Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Các Trường Phật HọcNam Bộ Nửa Đầu Thế Kỷ 20

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 7539)
Các Trường Phật Học Ở Nam Bộ Nửa Đầu Thế Kỷ 20

CÁC TRƯỜNG PHẬT HỌCNAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ 20



Thích Minh Cảnh



Lâu nay nói đến các trường Phật họcNam Bộ, người ta thường nghĩ đến Phật học đường Nam Việt đặt tại chùa Ấn Quang quận 10, Sài Gòn chứ thật ra còn rất nhiều trường Phật học mở trước đó mà ít người biết đến.

 Đầu tiên phải kể đến trường Sông Tra, đặt tại chùa Linh Nguyên.

 Sông Tra ở đâu?

 Theo địa chí của tỉnh Long An thì sông Tra là một nhánh của sông Vàm Cỏ Đông chảy ngang quận lỵ Đức Hòa, thuộc tỉnh Long An hiện nay, còn chùa Linh Nguyên do tổ Minh Phương Chơn Hương làm trụ trì. Chùa thuộc thị trấn Đức Hòa nên hòa thượng lấy sông Tra đặt tên trường. Phải chăng ngài muốn cho pháp âm lưu bố cùng khắp như dòng sông mang nước đến mọi miền nó chảy đến.Đi kèm với lớp học chùa Linh Nguyên còn một lớp học song song ở chùa Long Thạnh (Bà Hom) do tổ Minh Hòa Hoan Hỷ trụ trì, đứng ra giảng dạy coi sóc.

 Nếu ở Linh Nguyên chuyên dạy kinh luận thì ở Long Thạnh chuyên dạy luật. Có thể nói Long Thạnh là chi nhánh của trường Sông Tra. Hai vị trên đều là đệ tử của Tổ Tiên Giác Hải Tịnh. Trường bắt đầu dạy từ năm 1900 đến 1915 mới ngưng nghỉ do hai vị trụ trì quá già yếu (Tổ Minh Hòa Hoan Hỷ tịch năm 1916 và Tổ Minh Phương Chơn Hương tịch năm 1919).

 Ban giáo thọ ngoài hai vị trụ trì hai chùa trên còn cung thỉnh hòa thượng Trừng Châu ở chùa Long Triều (chợ Đệm) và hòa thượng Hải Lương chùa Kim Cang (cầu Voi, Long An) giảng dạy.

 Học tăng của trường Sông Tra phần lớn là nội trú. Ta phải kể:

Như Nhãn Từ Phong

Như Trí Khánh Hòa

Đạt Thái Chánh Thành

Trừng Minh Huệ Mạng

Như Sơn Bửu Chung

Như Quới Pháp Ấn

Như Thông Đạt Thanh

Như Bằng Thanh An

 Đặc biệt chỉ có Như Bằng Thanh An (ở chùa Từ Ân) là học tăng ngoại trú. Sáng ra công phu xong khoảng 5 giờ phải lội bộ từ cầu Tre lên Linh Nguyên để kịp 8 giờ vào học. Chiều khoảng 4 giờ phải quay về chùa để kịp 7 giờ tối công phu thọ trì. Quãng đường từ chùa Từ Ân đến Linh Nguyên độ 20 km phải đi trong vòng 3 tiếng quả là phải có sức khỏe dồi dào với một nghị lực phi thường mới đến lui không mệt mỏi như vậy.

 Sau khi mãn khóa học ở trường Sông Tra các học tăng phân tán về chùa thầy tổ. Những người nổi tiếng phải kể đến:

 Như Nhãn Từ Phongpháp sư nổi tiếng cả Sài Gòn lục tỉnh, ngài để lại các tác phẩm: Phát bồ đề tâm văn diễn nghĩa, Quy nguyên trực chỉ diễn nghĩa, Tông cảnh yếu ngữ lục diễn nghĩa, v.v. (đều là tác phẩm diễn Nôm).

 Như Sơn Bửu Chung pháp sư nổi tiếng ở miền Tây, đã để lại các dịch phẩm: Nhập đạo yếu môn, Vạn pháp quy tâm lục, Phật học dị giải.

 Như Quới Pháp Ấn, đệ tử chùa Linh Nguyên, một học tăng trường Sông Tra, về sau lãnh chức trụ trì chùa Phước Tường (Thủ Đức), mở lớp học đào tạo các vị nổi tiếng sau này như: Bửu Ngọc (Phước Tường), Hồng Tín Huệ Thành (Long Thiền), Diệu Tịnh (Hải Ấn), Diệu Tánh Hồng Ân (Huê Lâm), Diệu Minh Hồng Huệ (Vĩnh Bửu), Diệu Tấn Hồng Lầu (Kim Sơn), v.v.

 Đạt Thái Chánh Thành (hòa thượng Vạn An) lấy nghĩa bằng chữ Nôm các bộ luật: Sa di luật giải, Qui Sơn cảnh sách, Tứ phần như thích, Di đà sớ sao, v.v.  Lối cắt nghĩa của hòa thượng vượt ngoài lối cắt nghĩa: chi chưng, bất chẳng, kỳ thửa, v.v. mà từ trước các Nho gia dùng để dạy học. Lối cắt nghĩa này, mở ra một lối mới, khiến cho người đọc dễ hiểu hơn, tiếp cận với lối nói thông thường của văn học. Ví dụ: “Nhân chi bách hạnh” cắt nghĩa là “trăm hạnh của con người” thay vì “người chưng trăm hạnh”; “kỳ nhân” cắt nghĩa là “người ấy” thay vì “thửa người” v.v.

 Ngộ Đạo Từ Vân (chùa Tân Long, Đồng Tháp) đã mở lớp dạy học, và khắc bản in các kinh luật: Sa di luật giải, Kinh Tam Bảo, Kinh Kim Cang, Thần chung tịnh độ kinh, Hứa sử truyện vãn, Chư sám quốc âm, Phục sơ giác bổn diễn ca tập, Tam quy ngũ giới thích nghĩa, Niệm Phật pháp môn công cứ, Lục tổ bảo đàn diễn nghĩa.

 Như Trí Khánh Hòa được coi là học sinh xuất sắc của trường Sông Tra thời đó, Ngài dự học cả Kinh và Luật. Năm 1905, Như Trí Khánh Hòa lúc đó 21 tuổi, trùng tuyên kinh Kim Cang ở Trường Hương chùa Long Huê, Gò Vấp.

 Sau khi trường Sông Tra bế giảng, do ảnh hưởng phong trào chấn hưng Phật giáo Trung Quốc, hòa thượng Khánh Hòa đứng lên vận động phong trào chấn hưng Phật giáo. Chư tôn hưởng ứng phần lớn là các học trò trường Sông Tra cả. Năm 1932, hòa thượng đã bán chánh điện chùa Tuyên Linh của mình đang trụ trì để xây Thích Học Đường ngay tại chùa Linh Sơn, trụ sở của Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học. Ông Trần Nguyên Chấn, lúc ấy giữ chức phó hội trưởng của Hội, mật báo với nhà cầm quyền Pháp là các ông thầy mở trường dạy chủ nghĩa cộng sản. "Nhà nước" ra lệnh cấm ngay. May mà quí hòa thượng không ai bị bắt giam.

 Thích Học Đường, cơ quan đào tạo tăng tài, xóa bỏ nạn thất học của tăng đồ, không thực hiện được ở thành phố. Các hòa thượng cố tìm một phương thức khác.

 Không lập trường được ở một điểm cố định, các hòa thượng lập trường với hình thức lưu động, lấy tên là Liên Đoàn Học Xã. Lớp học lần lượt được tổ chức ở 3 điểm. Mỗi chùa luân phiên đài thọ 3 tháng việc ăn ở cho giáo thọ và các tăng sinh. Đầu tiên là chùa Long Hòa của hòa thượng Huệ Quang ở Cầu Kè Trà Vinh, điểm kế tiếp là chùa Thiên Phước của hòa thượng Chánh Tâm ở Trà Ôn và điểm thứ ba là chùa Viên Giác của hòa thượng Tâm Quang ở Bến Tre. Khác với hai điểm trước, lớp học tổ chức được tốt đẹp đem lại sự hoan hỉ cho cả thầy dạy và người học. Nhưng ở điểm thứ ba, lớp học bị ông Trần Nguyên Chấn viết thư cho chủ tỉnh Bến Tre là Liên Đoàn nói rằng lớp học hoạt động không giấy phép, hòa thượng Khánh Hòa là chủ chốt. Lớp học khai giảng được 1 tuần, hòa thượng Khánh Hòa bị mời tới dinh tỉnh trưởng tra hỏi. Hòa thượng phải trình bày cặn kẽ cho chủ tỉnh biết mục đích dạy học và cắt nghĩa các kinh đang dạy là không liên quan đến chính trị. Cuối cùng quan chủ tỉnh xét thấy hợp lý hòa thượng mới được thả về bình yên.

 Sự kiện này gây xôn xao trong học chúng và giáo thọ. Thầy trò không còn tâm trí nào dạy và học nữa. Theo ý kiến của ban giáo thọ, hòa thượng Khánh Hòa đành giải tán. Tại sao học chúng tâm trí bất an? Trở lại những năm 30 của thế kỷ trước, các thanh niên mỗi người phải có một giấy thuế thân. Các thanh niên tăng hồi đó quá nghèo làm gì có tiền đóng thuế, vô hình trung là một phần tử trốn thuế đối với chính quyền sở tại. Có việc gì phải ra làng tổng, họ đã rét run rồi, huống chi việc này tới tai quan tỉnh trưởng. Vì vậy không thể giữ họ lại trong tâm trạng đầy ắp lo âu này. Ý thức được nỗi lo sợ của các tăng sinh thời ấy, hòa thượng Khánh Hòa cùng hòa thượng Huệ Quang cố vận động với các hòa thượng đồng chí cùng một số Phật tử trí thứchằng sản hằng tâm ở Trà Vinh thành lập một hội Phật học hợp pháp khác.

 Hội Lưỡng Xuyên Phật học được thành lập có giấy phép do Pierre André Michel Pagès, thống đốc Nam Kỳ, ký ngày 13/8/1934.

 Có Hội Lưỡng Xuyên hoạt động hợp pháp đỡ đầu, năm 1935 Thích Học Đường Lưỡng Xuyên bắt đầu hoạt động với ban điều hành:

 Hòa thượng Khánh Hòa làm đốc học sư (giám đốc)

 Hòa thượng Huệ Quang làm đốc giáo

 Hòa thượng Khánh Anh làm giáo thọ trưởng.

 Thỉnh thoảng có mời các vị Mật Thể, Như Ý, Trí Thuyên, Nhựt Liên từ Huế vào dạy.

 Khóa đầu tiên của trường gồm có 30 học viên, trong đó có các vị: Hành Trụ, Huyền Quang, Thiện Hòa, Thiện Hoa, v.v.

 Trường có gởi học tăng ra Huế học, như: Thiện Hòa, Thiện Hoa, Hiển Thụy, Hiển Không, Hiển Chơn, v.v.

 Năm 1945, trước biến chuyển thời cuộc, nhân tâm dao động, tài chánh eo hẹp, trường đành đóng cửa.

 Cũng trong năm 1945, Phật học đường Báo Quốc sau khi dời lên chùa Kim Sơn vẫn không ổn vì điều kiện kinh tế khó khăn, nên ban giám đốc quyết định giao cho các vị mãn khóa tốt nghiệp người Nam đưa trường về miền Nam tiếp tục dạy dỗ. Do thời cuộc không ổn định, sau khi đoàn về tạm trú tại chùa Vĩnh Tràng (Mỹ Tho), một số theo tiếng gọi Tổ quốc cởi áo ca sa mặc chiến bào, một số tìm đến trường Lưỡng Xuyên, một số theo thầy Thiện Hoa xuống chùa Phật Quang Trà Ôn.

 Trường Phật học Phật Quang Trà Ôn bắt đầu từ cuối năm 1945, quy tụ một số học tăng tại địa phương, một số khác từ Huế vào. Trường do hai vị Trí Tịnh và Thiện Hoa đảm trách việc giảng dạy. Giữa năm 1946 do thời cuộc bất ổn, thầy Trí Tịnh lên Sài Gòn lập Phật học đường Liên Hải tại chùa Vạn Phước ở Bình Trị Đông (bây giờ là quận Bình Tân).

 Trường Liên Hải gồm có 3 lớp:

 Mông đẳng: 21 vị

 Sơ đẳng 2: 18 vị

 Sơ đẳng 3: 7 vị

 Giáo thọ, ngoài thầy Trí Tịnh (lúc đó là thượng tọa) còn có thầy Quảng Minh phụ trách lớp Mông đẳng.

 Lớp Mông đẳng gồm có: Thiện Phước, Thiện Hậu, Thiện Chơn, Thiện Huê, Chơn Lễ, Minh Cảnh, Tắc Nghiệp, Định Trí, Tắc An, v.v.

 Lớp Sơ đẳng 2 gồm có: Tịnh Đức, Tắc Phước, Tắc Minh, Đạt Sanh và một số thầy từ Phật học đường Kim Sơn theo về.

 Lớp Sơ đẳng 3 gồm có: Bửu Huệ, Huệ Hưng, Trí Minh, Quảng Liên, Tâm Hòa, Phước Cần.

 Năm 1948, ở Huế mở lớp nâng cao, các thầy Quảng Minh, Trí Minh, Quảng Liên ra Huế học. Hai lớp Sơ đẳng 2 và 3 nhập làm một do thượng tọa Trí Tịnh giảng dạy.

 Năm 1949, thượng tọa Trí Tịnh do lao lực nhiều nên sinh bịnh, thầy Quảng Minh về thay thế.

 Trường Tăng Già. Trong khi thượng tọa Trí Tịnh lập Phật học đường Liên Hải, ngài Hành Trụ hợp cùng các thân hữu thành lập trường học lấy tên Tăng Già ở Vĩnh Hội gần hãng thuốc lá Bastos, dạy cả hai chúng tăng và ni, với sự phụ tá của thầy Huệ Phương, một cựu học tăng của trường Báo Quốc. Trường Tăng Già về sau số ni chúng càng đông. Năm 1947, ngài Hành Trụ thuê một miếng đất của người Chà ở giữa đồng cách chùa Tăng Già độ 800m lập nên chùa Giác Nguyên để cho các tăng sinh tu học.

 Trường hoạt động đến năm 1956, các học tăng sang dự thínhẤn Quang về nội điển, còn ngoại điển học ở trường tư thục bên ngoài.

Song song với Phật học đường Liên Hải và trường Tăng Già còn hai trường khác:

 1. Trường Mai Sơn cách trường Liên Hải độ 2 km về hướng đông do thầy Huyền Dung, một học tăng của Báo Quốc, vận động một số Phật tử Chợ Lớn thành lập đầu năm 1947.

 2. Trường Ứng Quang do thầy Trí Hữu, người Quảng Nam, mua một miếng đất nhỏ ở ngã ba Vườn Lài lập nên vào năm 1948.

 Cuối năm 1950, trường Liên Hải sáp nhập với trường Mai Sơn và Ứng Quang làm Phật học đường Nam Việt, cử hòa thượng Thiện Hòa làm giám đốc. Khi mới sáp nhập mượn chùa Sùng Đức làm trụ sở tạm. Sau đó dời về chùa Ứng Quang ở Vườn Lài và đổi tên thành chùa Ấn Quang. Ban giáo thọ Phật học đường Nam Việt gồm các vị: Thiện Hòa, Quảng Minh, Quảng Liên, Huyền Dung, Trí Minh, Nhật Liên, Trí Hữu phụ trách giảng dạy. Từ năm 1952, các vị Quảng Liên, Huyền Dung, Quảng Minh lần lượt xuất dương du học.

 Với đức độtài năng của mình, thầy Thiện Hòa sau khi nhận nhiệm vụ giám đốc Phật học đường Nam Việt, với chương trình hợp lý, ban giáo thọ nhiệt tâm năng động, học tăng các nơi quy tụ mỗi lúc một đông. Năm 1953 Thầy Thiện Hoa từ Cần Thơ về giữ chức đốc giáo, trường càng được củng cố vững vàng hơn nữa:

 Các học tăng từ Phật học đường Giác Nguyên sang: Trí Phước, Trí Lạc, Thiện Lực, Viên Hạnh, Huệ Bửu.

 Các vị ở Phan Rí vào: Đức Hạnh, Đức Thiện, Đức Bổn, Như Hương, Tâm Minh.

 Các vị ở Phan Rang: Huyền Vi, Huyền Thâm, Tịnh Hạnh, Nguyên Lai, Đổng Triệt, Đồng Tánh.

 Các vị ở Quảng Nam: Đồng Huy, Chơn Phát, Như Huệ, Thị Thành, Như Vạn.

 Các vị ở các tỉnh phía Bắc vào: Thanh Tuất, Minh Kha, Vĩnh Tuy, Chính Tiến, Quảng Long, Giác Hải, v.v.

 Các vị ở hai trường Liên Hải, Mai Sơn nhập lại: Thiện Phúc, Thiện Hậu, Thiện Đức, Hồng Cơ, Hồng Đạo, Từ Thông, Thiên Định, Nhựt Ân, Lãng Phổ, Huệ Văn, Hoằng Chiếu, Thiện Tân, Trí Không, Trí Châu, Thiện Bình, Minh Cảnh, Thiện Tánh, Nhựt Quang, Nhựt Thỉ, Nhựt Tân, Nhựt Thiện, Chơn Lễ, Thanh Phong…

 Hơn 80 người, chia làm 3 lớp, sống trong tinh thần kỷ luật an vui, dưới sự che chở của bóng mát ban điều hành

------------------

* Thư mục tham khảo

Khánh Anh, Khánh Anh văn sao, 3 tập, Gia Định, 1952.

Thích Thiện Hoa, 50 năm chấn hưng Phật giáo Việt Nam, tập 1, 1970.

Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận I II III, Nxb Văn Học, Hà Nội, 2000.

Trí Không, Tổ đình Ấn Quanglịch sử phát đạt của Phật giáo Việt Nam từ 1950 trở đi, tài liệu lưu hành nội bộ, 2009.

Tư liệu qua lời kể các vị tôn túc như: HT.Thích Huệ Xương, HT.Thích Thiện Thạnh.

Nghiên cứu thực địa: Chùa Giác Hải (Thành phố Hồ Chí Minh), chùa Thiền Lâm (Tây Ninh), chùa Kim Cang (Long An), chùa Tân Long (Đồng Tháp), v.v.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21880)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 7993)
Thiều Chửu và Đoàn Trung Còn đều không giải thích được lý do tại sao chữ VẠN quay theo chiều này thì cát tường, quay theo chiều ngược lại thì nguy hại... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 7682)
Một trong những nền tảng quan trọng của đạo đức Phật giáotuân theo tinh thần bất bạo động... Tác giả: Charles K. Fink; Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 8803)
Đức Phật đã thuyết giảng như thế nào về sự đau đớn? Ngài bảo rằng sự bất an của chúng ta gồm có hai thể dạng khác nhau... Ajahn Brahmavamso, Hoang Phong dịch
(Xem: 7092)
Không là một khái niệm xuất hiện khá sớm trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, trải dài đến Phật giáo Đại thừa... Thích Nữ Nhuận Bình
(Xem: 9310)
Tác phẩm “Tuệ Sanh Định” là một trong số ít tác phẩm được viết bởi Bậc Thầy Maha Boowa (Bhikkhu Ñanasampanno)... Nhất Như dịch Việt
(Xem: 8751)
Nguyên tác tiếng Anh của Darwinism, Buddhism and Christanity được đăng trong tạp chí The Maha Bodhi, Sri Lanka, Tập 82 Dec 1974 Thích Nữ Liên Hòa dịch
(Xem: 10217)
Trong Kinh Duy-Ma-Cật, khi Phật bảo Ngài Duy-Ma-Cật thị hiện cõi nước Diệu-Hỷ có Vô-Động Như-Lai, các Bồ-Tát, và đại chúng nước ấy cho đại chúng xem... Toàn Không
(Xem: 8179)
Chân Nguyên kết luận: “Đức Phật Thích Ca đã tự chính mình đem thánh hiệu mà dạy cho hai người già, điều đó không còn có thể nghi ngờ gì nữa”... Thích Phước An
(Xem: 9517)
Một sự kết hợp thú vị giữa đạo đức chính trực, sự phục tùng, lòng khoan dung, cầu nguyện, khả năng tự lực, tự thanh lọc và tình yêu... Mai Thục
(Xem: 6927)
Mũi tên biểu trưng cho một sự đau đớn trên thân xác, nhưng cũng có thể là nguyên nhân gây ra một sự hoảng sợ trong tâm thần... Hoang Phong
(Xem: 7976)
Yết-ma, được phiên âm từ karmam[1] của tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự tác pháp”, được định nghĩa: “Vạn sự do tư thành biện cố”... Thích Minh Cảnh
(Xem: 8348)
Quảng bản kinh được Pháp Nguyệt dịch năm 732, rồi đến Bát NhãLợi Ngôn tái dịch năm 790. Cho đến Thi Hộ đời nhà Tống dịch lần chót là có tất cả 7 bản... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 8629)
Bồ tát hành đạo bắt đầu từ giữa lòng xã hội nên sự tiếp cận với mọi thống khổ nhân sinh là lẽ tất nhiên... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 8388)
Thiền sư Vĩnh Bình Đạo Nguyên, hoặc Đạo Nguyên Hy Huyền (1200-1253), là vị tổ sáng lập ra dòng Tào ĐộngNhật Bản... Ngọc Bảo dịch
(Xem: 8495)
Một cách vắn tắt, đó là vị trí của nữ giới trong Phật Giáo. Người phụ nữ xứng đáng có một chỗ đứng danh dự ngang hàng với nam giới... Piyadassi Mahathera; Dịch giả: Phạm Kim Khánh
(Xem: 11238)
Người vợ cần quán chiếu tâm mình thật cẩn thận trong một thời gian và từ đó đi đến quyết định đúng cho cuộc đời của mình... Mithra Wettimuny; Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
(Xem: 8548)
Đức Thế Tôn là người đầu tiên đòi quyền lợi cho giới nữ, đưa vị trí giới nữ ngang bằng nam giới... Thích Hạnh Bình
(Xem: 10678)
Hội Phật giáo Trung Quốc ước tính rằng hiện có khoảng 180,000 tăng niTrung Quốc... Nguyên tác: Tịnh Nhân; Thích Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 9438)
Ngài đã gọi dứt khoát, rõ ràng “tự phá thai mình” là một tội, phải chịu quả báo hết sức nặng nề và kéo dài... Chân Minh
(Xem: 9221)
Làm thế nào để những cha mẹ Phật tử có thể dạy tốt lời dạy của Phật giáo cho con em của họ?... Helmuth Kalr; Thích Minh Diệu
(Xem: 9541)
Rồi lần lượt không bao lâu, khi Ðức Phật đúng 80 tuổi đời, 45 tuổi đạo, Ngài cũng giã từ Tứ chúng để an hưởng quả vị Vô Dư Niết-bàn... Thích Thiện Minh
(Xem: 10314)
Con người không bao giờ ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên để mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình... Tuệ Sỹ
(Xem: 16174)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19147)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 8662)
Long Thọ (Nagarjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán mà ngài còn được coi là vị Phật thứ hai sau đức Thế Tôn trong lịch sử phát triển Phật giáo.... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 8015)
Như thế giải thoát cho vô số vô biên chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào được giải thoát... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 24124)
Cúng dườngbố thí vốn cùng một nghĩa "cho". Cái gì của mình mà có thể đem ra "cho" người khác, thì gọi là "cho"... TT Thích Nhất Chân
(Xem: 9375)
Lịch Sử Văn Học Phật Giáo Tiếng Sanskrit (Literary History of Sanskrit Buddhism - Nguyên tác: J. K. Nariman; Thích Nhuận Châu dịch Việt
(Xem: 7631)
Yết-ma là phiên âm từ karman của tiếng Phạn. Hán dịch là «biện sự tác pháp», và thường được các luật sư Trung quốc giải thích rằng «Vạn sự do tư thành biện cố.»... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 10521)
Chúng ta có thể thấy được đức tính của những khóm tre cây trúc, của những dòng sông, của cây mai, của đất, của áng mây... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17675)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 6930)
Giáo dục Phật giáo – nền giáo dục minh triết, vốn ở cao, ở trên triết học... Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Xem: 8858)
Đọc công trình của Francois Jullien những độc giả "Tây giả" (Á và Âu) có thể thấy được rằng người bà con nghèo của triết học có những sở đắc... Nguyên Ngọc dịch
(Xem: 12341)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 7694)
Chúng ta thường nghĩ là mình đã hiểu nhưng thật ra có lẽ ta chưa hiểu rõ thế nào là quy y Tam Bảo... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 14585)
Tăng đoànhình ảnh của Đức Phật, mang trọng trách thừa Như Lai sứ, hành Như Lai sự... Thích Phước Sơn
(Xem: 8240)
Ðại Tạng Kinh là một công trình tập thành tâm huyết của bao nhiêu thế hệ Tổ Sư, cổ đức Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Ly... Liên Hương kính ghi
(Xem: 7773)
Trong Phật giáo đại thừa nói rất rõ: Phiền não tức bồ đề, Niết bànsinh tử. Niết bànsinh tử là một cặp bài trùng, không có cái này thì không có cái kia...
(Xem: 8840)
Có thể nói “tâm” là cơ sở và động lực giải nghiệp, giải hạn khổ ách đối với con người trong mọi không giannăng lực chuyển nghiệp.
(Xem: 14788)
Tổ tiên ta đã Phật hóa gia đình, giáo dục con cháu phải biết chia sẻ hạnh phúc, ban rải tình thương đến mọi người, mọi loài... TT Thích Lệ Trang
(Xem: 9250)
"Khi cúng dường tứ sự đến cho một vị tỳ-khưu, hai vị tỳ-khưu, cận sự nam nữ đừng nghĩ đến cá nhân vị ấy mà cứ khởi tâm cúng dường Tăng..." Tâm Tịnh
(Xem: 12310)
Từ Trạch Pháp này rất quen thuộc trong Phật Giáo, nhưng đã có mấy người Phật tử chịu tìm hiểu tận tường... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 8490)
Theo Phật giáo, con người sinh ra từ vô thủy (thỉ) đến giờ đã trải qua vô lượng đời, và sẽ còn tiếp nối vô số đời nữa ở tương lai cho đến vô chung... Toàn Không
(Xem: 14491)
Hoa dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền-Trang; Việt dịch: HT Thích Trí-Quang; Anh dịch: Buddhist Text Translation Society
(Xem: 12453)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 8391)
Chúng tôi xin bàn về một số điểm liên hệ, nhất là làm rõ về niên đại Hán dịch của tác phẩm, từ đó chúng tôi xin ghi nhận một số từ ngữ, thuật ngữ Phật học đã được Hán dịch vào thời ấy... Đào Nguyên
(Xem: 10124)
Dù tâm mộ đạo, nhưng Phật tử còn theo nghi lễ xa xưa và kinh điển cổ ngữ, nên việc tu tập không còn phù hợp với nhu cầu của thời đại mới... Johan Galtung, Đỗ Kim Thêm
(Xem: 7739)
Trong việc quảng bá sự hiểu biết, vai trò của người Thầy thật hết sức cần thiết, thế nhưng người Thầy thì cũng phải có đầy đủ khả năng... Hoang Phong
(Xem: 16010)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý. ... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8198)
Nói đến văn hóa tức là nói đến tổ chức đời sống của một dân tộc, trong đó bao gồm các mặt kinh tế, xã hội, luật lệ, văn chương, mỹ thuật, tôn giáo, v.v... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8258)
Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt... Lâm Như Tạng
(Xem: 7851)
Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 11157)
“Bản Giác : Tâm thể của chúng sinh tự tánh thanh tịnh, lìa mọi vọng tưởng, sáng tỏ vằng vặc, có đức giác tri. Đó chẳng phải do tu thành mà như thế, mà chính là tính đức tự nhiên bản hửu, nên gọi là Bản Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 9121)
Thượng tọa Thích Thuyền Ấn trình bày tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào ngày 9-4-1967. Sau đó, bài diễn thuyết này được in trong tập Diễn Đàn Vạn Hạnh, số 1, do Ban Tu thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành năm 1967.
(Xem: 9260)
Bản Chất Của Tâm Thức - Tác giả: His Holiness the Fourteenth Dalai Lama, Anh dịch: Alexander Berzin, Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 8388)
Niết bàn, nirvana (S), nibbana (P), trong Sanskrit và Pali có nghĩa bóng là, một "thể trạng dập tắt". Hình ảnh của một ngọn lửa đã bị dập tắt qua việc không còn nhiên liệu nữa... Tác giả Alexander Berzin; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 7543)
Long Thọ nói, giáo pháp của Chư Phật y trên hai chân lý, tương đối hay thế tục đế, và tuyệt đối hay thắng nghĩa đế. Những ai không phân biệt được hai chân lý này, không thể hiểu thấu giáo pháp thâm sâu... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 7988)
Kinh Hoa nghiêm, nói một cách đơn giản, là bộ kinh nghiên cứu về Pháp giới và cách phát khởi trí tuệ để thể nhập Pháp giới. Trong Pháp giớilý sự vô ngạisự sự vô ngại... Hồng Dương
(Xem: 8789)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant