Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bản Giác

23 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 11191)
Bản Giác


BẢN GIÁC


T/S Lâm Như Tạng


phat89BẢN GIÁC LÀ GÌ?

KHẢO SÁT VỀ Ý NGH ĨA CỦA BẢN GIÁC

Đây là danh từ Phật học nên không thể tìm thấy trong những từ điển thông thường thuộc các ngành khoa học tự nhiên hay

Cũng không thể tìm thấy trong các từ điển thuộc về khoa học xã hội, Kinh tế, văn học, triết học, tôn giáo học…

Trong tự điển tiếng Việt của Viện Khoa Học Xã Hội và Viện Ngôn Ngữ Học Việt Nam vẫn không tìm thấy từ nầy.

Lại càng không thể tìm thấy trong những từ điển Hán Việt thông thường.

Trong Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn có ghi: “Bổn Giác: Đức giác tri vốn sẳn. Tâm thể của chúng sanh tự tánh thanh tịnh, lìa khỏi hết thảy các tướng quấy, chiếu sáng khắp mọi lẽ, thiêng liêng đủ mọi bề , đó chẳng cần phải tu mới thành ra thế, mà là cái đức tiánh vốn sẳn có như vậy… Kêu là Bổn Giác tức là Pháp Thân của Như Lai vậy.”

Trong từ điển A Dictionary of Chinese Buddhist Terms của William Edward Soothill và Lewis Hodous biên soạn , Rev. Shih Sheng-kang, Prof. Lii Wu-jong và Prof. Tseng Lai-ting duyệt lại, có đoạn viết về Bản Giác như sau :

“Bản Giác (phiên âm tiếng Trung Quốc) Original Bodhi, i.e. “enlightenment” , awareness, knowledge, or wisdom, as contrasted with Thủy Giác initial knowledge, that is “enlightenment a priori is contrasted with enlightenment a posteriori”. Suzuki, Awakening of Faith, p.62. The reference is to universal mind (chúng sanh chi tâm thể), which is conceived as pure and intelligent, with thủy giác as active intelligence. .. It is considered as the Buddha-dharmakãya, or as it might perhaps be termed, the fundamental mind. Nevertheless in action from the first it was influenced by its antithesis (vô minh) ignorance, the opposite of awareness, or true knowledge (xem Khởi Tín Luận và kinh Nhơn Vương). There are two kinds of Bản Giác , one which is unconditioned, and never sullied by ignorance and delusion, the other which is conditioned and subject to ignorance. In original enlightenment is implied potential enlightenment in each being.

Chơn Như, i.e. bhũtatathatã, is the THỂ corpus, or embodiment; the Bản Giác is the Tướng or form primal intelligence; the former is Lí or fundamental truth ; the later is the Trí , i.e. the knowledge or wisdowm of it; together they, form the whole embodiment of Buddha-dharmakãya. 

 

A- Khảo sát một:

Trong Từ Điển Phật Học Hán Việt của Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, do Hòa Thượng Kim Cương Tử chủ biên, nhà xuấn bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1998, viết về Bản Giác như sau:

“Bản Giác : Tâm thể của chúng sinh tự tánh thanh tịnh, lìa mọi vọng tưởng, sáng tỏ vằng vặc, có đức giác tri. Đó chẳng phải do tu thành mà như thế, mà chính là tính đức tự nhiên bản hửu, nên gọi là Bản Giác. Đó tức là Pháp Thân của Như Lai. Bản tâm thể đó từ vô thủy tới nay bị che bởi vô minh phiền não, ẩn tàng cho tới ngày nay, một khi nhờ công tu trì thì mới tỏ rõ được tính đức đó. Đó gọi là Thủy Giác. Song Giác Ngộquan sát thì thấy Thủy Giác chẳng phải cái gì khác mà vốn là thể của Bản Giác. Cho nên Thủy Giác, Bản Giác đều cùng nhất trí. Ngoài Bản Giác không có Thủy Giác. Thủy Giác tức là cái đồng nhất với Bản Giác. Luận Khởi Tín: “Tâm thể lìa niệm, lìa niệm tướng hệt như hư không giới, không đâu không khắp, pháp giới nhất tướng tức là pháp thân bình đẳng của Như Lai. Căn cứ vào Pháp Thân nầy mà nói thì gọi đó là Bản Giác.”

Cũng trong tự điển nầy nêu ra một số tên gọi liên hệ với Bản Giác như sau:

I- Tùy Nhiểm Bản Giác: dựa vào lực nội huân của Chân Như và lực ngoại duyên của giáo pháp Như Lai mà như thực tu hành, phương tiện đầy đủ, nên phá vọng tâmhiển hiện pháp thân, khiến trí Bản Giác thuần tịnh, nhất trí với Bản Giác, mà vô lượng tướng công đức thường chẳng đoạn tuyệt, theo căn cứ của các tướng tự nhiên tương ứng, hiện ra mọi thứ lợi ích. Hai thứ nầy, thứ trước gọi là Trí Tịnh Tướng của Bản Giác, thứ sau gọi là Bất Tư Nghị Nghiệp Tướng của Bản Giác. Hai tướng nầy nếu lìa nhiễm duyên thì chẳng được thành. Tướng trước dựa vào nhiễm duyên của bản thân mà thành, tướng sau dựa vào Tha Nhiễm Duyên mà thành, nên gọi là Tùy Nhiễm Bản Giác.

II - Tính tịnh Bản Giác: Chân Như của Bản Giác xa lìa mọi nhiễm pháp, có đầy đủ mọi tính đức, hai loại thể tướng là nhân nội huân. Dụng đại là sự giúp đỡ ngoại duyên Đó là tính tịnh Bản Giác.”

III - Bản Giác Chân Như : “Căn cứ vào tướng mà nói thì gọi là Bản Giác. Căn cứ vào thể mà nói thì gọi là Chân Như. Hơn nữa Bản GiácTrí Năng Chứng, còn Chân Như lá Lí Sở Chứng. Hai thứ Lí và Trí nầy là toàn thể Pháp Thân Như Lai.”

IV- Bản Giác Hạ Chuyễn . “Thích Ma-ha-diễn luận có các nghĩa Bản Giác hạ chuyễn và Thủy Giác thượng chuyễn. Bản giác có hai thứ:

Tùy nhiễm Bản Giác và Tính Tịnh Bản Giác. Bản Giác hạ chuyễn là tướng tùy nhiểm Bản Giác, Bản Giác Tủy nhiễm tùy theo nhiễm duyên của chúng sanh , thuận theo tướng của chúng sanh hiện làm nhiều thứ lợi ích. Thủy Giác thượng chuyễn là dựa vào Bản Giác huân tập ở trong như thực tu hành, nẩy nở trí rất ráo.”

V- Bản Giác Nội Huân  “Chân như Bản Giác có hai tác dụng nội huânngoại duyên. Nội huânthể tướng của chân như huân tập từ vô thủy tới nay sẵn có pháp vô lậu ngấm ngầm huân tập vọng tâm của chúng sinh ở bên trong, có thể khiến cho chúng sinh chẳng biết hay chán nỗi khổ sinh tử, ưa cầu Niết Bàn, tự tin bản thânpháp chân như, phát tâm tu hành. Đó là tác dụng tự nhiên. Ngoại duyêndụng huân tập của chân như, từ Pháp thân mà hiện thành hai thân Báo Hóa , là ngoại duyên khiến chúng sinh được thấy Phật nghe Pháp, là tác dụng vô tác vậy. “

Luận Khởi Tín: “Chân Như huân tậphai nghĩa. Hai nghĩa đó là gì? Một là tự thể tướng huân tập, hai là dụng huân tập. Tự thể tướng huân tập có nghĩa là từ đời vô thủy tới nay đã sẵn có pháp vô lậu, có đủ bất tư nghị nghiệp (…) thường xuyên huân tập. Nhờ có lực huân tập nên có thể khiến cho chúng sinh chán nỗi khổ sinh tử, ưa cầu Niết Bàn, tự tin bản thânchân như pháp, phát tâm tu hành (…). Dụng huân tập tức là ngoại duyên lực của chúng sinh.” 

B- Khảo sát hai:

Theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang do Hòa Thượng Thích Minh Cảnh chủ biên viết về Bản Giác như sau:

“Bản Giác đối lại Thủy Giác, tánh giác sẵn có. Tức là bản thể thanh tịnh đầy đủ tướng bình đẳng, lúc nào cũng hàm chứa đức sáng suốt của đại trí huệ, xa lìa những tâm niệm sai biệt của thế tục

chúng sanh bất giác nên phải trải qua sự tu tập hiện đời.thứ lớp đoạn trừ các lậu hoặc mê lầm từ vô thủy đến nay, từ từ giác tri, khơi mở nguồn tâm sẳn có, gọi là Thủy Giác. Bản tánh của nguồn tâm ấy là giác thể xưa nay thanh tịnh, gọi là Bản Giác.

Luận Đại Thừa Khởi Tín của Hiển Giáo, Luận Thích Ma-ha Diễn của Mật Giáogiáo nghĩa của Tông Thiên Thai Nhật Bản đều có trình bày ý nghĩa về tư tưởng của Bản GiácThủy Giác, nhưng ý chính lại khác nhau, đại khái như sau:

 

I- Tư tưởng của luận Đại Thừa Khởi Tín:

Chủ trương vạn hửu đều quy về nhất tâm, và trong nhất tâm có lập hai môn:

1-Tâm Chân Như: là tâm luôn luôn tồn tại thanh tịnh, tuyệt đối không hai, vượt ngoài tướng sai biệt, vốn không có tên, gọi là Bản Giác hay Thủy Giác.

2-Tâm sanh diệt: là tâm bị vô minh từ vô thủy đến nay làm ô nhiễm nên sanh ra các thứ tướng sai biệt, cho nên luận Đại Thừa Khởi Tín cho rằng thức A-Lại-Ya có hai phần Bản GiácThủy Giác.

Chân như gặp duyên vô minh liền sanh khởi các hiện tượng mê vọng, bấy giờ Tâm hoàn toàn mờ mịt không tỉnh giác, gọi là Bất Giác. Nhưng giác thể của tâm chân như ấy không mảy may bị tổn hại, gọi là Bản Giác.

Tâm đã bị mê vọng làm nhiểm ô, nếu nương vào sức huân tập (tác dụng) bên trong của Bản Giác (Bản Giác nội huân) và sức huân tập bên ngoài (là duyên bên ngoài của giáo pháp) mà phát tâm tu hành thì dần dần sẽ làm cho tánh giác thức tỉnh; nhàm chán, xa lìa vô minh, ưa thích mong cầu bản chân, lần lần dứt hết vọng nhiễm của bất giác và hiệp làm một với Bản Giác để thành Đại Giác (Thủy Bản bất nhị) tức đồng với cảnh giới của chư Phật. Trí huệ có được của giai đoạn từ khi phát tâm tu hành cho đến Đại Giác gọi là Thủy Giác.

 

II- Đại Thừa Khởi Tín Luận Nghĩa Ký 3 của Pháp Tạng

Trong luận nầy trình bày rộng thêm cho rỏ, cuối cùng, luận nầy cho rằng: từ Bản Giác sanh ra bất giác, từ bất giác mà khởi thủy giác, lại nương nhờ thủy giác mà đoạn phá bất giác, như thế là trở về Bản Giác.

Thế nên biết: Thủy giác, Bản Giác dù có quan hệ trái nhau, nhưng cứu cánh của Thủy Giác thì đồng với Bản Giác.

Bản Giác thường đầy đủ đức tướng bình đẳng, sáng suốt của đại trí huệ, là một bản thể thanh tịnh, xa lìa những tâm niệm phân biệt của thế tục, tức là tánh giác ngộ vốn có từ xưa nay.

Nếu phối hợp các giai đoạn tu hành của Bồ Tát Đại Thừa thì có thể chia Thủy Giác ra làm bốn thứ bậc:

1- Bất Giác: những Bồ Tát ở giai vị thập tín (địa vị ngoại phàm), dù đã rỏ biết nhân quả của ác nghiệp sẽ chiêu cảm quả khổ và đã xa lìa ác nghiệp, nhưng chưa phát sanh trí đoạn hoặc.

2- Tương tợ giác: Hàng nhị thừa, Thanh Văn, Duyên Giác và các vị Bồ Tátđịa vị Tam Hiền (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng) dù đã xa lìa ngã chấp, rõ biết lý ngã không, nhưng vẫn chưa xã bỏ niệm phân biệt pháp chấp; đối với lý chân như, chỉ được pháp vị tương tợ phảng phất mà thôi.

3- Tùy phần giác: Bồ Tát từ sơ địa đến cửu địa đã xa lìa pháp chấp, rõ biết lý tất cả các pháp đều do tâm thức biến hiện, đối với lý chân như pháp thân có thể tùy theo cảnh địa tu chứng mà tiến lên và liền ngộ thêm một phần lý chân như.

4- Cứu Cánh Giác: Chỉ hàng Bố Tát Thập Địa đã hoàn thành nhân hạnh, vì tương ưng với nhất niệm huệ nên rõ biết được ngồn tâm và xa lìa niệm vi tế, thấy suốt tâm tánh, cho nên gọi là Cứu Cánh Giác. Do đây tiến tới Phật Quả, thành tựu Đại Giác Thủy Bản bất nhị, tuyệt đối bình đẳng.

Bốn thứ bậc đã nêu trên là 4 giai vị Thủy Giác hoặc 4 giai vị Phản Lưu (ngược dòng). Vì sự lưu chuyễn trong cõi mê không ra ngoài 4 tướng sanh, trụ, dị, diệt của tâm chúng sanh, cho nên theo thứ lớp ngược dòng hoàn diệt, rõ biết 4 tướng nầy thì vào 4 giai vị ấy. Nghĩa là Bất giác thì rõ biết tướng DIỆT của tâm chúng sanh. Tương Tợ Giác thì rõ biết tướng DỊ của tâm. Tùy Phần Giác thì rõ biết tướng TRỤ của tâm. Cứu Cánh Giác thì rõ biết tướng SANH của tâm.

Phản Lưu tức là ngược dòng sinh tử mà hướng trở về Giác Ngộ Bồ Đề .

Bởi vậy, Thủy Bản bất nhị tuyệt đối bình đẳnghoàn toàn vượt ngoài phạm vi mang tánh đối lập. Để thuyết minh về tướng của Bản Giác có thể dung hai nghĩa: Tùy Nhiễm và Tánh Tịnh. Nếu nói theo tác dụng của nó thì có thể dùng Tùy Nhiễm Bản Giác để giải thích. Nếu nói theo thể đức của nó thì dung Tánh Tịnh Bản Giác để giải thích:

 

III - Tướng của Bản Giác:

Trong phần trước (A- Khảo sát một) đã đề cập đến Tùy Nhiểm Bản Giác và Tính Tịnh Bản Gác nhưng trong phần nầy khảo sát tinh tế hơn nên soạn giả muốn đưa ra nhiều chi tiết hơn để so sánh nội dung của hai tướng trạng của Bản Giácmục đích là để độc giả có cái nhìn tinh tế hơn.

1- Tùy nhiễm: nhắm vào đối tượng là phiền não ô nhiễm để làm sáng tỏ tác dụng của Bản Giác mà chia làm hai:

a/ Trí tịnh tướng: tức nương theo Thủy Giác, dứt hết vọng nhiễm Bất Giác, trở về tướng Bản Giác xưa nay thanh tịnh.

b/ Bất tư nghì nghiệp tướng: dứt hết vọng nhiễm, thành tựu Đại Giác, hiện tánh đức của Bản Giác, từ đó tùy thuận căn khí của chúng sanh, tự nhiên tương ứng với chúng sanh, thường làm các việc lợi tha không bao giời ngừng dứt.

 

2- Tính tịnh: Thể tướng của Bản Giác, tánh của nó là xưa nay thanh tịnh, hiển hiện tác dụng vô hạn. Cho nên, nếu lấy tính chất của gương làm dụ thì có thể chia làm 4 loại để hiển bày 4 nghĩa chính của tánh tịnh bản giác.

Đó là:

a/ Gương như thật: không giữ lấy bất cứ vật gì ở bên ngoài. Tâm thể tánh tịnh Bản Giác đã xa lìa bất cứ tâm niệm nào, tự xa lìa hẳn tất cả các tướng cảnh giới tương ưng với tâm, rốt ráo thanh tịnh không nhơ bợn.

b/ Gương huân tập: Tánh của nó không ra, không vào, không mất, không hư. Tâm thể thường trụ, là tánh chân thật của tất cả pháp. Tự đầy đủ các công đức của tánh vô lậu. Vì nó cũng là NHÂN để có thể huân tập tất cả pháp nên gọi là GƯƠNG huân tập.

c/ Gương pháp xuất ly: Giống như lau quét bụi nhơ làm cho mặt gương sáng sạch, giác tánh từ trong phiền não chướng, sở tri chướng mà thoát ra, xa lìa tướng nhiểm tịnh, hòa hợp mà sạch trong thuần sáng.

d/ Gương duyên huân tập: Giống như mặt gương đã được lau sạch có ánh chiếu vạn tượng cho người sử dụng. Trí tánh Bản Giác khi đã thuần tịnh rồi có thể chiếu vào tâm của tất cả chúng sanhtùy niệm thị hiện, trở thành sức huân ngoại duyên của trí thủy giác mới phát khởi của chúng sanh siêng tu thiện căn.

Bốn nghĩa của tánh tịnh Bản Giác dùng gương để tỷ dụ vừa nói trên gọi tắt là TỨ CẢNH (bốn gương). Trong đó, ý chỉ của hai gương trước là chỉ rỏ BẢN GIÁC TẠI TRIỀN. Chữ triền nghĩa là phiền não buộc ràng. Tại triền nghĩa là NHƯ LAI TẠNG tự tánh thanh tịnh tâm bị che lấp trong sự buộc ràng của phiền não (Bản Giác dù bị phiền não buộc ràng, nhưng tự tánh nó trước sau thanh tịnh, không nhiễm).

Trong Luận Đại Thừa Khởi Tín, khi giải thích môn Tâm Chân Như, ngài Mã Minh đặc biệt đưa ra hai nghĩa: NHƯ THẬT KHÔNGNHƯ THẬT BẤT KHÔNG. Đồng với hai nghĩa nầy, Bản Giác Tại Triền cũng đủ hai nghĩa: KHÔNG (lìa tướng), và BẤT KGÔNG (đầy đủ các công đức). Ý chỉ của hai gương sau chỉ rỏ Bản Giác Xuất Triền, nghĩa là Bản Giác do xa lìa phiền não cấu nhiễm mà sạch trong thuần sáng, đồng nghĩa với sự biểu thị của Trí Tịnh Tướng và Bất Tư Nghì Nghiệp Tướng của Tùy Nhiễm Bản Giác.

Ngoài ra Bản Giác còn chia làm hai gương:

Nhân Huân (nội nhân) và Duyên Huân (ngoại duyên) để trở về trí thể của Bản Giác; tức là lấy tịnh huân của Bản Giác nội tại làm nhân (nhân huân), từ đó khởi ra Thủy Giác, đồng thời Bản Giác cũng trở thành sức huân ngoại duyên (Duyên Huân) để sinh khởi Thủy Giác.

Bản Giác dù bị phiền não buộc ràng, nhưng tự tánh nó trước sau thanh tịnh, không nhiễm. (Tham khảo: Phẩm Chủng Tánh, Kinh Bồ Tát Trì Địa 1; phẩm Tam Nhân, luận Phật Tánh 2; Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận 6; Giải Thâm Mật Kinh Sớ 3; Khởi Tín luận Sở Bút Trước Ký 3.) 

IV- Theo Luận Thích Ma-ha Diễn và Đại Thừa Khởi Tín

Giác có 4 nghĩa: Bản Giác, Thủy Giác, Chân NhưHư Không gọi là tứ vô vi. Trong 4 môn nầy mỗi môn lại chia làm hai thứ: Thanh TịnhNhiễm Tịnh để giải thich.

Trong đó Thanh Tịnh Bản Giácpháp thân sẳn có đầy đủ công đức từ vô thủy đến nay thường hằng sáng sạch.

Nhiễm Tịnh Bản Giác là tâm tự tánh thanh tịnh bị sự huân tập của vô minh mà lưu chuyễn trong sanh tử.

Thanh Tịnh Thủy Giác là tánh trí vô lậu xa lìa tất cả vô minh, không bị vô minh huân tập.

Nhiễm Tịnh Thủy GiácThủy Giác khi chưa rốt ráo, vẫn bị sự huân nhiễm của vô minh.

Trong phần “A- Khảo sát Một” đã phân tích về Bản Giác Hạ ChuyểnBản Giác Nội Huân nhưng trong phần nầy xin nhắc lại trong cách phân tích khác để độc giả dễ so sánh hơn.

 

1- Bản Giác Hạ Chuyễn : Đối lại với Thủy Giác Thượng Chuyễn

Giáo pháp do Mật Giáo lập ra căn cứ theo tướng Tùy Nhiểm Bản Giác (1 trong 2 thứ Bản Giác) trong luận Ma-ha Diễn. Nghĩa là trong tâm của chúng sanh đều sẵn có giác thể thanh tịnh. Giác thể thanh tịnh nầy bị vô minh huân tập mà lưu chuyễn trong sinh tử nên gọi là Trí Tịnh Tướng của Tùy Nhiễm Bản Giác. Bản Giác Tủy Nhiễm lại chuyễn xuống theo thứ lớp, tùy theo nhiễm duyên của chúng sanh, thuận theo tướng của chúng sanh hiện làm các thứ lợi ích gọi là bất tư nghì nghiệp tướng của Tùy Nhiễm Bản Giác hay gọi là Bản Giác Hạ Chuyễn.

Hạ Chuyễn là chuyễn xuống theo thứ lớp, chẵng hạn như đã đạt thánh quả lại chuyễn xuống địa vị phàm phu để tùy thuận điều phục giáo hóa chúng sanh, gọi là từ quả hướng đến nhân, thuộc về pháp môn Bản Giác Hạ Chuyễn.

Trái lại, từ địa vị phàm phu hướng thượng chuyễn lên địa vị thánh đế mong cầu Bồ Đề thì gọi là từ nhân hướng đến quả, thuộc về Chân Nhưpháp môn Thủy Giác Thượng Chuyễn.

Luận Thích Ma-ha Diễn (Đại 32, 619 hạ) ghi: “Thủy Giác bỏ phàm hướng đến thánh chuyễn theo thứ lớp lần lượt đi lên, Bản Giác Tùy Nhiễm bỏ thánh hướng về phàm, chuyễn theo thứ lớp lần lượt đi xuống”.

2- Bản Giác Nội Huân:

Còn gọi là tự thể tướng huân tập, tác dụng nội huân của Bản Giác Chân Như.

Theo luận Đại Thừa Khỏi Tín, trong tâm chúng sanh đều có sẵn Chân Như Phật Tánh. Nghĩa là Chân Như vốn sẵn có pháp vô lậu, có nghiệp dụng không thể nghĩ bàn. Tánh Chân Như thường huân tập vào tâm chúng sanh, khiến họ nhàm chán sanh tử, mong cầu Niết Bàn, tự tin nơi tâm mình sẵn có Phật Tánh, Chân Nhưphát tâm tu hành.

Đại Thừa Khởi Tín (Đại 32, 578 trung) ghi: “Chân Như Huân Tập có 2 nghĩa: Tự thể tướng huân tậpDụng huân tập.

Dụng huân tập tức là chúng sanh nhờ sức huân tập công đức của chư Phật và Bồ Tát thuộc duyên bên ngoài làm cho thiện căn của họ ngày càng tăng trưởng ”.

 

V- Bản Giác Pháp Môn, Thủy Giác Pháp Môn

(Đây là dụng ngữ củ Phật Giáo Nhật Bản)

“Giáo thuyết mà tông Thiên Thai Phật Giáo Nhật Bản căn cứ vào thuyết Bản Tích nhị môn trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa phối hợp với tư tưởng Tâm Tánh Nhiễm Tịnh của luận Đại Thừa Khởi Tín và luận Thích Ma-ha Diễn của Mật Giáo để lập ra .

1- Pháp Môn Bản Giácpháp môn từ Quả Vị chuyễn xuống Nhân Vị tu hành ngược thứ lớp.

2- Pháp Môn Thủy Giác: pháp môn từ Nhân Vị chuyễn lên Quả Vị tu hành thuận thứ lớp.

Nếu nhìn theo quan điểm Bản Tích nhị môn thì Bản Môn thuộc pháp môn Sự Viên. Tích Môn thuộc pháp môn Lý Viên.

Bản Môn là pháp môn của 9 thức. Tích Môn là pháp môn của 6 thức.

Bản Môn là pháp môn Bản Giác Hạ Chuyễn.

Tích Môn là pháp môn Thủy Giác Thượng chuyễn.

Trong giáo nghĩa Mật Giáo đem việc cầu thành Phật của hành giả lần lượt tiến tu theo hai cách khác nhau là tư NHÂN hướng đến QUẢ và từ QUẢ hướng đến NHÂN mà phân ra và qui thành nghĩa Thủy Giác Thượng Chuyễn và Bản Giác Hạ Chuyễn.

Tông Thiên Thai của Nhật Bản dung hợp tư tưởng tâm tánh nhiễm tịnh của Hiển GiáoMật Giáo mà nêu ra pháp môn Bản GiácThủy Giác nầy.”

Từ những khảo sát trên có 4 Từ Ngử liên quan đến Bản Giác là Thủy Giác, Chân Như, Phật TánhPháp Thân

 

T/S Lâm Như Tạng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5269)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5832)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7439)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6377)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5972)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4751)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5689)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5862)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6121)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6599)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5951)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7060)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6676)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4794)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4937)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7718)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9821)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7521)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5332)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6428)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5416)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5843)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6397)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5700)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6441)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7070)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6276)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10664)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6671)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6165)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6721)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6132)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6486)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5521)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8244)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5737)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7566)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6258)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9664)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4072)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6399)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4178)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4310)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4769)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5320)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5289)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5824)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6784)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5553)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4499)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5337)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 4998)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4360)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6877)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4615)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8415)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7222)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8370)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7510)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7574)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant