Nguồn dữ liệu khác lại cho rằng những Rakshasa không hoàn toàn xấu/ác như nhau, nên có thể phân chia chúng thành ba loại: những sinh vật có hình dáng, kiểu cách giống như Yaksha (Dạ Xoa); kẻ khổng lồ luôn thù địch với các vị thần; và cuối cùng, trong cách hiểu thông thường, Rakshasa là loài ma quỷ yêu tinh thường lui tới các nghĩa địa, phá phách các cuộc tế lễ, quấy nhiễu những người mộ đạo, nhập vào các xác chết, nuốt sống con người và hãm hại nhân loại bằng đủ mọi cách(1).

Chủ tướng của loại Rakshasa cuối cùng này là Ravana, và theo một số nguồn tư liệu, Rakshasa cũng như Ravana thuộc dòng dõi nhà hiền triết Pulastya. Theo một số nguồn dữ liệu khác, Rakshasa hiện ra từ bàn chân thần Brahma. Vishnu Purana cũng cho rằng chúng là con cháu của KasyapaKhasa (con gái của Daksha) thông qua con trai của họ là những Raksha. Sử thi Ramayana kể rằng: Khi thần Brahma sáng tạo ra nước, thần đã tạo nên những sinh vật để canh giữ chúng, được gọi là Rakshasa (gốc từ raksh: canh gác/ bảo vệ) và Vishnu Purana đưa ra một nguồn gốc có phần tương tự. Dù có nguồn gốc thần thánhcông năng chính đáng, song Rakshasa trong các sáng tác văn học, trong các sử thi Ấn Độ là những loài/ chủng tộc thô lỗ, man rợ; chúng bị người Arya rất coi khinh.

Hình tướng Rakshasa được miêu tả rất đa dạng, thể hiện qua đoạn trích sau: Khi Hanuman hóa thành con mèo đi vào thành Lanka để do thám, Hanuman đã thấy “những Rakshasa đang ngủ trong những ngôi nhà có mọi hình thù và hình thái khác nhau. Một vài Rakshasa nhìn thật ghê tởm, trong khi một số khác lại rất xinh đẹp. Vài Rakshasa có tay dài và hình dáng kỳ dị: kẻ thì mập béo, người thì gầy còm; vài ba Rakshasa lùn tịt, còi cọc và một vài Rakshasa khác lại cao lớn quá mức. Có Rakshasa một mắt và một số khác chỉ có một tai. Kẻ có bụng bự, quái dị, gớm guốc, ngực treo dốc, răng dài lòi ra, bắp đùi cong khoằm; trong khi một số khác cực kỳ xinh đẹp và ăn vận hết sức lộng lẫy. Vài ba Rakshasa có hai chân, hoặc ba chân, hay bốn chân. Dăm ba Rakshasa có những đầu rắn, lừa, ngựa và voi” (Sử thi Ấn Độ Ramayana).

Rakshasa có nhiều tính ngữ để miêu tả đặc điểmhành vi: Anusaras, Asaras và Hanushas - “kẻ giết người hay kẻ xúc phạm/ làm tổn thương”; Ishti-pachas - “kẻ cắp đồ cúng tiến”; Sandhya-balas - “tráng kiện/ mạnh khỏe trong chạng vạng”; Kshapatas, Naktan-charas, Ratri-charas, và Samani-shadas - “kẻ đi trong đêm”; Nri-jagdhas hay Nri-chakshas - “kẻ ăn thịt người/ thú ăn thịt đồng loại”; Palalas, Paladas, Palan-kashas, Kravyads - “ăn thịt người”; Asra-pas, Asrik-pas, Kauna-pas, Kilala-pas, và Rakta-pas - “kẻ uống máu”; Dandasukas - “kẻ cắn/ ngoạm”; Praghasas - “háu ăn/ tham ăn”; Malina-mukhas - “mặt đen”... Các tính ngữ đó không chỉ dành riêng cho Rakshasa mà còn dùng chỉ các loài khác(2).

Rakshasa không thấy được đề cập trong thời kỳ Vệ Đà. Trong thời kỳ này chỉ có Asura (Atula/ phi thiên) và Deva (thiên/ thần) được đề cập đến. Một khái niệm được hình thành muộn hơn đã tái phát hiện đặt Asura vào trong nhóm những Rakshasa. Điều này được minh chứng trong thực tế là từ Rakshasa chỉ được sử dụng trong thời kỳ rất muộn sau này mà thôi. Chỉ có thể truy tìm được Asura trong thời Vệ Đà; ở thời đó, Asura và Deva được coi như ngang bằng nhau. Đây là hai lực lượng cùng nhau hợp tác trong việc khuấy Biển Sữa để tìm thuốc trường sinh.

Rakshasa hầu hết được miêu tả như là một quái nhân: xấu xí, dữ tợn, thù địch, chúng to lớn như những ngọn đồi, đen như nhọ nồi, với hai chiếc răng nanh thò ra, những móng tay sắc nhọn giống như vuốt chim và gầm gừ như thú vật. Chúng cũng được mô tả như là kẻ ăn thịt người luôn đói khát, có thể đánh hơi mùi thú vật, con người và thịt. Một vài Rakshasa tàn bạo, hung ác hơn được thể hiện với con mắt đỏ rực, tóc rực lửa, uống máu vốc bằng tay hay từ chiếc sọ người. Thông thường, trong các câu chuyện kể, Rakshasa có thể bay lượn, biến mất, tăng hay giảm kích cỡ. Chúng có hình dáng động vật, con người hay những vật khác. Năng lực biến hóa đó được gọi là Maya.

Trong thế giới của sử thi Ramayana và Mahabharata, Rakshasa là một loài siêu nhiên đông đúc có hình dáng, tính cách con người. Đó là những quỷ, thần Rakshasa và như là những chiến binh, chiến đấu bên cạnh quân lính của cả quỷ và thần. Chúng là những chiến binh hùng mạnh, là một phù thủy bậc thầy và biến hóa khôn lường. Như một kẻ biến hình, Rakshasa mang những hình thể khác nhau, không thể xác định được hình thể thực sự hay tự nhiên của chúng. Như những nhà ảo thuật, Rakshasa có năng lực hiện hình thực sự khi người ta tin vào chúng hay biến hình khi bị xua đuổi. Một vài Rakshasa được cho là những kẻ ăn thịt người; chúng hân hoan, vui sướng khi là kẻ tàn sát trên chiến trường. Đó là những Rakshasa xấu xa, tồi tệ nhất. Đôi khi, chúng phụng sự như là những chiến binh bề tôi cho các vị chủ tướng này hay chủ tướng khác.

Ngoài những chiến binh Rakshasa vô danh, thiên sử thi còn kể những câu chuyện về các Rakshasa xuất chúng, một vài Rakshasa là người hùng, nhưng phần lớn chúng là kẻ hung ác.

Trong Ramayana, cuộc chiến Lanka, cuộc chiến giữa quân Rakshasa (dưới sự thống lĩnh của Ravana) chống lại binh lính Vanara hay đội quân khỉ (thống lĩnh bởi Rama và Sugriva):

- Ravana là một Rakshasa 10 đầu, vua của loài Rakshasa và là kẻ thù sinh tử của Rama, người anh hùng của Ramayana. Ravana bắt cóc vợ hoàng tử Rama - nàng Sita, và nhanh chóng mang nàng về thành Lanka. Do đó, Rama cùng vua khỉ Sugriva đưa đội quân khỉ vây hãm thành Lanka, chiến đấu với Ravana, giải cứu nàng Sita.

- Vibhishana, người em trai của Ravana, là một Rakshasa từ tâm hiếm thấy. Vibhishana là một người đoan chínhchuyên cần trong việc tuân thủ các giáo luật, và ông không bao giờ chệch hướng khỏi con đường ngay thẳng, đạo đức và được soi sáng bởi trí tuệ siêu phàm. Vibhishana đã khuyên Ravana trả lại Sita cho Rama. Nhưng Ravana không nghe theo. Thế là Vibhishana đi theo Hoàng tử Rama để chống lại anh ruột của mình là Ravana. Khi Hoàng tử Rama chiến thắng Ravana, Vibhishana đã lên làm vua xứ Lanka.

- Kumbhakarna là một người anh em khác của Ravana. Một chiến binh đáng sợ và là chủ nhân nhiều pháp thuật. Kumbhakarna ngủ suốt trong phần lớn cuộc chiến Lanka (do lời thỉnh cầu từ thần Brahma về một giấc ngủ dài lâu), nhưng bị Ravana đánh thức để báo về hung tin đỉnh điểm của cuộc chiến. Dẫn đoàn quân rời khỏi kinh thành Lanka tiến đánh Hoàng tử Rama, Kumbhakarna ngay lập tức bị đội quân khỉ tấn công, nhưng điều này chỉ khiến hắn cười nhạo và trút toàn bộ sức mạnh dữ dội vào các quân khỉ. Khi vua khỉ Sugriva tiếp chiến, Kumbhakarna túm lấy Sugriva và kéo lê Sugriva trên chiến trường. Hoàng tử Rama và người em Lakshmana đã dùng những mũi tên bí mật Brahmastra (vũ khí của thần Brahma) để giết chết Kumbhakarna: Kumbhakarna rơi xuống như một cái cây lớn bị chẻ đôi do sét đánh.

Có rất nhiều Rakshasa khác xuất hiện trong Ramayana: Kabandha, Tataka, Surpanakha, Maricha, Subahu, Kha, Indrajit, Prahasta, Akshayakumara, và Atikaya. Tất cả đều là kẻ tài phép và dũng mãnh.

Trong Mahabharata, người anh hùng Bhima của Pandava là sự báo oán của những Rakshasa ngụ nơi rừng rậm. Chúng hay thết cơm, đãi rượu những khách du hành và hãm hại họ.

- Hidimba là một Rakshasa ăn thịt người, bị giết bởi Bhima. Là một kẻ ăn thịt người hung ác với răng dài, sắc nhọn và sức mạnh phi thường, khi Hidimba thấy những người Pandava ngủ trong rừng, hắn quyết định ăn thịt họ. Nhưng hắn đã mắc một sai lầm khi sai người em là Hidimbi đi thăm dò tình hình. Thiếu nữ Hidimbi đã phải lòng chàng Bhima đẹp trai, cô đã cảnh báo với những người Pandava về mối nguy hiểm đang rình rập họ. Tức điên lên, Hidimba đã tuyên bố sẽ giết cả những người Pandava và em gái của mình, nhưng hắn đã bị người anh hùng Bhima đánh bại và giết chết trong một cuộc chiến tay đôi.

Ghatotkacha là con trai của Bhima và Hidimbi. Ghatotkacha, sống với mẹ Hidimbi khi còn nhỏ. Lớn lên, Ghatotkacha có đặc điểm là một người trung thành và khiêm tốn. Ghatotkacha luôn dõi bước đi người cha Bhima. Bất cứ khi nào Bhima nghĩ về Ghatotkacha thì Ghatotkacha luôn xuất hiện. Ghatotkacha được Bhima gọi đến để chiến đấu bên cạnh Pandava trong cuộc chiến Kurukshetra. Ghatotkacha đã sử dụng những năng lực ma thuật của mình và giáng một vố mạnh vào quân đội Kaurava.

Khi đó, vị tướng lĩnh của Duryodhana là Kaurava đã khẩn khoản người chiến binh thần sầu Karna giết chết Ghatotkacha. Khi toàn bộ quân đội Kaurava tiến đến gần và không ngừng tấn công Ghatotkacha từ không trung, Karna đã sử dụng vũ khí thiêng Shakti - được thần Indra ban cho. Đó là loại vũ khí chỉ được dùng duy nhất một lần nên Karna đã giữ gìn nó để dùng trong trận chiến này.

Không thể từ chối Duryodhana, Karna đã sử dụng Shakti chống là Ghatotkacha và giết chết hắn. Và điều đó đã chuyển hướng cuộc chiến tranh. Sau cái chết của Ghatotkacha, vị quân sư Krishna của Pandava mỉm cười, cuộc chiến đã thắng lợi vẻ vang vì giờ đây Karna không còn vũ khí thần thánh để chống chọi Arjuna, chủ tướng của quân Pandava.

- Kamsa là người anh em của Devaki. Kamsa là một Rakshasa độc ác, tàn bạo, kẻ đã giết chết những đứa cháu, con của Devaki vì Kamsa nghĩ rằng hắn sẽ bị giết chết bởi một trong các đứa trẻ này. Vasudeva, chồng của Devaki đã che giấu một đứa con. Và đứa bé đó là Krishna.

- Bakasura là một Rakshasa ăn thịt người trú ngụ nơi rừng rậm. Bakasura gây nên khiếp sợ cho cộng đồng dân cư nơi đây bởi quy định bắt buộc họ phải lần lượt đều đặn dâng cúng thức ăn và hiến tế người. Không may cho Bakasura khi những người Pandava du hành đến vùng đất này, xây dựng nhà cửa, dinh thự và sống cùng với một người Bà-la-môn đến lượt phải dâng cúng thức ăn. Khi người Bà-la-môn và gia đình anh ta tranh cãi ai phải là người hy sinh, Bhima khỏe mạnh, lực lưỡng đã tình nguyện làm vật phẩm dâng cúng. Bhima mang vật phẩm dâng cúng đi vào rừng, song đã ăn hết sạch mọi thứ lễ vật trên đường đi để chọc tức Bakasura và đối mặt chiến đấu chống lại Bakasura dữ tợn. Để kết thúc, Bhima bẻ gãy lưng địch thủ khiến những người dân nơi đây vô cùng kinh ngạcsửng sốt. Những Rakshasa vùng đất này cũng kéo lại cầu xin Bhima dung tha. Bhima đồng ý với điều kiện chúng phải từ bỏ tục ăn thịt người. Những Rakshasa này đồng ý với lời đề nghị đó và sau đó chung sống hòa bình cùng con người (quyển I: Adi Parva, phần 159-166).

- Kirmira, người anh em của Bakasura, một kẻ ăn thịt người và là chủ nhân của các phép thuật biến hóa. Hắn ta thường đến khu rừng Kamyaka, thết cơm những vị khách du hành. Giống như người anh em, Kirmira cũng mắc sai lầm khi đánh nhau với người anh hùng Bhima của Pandava, người đã giết chết hắn bằng tay không (quyển III: Varna Parva, phần 11).

- Jatasura là một Rakshasa xảo quyệt, hắn ta cải trang thành người Bà-la-môn nhằm lấy cắp vũ khí của người Pandava và cướp đi người vợ Draupadi. Bhima đã ra tay và giết chết Jatasura trong một cuộc chiến đấu tay đôi (quyển III: Varna Parva, phần 156). Con trai của Jatasura là Alamvusha, kẻ đã chiến đấu bên cạnh những Kaurava tại Kurukshetra.

Nói chung, qua các trường hợp được trích dẫn trên, chúng ta thấy Rakshasa trong thế giới sử thi đa phần là ác; song ở đó cũng có những Rakshasa thiện lương, đứng trong hàng ngũ phe chính nghĩa. Tính chất hai mặt này cũng được duy trì trong kinh văn Phật giáo; song ở đây, đa phần các trường hợp là các Rakshasa hồi đầu hướng thiện sau khi được nghe Phật pháp.

Tín niệm La Sát trong Phật giáo

Trong ngữ cảnh văn hóa Hán, Raksasa/ Rakchasas được phiên âm là: La-sát-sa, La-xoa-sa, La-khất-sát-sa, A-lạc-sát-sa. Hán dịch: Khả úy (đáng ghê sợ), Tốc tật quỷ, Hộ giả. Raksasi/ Rakchasis được gọi là La-sát nữ, La-xoa tư, La Sát Tư.

Trong kinh văn Phật giáo thường gặp, La Sát là loài hung thần ác quỷ, loài này hình tướng và mặt mày rất ghê gớm, thích ăn thịt người. Nam La Sát có thân đen, tóc đỏ, mắt xanh; nữ La Sát giống như người phụ nữ xinh đẹp, đầy sức quyến rũ, chuyên ăn thịt uống máu loài người(3).

Bên cạnh đó, loài quỷ này còn có hình dáng, hoặc là đầu trâu tay người, hoặc có móng chân trâu, hoặc là đầu nai, đầu dê, đầu thỏ v.v... Lại có loại La Sátngục tốt ở trong địa ngục, coi việc trừng phạt các tội nhân(4).

Về thần lực, quỷ La Sát có sức thần thông, có thể bay nhanh ở trong hư không, hoặc đi nhanh trên mặt đất, bạo ác đáng sợ(5).

Cảnh giới của chúng ở giữa biển cả và cũng ở rải rác khắp nơi trên đất liền.

Về trú sở, La Sát quốc/Raksasi-dvipa là cõi nước của loài La Sát ăn thịt người. Phẩm Phổ môn, kinh Pháp hoa (đại 9, 56 hạ) ghi: “Nếu có chúng sanh (...) vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của người kia trôi lạc vào nước quỷ La Sát”. Điều này chỉ rằng cõi nước của La Sát ở trong biển cả.

Ngoài ra, theo Hữu bộ Tỳ-nại-da 47, điều Tăng-già-la Quốc trong Đại Đường Tây vực ký 11, nước La Sát nữ tức chỉ cho đảo Tích Lan (còn gọi là đảo Lăng-già/ Lanka). Sở dĩ nói Tích Lan là chỗ ở của La Sát, là gốc từ sự tích Hoàng tử La-ma (Phạn: Rama) vì cứu vợ là Tư-đa (Phạn: Sita) mà tấn công đảo Lăng-già, giết quỷ vương La Sát là La-phạt-nô (Phạn: Ravana). Sự tích này vốn là nội dung của sử thi Ramayana của Ấn Độ nói trên. Loài La Sát này được ghi trong: Phật bản hạnh tập kinh 49, Hữu bộ Tỳ-nại-da 47, Huệ lâm âm nghĩa 7 v.v... Lại nữa, trong kinh Lăng-già (Lankavatara) cũng nói rằng do vua Dạ Xoa thỉnh Phật thuyết pháp trên núi Lăng-già nên lấy tên núi này mà đặt tên cho kinh. Núi này ở biển Nam Hải, cao chót vót nhìn xuống biển cả, chung quanh không có lối vào. Người được thần thông mới vào được. Khi Như Lai thuyết kinh dưới núi, vua Dạ Xoa La Bà Na (Ravana-HTB) và Bồ-tát Ma Đế ngồi cung điện hoa đến thỉnh Như Lai vào núi thuyết pháp(6). Ở đây, chúa chằn Ravana/ La Bà Na hung ác, đại biểu cho phe phản diện trong sử thi Ramayana, đã biết dành sự tôn kính cho Đức Phậtưa thích thính pháp nghe kinh. Điều cần chú ý là trong các kinh văn khác nhau tuồng như không phân biệt rạch ròi giữa Dạ XoaLa Sát. Trong thực tế, ở các quốc gia chịu ảnh hưởng văn hóa-tôn giáo Ấn Độ, hầu như Rakshasa (và cả Asura) đều được đồng nhất với Yaksha/ Dạ Xoa - thường gọi tắt là “Yak”, loại sinh vật thần kỳ mà trong dân gian người Việt gọi chung là “Chằn” với nghĩa là loài xấu ác(7). Cách hiểu đó rõ ràng là có khác với tính chất trung tính về La Sát trong truyền thống văn hóa Hindu và trong kinh văn Phật giáo.

Trong Diệu pháp liên hoa kinh, phẩm Phổ môn, có nói rằng: Giả như trong cõi Tam thiên đại thiên này choán đầy bọn quỷ Dạ XoaLa Sát, có ai kêu tới Quan Thế Âm Bồ-tát, liền được tránh khỏi bọn quỷ ấy; bọn hung ác tàn bạo này chẳng thấy được mình. Thế nhưng, lại cũng có những quỷ La SátBồ-đề tâm: tuy mang lốt quỷ, chớ không còn có lòng quỷ, thường dốc lòng hộ pháp, chở che hộ trợ những bậc tu hành.

Hồi thời Đức Phật Thích Ca, tại xứ Nagarahara, có năm chúng La Sát nữ thường biến hóa ra loài rồng mà phá hại người. Dân chúng đến thỉnh cầu Phật hàng phục. Đức Phật giáo độ, làm cho bọn La Sát cái ấy quy y và trở nên hiền lành(8).

Trong hội Pháp hoa, có mấy La Sát nữ: Lam bà (Lambâ), Tỳ lam bà (Pralambâ), Khúc xỉ (Mâlâkutadanti), Hoa xỉ (Puchpadanti), Hắc xỉ (Matutatchandi), Đa Phát (Kicini), Vô yểm túc (Atchalâ), Trì anh lạc (Mâlâdhari), Cao đế (Kunti), Đoạt nhứt thiết chúng-sanh tinh khí (Sarvasattvândjôhâri), Ha lỵ đế (Hâriti) đến trước Phật, nguyện ủng hộ những vị trì kinh Diệu pháp liên hoa. Và các La Sát nữ đó lại truyền ra mấy câu thần chú. Hễ nhà trì kinh đọc mấy câu thần chú dưới đây, thì khỏi ai phá hại được, dầu là người, thần, yêu quỷ: 1/Y-đề-lý (Ydhêley), 2/Y-đề-dận (Ydhêley), 3/Y-đề-lý (Ydhêley), 4/A-đề-lý (Adhêley), 5/Y-đề-lý (Ydhêley), 6/Nê-lý (Niley), 7/Nê-lý (Niley), 8/Nê-lý (Niley), 9/ Nê-lý (Niley), 10/ Nê-lý (Niley), 11/Lầu-hê (Lauhê), 12/ Lầu-hê (Lauhê), 13/ Lầu-hê (Lauhê), 14/ Lầu-hê (Lauhê), 15/ Lầu-hê (Lauhê), 16/Đa-hê (Dhanê), 17/ Đa-hê (Dhanê), 18/ Đa-hê (Dhanê), 19/ Đa-hê (Dhanê), 20/ Đa-hê (Dhanê)(9).

Ngoài các loại La Sát kể trên, còn có loại La Sát là thần thủ hộ của Phật giáo, gọi là La Sát Thiên(10) (Phạn: Raksasa, Nairrti. Hán âm: Niết-lý-để, Niết-lý-đế, Nhi-lý-để).Vị trời ở góc Tây nam ngoại viện Kim Cang bộ thuộc Mạn-đồ-la Thai Tạng giớiKim Cang giới. Là một trong các vị trời trấn ở 8 phương, hoặc là 1 trong 12 vị trời. Theo Thập nhị thiên cúng nghi quỹ, thân của vị La Sát này mang giáp trụ, tay phải cầm đao, ngồi trên sư tử trắng. Ngoài ra, La Sát Thiên cai quản phương Tây nam, cho nên phương Tây nam còn gọi là phương Niết-lý-để (Nairiti).

Trong Mạn-đồ-la Thai Tạng giới, thân của La Sát Thiên có màu da người, ngồi trên tòa tròn, mặc áo giáp, mắt tỏ vẻ giận dữ, cánh tay trái thủ ấn La Sát Thiên(11): hướng ra phía ngoài, ngón tay cái ấn lên đầu ngón út và vô danh, ngón trỏ và ngón giữa dựng đứng biểu thị Đao Ấn. Tay phải cầm kiếm, đặt ở bên hông, mũi kiếm dựng đứng. Hai bên, mỗi bên có hai vị Đồng tử.

Bên trái vị La Sát Thiên, phía trước có vị đồng tử tay trái bưng bát, tay phải đặt phía trên bình bát; phía sau có vị đồng tử thân màu da người; ngồi xếp bằng, tay trái nắm lại, tay phải cầm gậy dựng đứng ở đầu gối bên trái. Bên phải vị La Sát Thiên, phía trước là Đồng nữ La Sát, tay nắm lại đặt ở thắt lưng; phía sau là Đồng nam La Sát, thân màu da người, tay phải cầm gậy, tay trái nắm lại đưa đến ngang tai.

Một trong La Sát hướng thiện nổi tiếng trong truyền thống Phật giáo, trở thành đối tượng tôn kính phổ biếnQuỷ Tử Mẫu.

Quỷ Tử Mẫu(12) hay Quỷ Tử Mẫu Thần gốc từ tiếng Phạn: Hariti, Hán âm: Ha-lợi-để, Ca-lợi-đế, Ha-lị-đế mẫu. Hán dịch: Ái tử mẫu, Thiên mẫu, Công đức thiên. Người ta gọi bà là Quỷ Tử Mẫu vì bà sanh ra 500 quỷ con. Quỷ Tử Mẫu là một La Sát nữ, vợ của Pandaka, được gọi Đại quỷ thần vương. Bà có 500 đứa con, bà thích ăn thịt con nít của người. Người ta đến thưa với Phật. Đức Thích Ca bèn chuyển thần lực, bày phương tiện mà giáo độ bà. Bà quy y Phật pháp, tu chứng quả La-hán. Bà có nguyện đi hộ trợ hàng phụ nữ trong cơn sanh sản, nên những kẻ tại gia thường hay trì niệm tên bà khi hữu sự. (kinh Phật thuyết Quỷ Tử Mẫu/ Đại chánh tạng, tập 21).

Tỳ-nại-da tạp sự, quyển 31 có kể chi tiết câu chuyện này như sau: Thưở xưa, tại thành Vương-xá, có một vị Độc Giác ra đời, mới thiết đại hội. Trong ngày đại hội, có 500 người nghe biết, cùng nhau tới dự. Đi dọc đường, họ gặp một người đàn bà chửa chăn bò, bưng thùng sữa. Họ rủ bà đi dự hội. Bà ấy đi theo. Tới nơi, thấy sự vui vẻ, bà ra múa giúp vui, không ngờ bị trụy thai. Thấy vậy, những người kia bỏ đi, để một mình bà chịu đau đớn. Bà liền tìm bán thùng sữa, mua được 500 trái am-ma-la. Ngay lúc đó, vị Độc Giác tới thăm hỏi, an ủi bà. Bà đảnh lễ, dâng trái am-ma-la cúng dường. Bà phát thệ nguyện: “Tôi nguyện sau đây sanh vào thành Vương-xá này, ăn thịt hết những đứa con của những kẻ ở đây”.

Do lời nguyện ấy, sau bà sinh ra làm con gái của quỷ Sa-la-dược-xoa trong thành Vương-xá, kết hôn với Bàn-xà-ca (Pandaka) Dược-xoa. Bà sanh được 500 con. Hàng ngày, bà rình bắt những con trai, con gái ở thành Vương-xá mà ăn thịt. Một hôm, Đức Phật dùng phương tiện giấu một đứa con của quỷ nữ ấy. Bà buồn rầu, đi tìm con. Biết con đang ở bên Phật, bà vào xin Phật. Đức Thế Tôn bảo: “Nhà ngươi có 500 đứa con, mất một đứa còn thương tiếc. Huống chi những người khác chỉ có một, hai đứa mà bị mất con, há chẳng đau xót sao?”.

Phật khuyên quỷ nữ bỏ việc sát sanh. Ngài truyền Ngũ giới cho bà. Bà thành Ưu-bà-di. Bà bạch rằng: “Từ nay tôi không ăn thịt trẻ con, thì phải làm sao?”. Phật dạy: “Nhà ngươi đừng lo. Từ nay trở đi, nơi nào có Thanh văn đệ tử của ta, mỗi khi ăn cơm, đều gọi vời đến tên mẹ con ngươi, chúng ngươi sẽ được no đủ. Nhưng đối với giáo pháp của ta, mẹ con ngươi phải hết lòng bảo hộ, ủng hộ già lam và các Tăng Ni”. Mẹ con bà Ha-lỵ-đế vui vẻ phụng hành.

Do đó, chương Thọ trai quỷ tắc, Nam Hải ký qui nội pháp truyện 1, các chùa ở Tây Vực luôn giữ tập tục cúng tế Quỷ Tử Mẫu ở trước cửa nhà hoặc bên cạnh nhà ăn, đắp hoặc cho vẽ hình người mẹ bế một đứa con thơ, bên dưới có 3 hoặc 5 đứa bé. Mỗi ngày ở trước hình họa này bày cơm ra cúng. Lại có tục nếu có bệnh tật hoặc không sinh con được, xin cơm cúng đó mà ăn thì được toại nguyện. Hình dáng Quỷ Tử Mẫu là hình thiên nữ tay bắt ấn kiết tường.

Như vậy, chúng ta thấy cùng một Quỷ Tử Mẫu thần nhưng có văn liệu gọi là La Sát, nguồn dữ liệu khác lại cho là Dạ Xoa. Trường hợp này tương tự với chằn Alavaka(13): nơi gọi là Dạ Xoa, nơi gọi là La Sát. Thực tế đó có lẽ bắt nguồn từ tính chất đại đồng tiểu dị của hai sinh vật thần quái này. Và trong xứ ta, Dạ XoaLa Sát một cách phổ biến chung nhất cũng được coi là chằn hay “chằn tinh” trong truyện cổ tích. Có điều thường nghe là “Bà chằn”, “Bà chằn lửa”, “hạn Bà chằn”... mà không nghe ai ai gọi “Ông chằn”. Điều này phải chăng xứ ta tiếp nhận các La Sát nữ từ kinh văn Phật giáo đậm hơn là các ông chằn La Sát dữ dằn trong các sử thi cổ đại Ấn Độ như các quốc gia chịu ảnh hưởng trực tiếp văn hóa Ấn Độ ở Đông Nam Á.

 Chú thích

(1)(2) Theo Classical dictionary of Hindu mythology and religion geography, history, and literature, John Dowson, M.R.A.S., Rupa. Co, 2004.

(3) (4) (5) (10) Theo Từ điển Phật học Huệ Quang, Thích Minh Cảnh chủ biên.

(6) Theo Kinh-lăng già tâm ấn, Thích Thanh Từ, Thành hội TP.HCM xb, 1993, tr.8-9.

(7) Trong truyện Dạ Thoa vương (còn gọi là Hồ Tôn truyện - dị bản Ramayana của người Việt, gốc từ Chiêm Thành/ Hồ Tôn) thì chúa chằn Ravana được gọi là “Dạ Thoa vương” (tức Dạ Xoa). Xem Vũ Quỳnh-Kiều Phú: Lĩnh Nam chích quái (thế kỷ XV), Đinh Gia Khánh chủ biên & Nguyễn Ngọc San biên khảo và giới thiệu, Nxb. Văn Học, 1990, tr.113.

(8) (9) (12) Theo Phật học từ điển, Đoàn Trung Còn, Nxb. Tổng hợp TP.HCM, 2011.

(11) Theo Toàn tập giải thích các thủ ấn Phật giáo, Nguyễn Tuệ Chân biên dịch, Nxb. Tôn Giáo, 2008.

(13) Theo Nguồn gốc và hình tướng quỷ Dạ Xoa, Huỳnh Thanh Bình, Giác Ngộ Nguyệt san, số 206, tháng 5-2013.

Huỳnh Thanh Bình

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5247)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5813)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7428)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6366)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5963)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4741)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5677)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5848)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6114)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6593)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5936)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7054)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6659)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4778)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4925)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7703)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9814)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7512)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5322)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6423)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5405)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5829)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6390)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5694)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6434)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7056)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6271)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10649)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6665)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6145)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6709)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6109)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6480)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5511)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8231)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5728)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7555)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6247)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9653)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4057)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6394)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4161)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4303)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4753)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5305)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5275)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5812)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6767)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5549)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4490)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5328)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 4985)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4356)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6867)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4601)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8403)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7210)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8363)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7491)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7564)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant