Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

312 Câu Tụng Căn Bản Duy Thức Học

25 Tháng Hai 201400:00(Xem: 17749)
312 Câu Tụng Căn Bản Duy Thức Học


312 câu tụng

CĂN BẢN DUY THỨC HỌC

 

HẠNH CƠ Tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận:

- Duy Thức Tam Thập Tụng, nguyên tác Phạn văn của Bồ-tát Thế Thân, pháp sư Huyền Trang dịch ra Hán văn;

 - Bát Thức Qui Củ Tụng, nguyên tác Hán văn của pháp sư Huyền Trang.

chan-dung-duc-phat


1. DẪN NHẬP

 

Thế gian NGÃ và PHÁP,

gồm muôn hình vạn trạng,

tất cả không thật có,

đều do THỨC chuyển biến.

 

Thức (năng biến) có ba:

Tàng thức (A-lại-da),

Tư-lương thức (Mạt-na),

và Liễu-biệt-cảnh thức.

 

2. THỨC A-LẠI-DA (Thức Thứ Tám)

 

Thứ nhất: A-lại-da,

thường gọi tên Tàng thức,

cũng gọi Dị-thục thức,

hay Nhất-thiết-chủng thức.

 

Tánh vô phú vô kí.

Huân tập mọi chủng tử,

chứa giữ và chuyển hiện,

căn thân, khí, nhận thức.

 

Cách nhận thức: hiện-lượng.

Đối tượng là tánh cảnh

(gồm chủng tử, căn thân,

cùng vô tình thế gian).

 

Tương ưng năm biến-hành:

xúc cùng với tác-ý,

xả-thọ, tưởng,tư,

đều vô phú vô kí.

 

Biển Tàng thức mênh mông,

sâu thẳm khó nghĩ lường,

từ đó bảy chuyển thức

hiện khởi và sinh tồn.

 

Không thể nào nhận biết

sự hoạt động thâm tế

của tất cả chủng tử

trong thức A-lại-da.

 

Cũng không biết đường lối

A-lại-da chấp thọ;

liễu biệt; và thọ sinh

vào ba cõi, chín địa.

 

Hằng chuyển như dòng thác.

Đi sau, đến trước tiên.

A-la-hán, Bất-động,

rời bỏ tên “Tàng thức”;

 

đến địa vị Diệu-giác,

“Dị-thục thức” sạch không;

chủng tử thuần vô lậu,

chuyển thành “Vô-cấu thức”.

 

Đó là trí “Đại-viên”,

tuệ giác Phật-đà,

chiếu sáng mười phương cõi,

độ muôn loài chúng sinh.

 

3. THỨC MẠT NA (Thức Thứ Bảy)

 

Thứ nhì: thức Mạt-na,

được gọi tên là Ý.

Bản chấthành tướng

hằng thẩm tư lương.

 

Chuyển hiện từ Tàng thức,

lại bám chặt Tàng thức,

chấp làm Ngã, Ngã-sở,

ngày đêm đắm hôn mê.

 

Bốn phiền não căn bản:

ngã-singã-kiến,

ngã-mạn cùng ngã-ái,

luôn đeo dính ngăn che.

 

Tương ưng năm biến-hành

(thọ đây là xả-thọ);

tâm sở tuệ (biệt-cảnh);

tám phiền não đại-tùy.

 

Mạt-na (và tâm sở)

tánh hữu phú vô kí.

Chỉ duyên cảnh đới-chất.

Cách nhận thức: phi-lượng.

 

Mạt-na làm chỗ nương

cho cả sáu chuyển thức

theo đó thành nhiễm, tịnh,

nên gọi “nhiễm-tịnh-y”.

 

địa vị phàm phu,

A-lại-da sinh đâu,

Mạt-na sinh theo đó,

“hằng, thẩm” luôn chấp ngã.

 

Hoan-hỉ-địa, bắt đầu

chuyển thành “Bình-đẳng-tánh”;

La-hán, Diệt-tận-định,

Bát-địa: hết chấp Ngã.

 

Chứng quả vị Phật-đà,

hiện thân “tha thọ dụng”,

Bồ-tát và chúng sinh

thấm nhuần ơn hóa độ.

 

4. THỨC LIỄU BIỆT CẢNH (Sáu Thức Trước)

 

Thứ ba: Liễu-biệt-cảnh,

gồm sáu thức khác nhau:

Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt thức,

Thân thứcÝ thức.

 

Do từ Căn-bản thức,

nương căn, trần làm duyên,

sáu thức này hiện khởi,

như sóng nương trên nước. 

 

4a. Ý THỨC (Thức Thứ Sáu)

 

Do Ý căn (Mạt-na)

tiếp xúc với pháp trần,

chủng tử từ Tàng thức

chuyển hiện ra Ý thức.

 

Tánh: thiện, ác, vô-kí.

Đối tượng gồm ba cảnh:

tánh-cảnh, đới-chất-cảnh,

đặc biệt độc-ảnh-cảnh.

 

Duyên cảnh bằng ba cách:

hiện-lượng (chân và tợ),

thường xuyên là tỉ-lượng,

nhiều trường hợp phi-lượng.

 

Hoạt động dễ nhận biết

ở cả hai hình thái:

Ý thức ngũ-câu;

Ý thức độc-đầu.

 

Bốn trạng thái độc-đầu:

Ý thức tán-vị,

Ý thức trong thiền định,

trong mộng, và điên loạn.

 

Thức này thường tương ưng

năm mươi mốt tâm sở:

năm tâm sở biến-hành

(đủ cả ba cảm thọ);

năm biệt-cảnhdục,

thắng-giải, niệm, định, tuệ,

mỗi một tâm sở này

đối tượng duyên khác nhau;

mười một thiện tâm sở:

tín, tàm, quí, vô-tham,

vô-sân và vô-si,

cần, an, bất-phóng-dật,

hành-xả bất-hại;

sáu căn-bản phiền-não:

tham, sân hận, si mê,

mạn, nghi, và ác-kiến;

hai mươi tùy-phiền-não,

chia ra tiểu, trung, đại:

mười phiền não tiểu-tùy:

phẫn, hận, phú, não, tật,

xan, cuống, siểm, hại, kiêu;

hai phiền não trung tùy:

vô-tàm vô-quí;

tám phiền não đại-tùy:

trạo-cử với hôn-trầm,

bất-tín cùng giải-đãi,

phóng-dậtthất-niệm,

tán-loạn, bất-chánh-tri;

bốn tâm sở bất-định:

hối, miên, tầmtừ,

mỗi loại tâm sở này

có thể thiện hay ác.

 

Ý thức luôn biến đổi:

hết thiện sang bất thiện,

lại đến lúc vô kí;

đang khiDục giới,

cũng vào định Sắc giới,

hoặc định Vô-sắc giới;

vui, buồn... bao tâm hành

thay nhau đến rồi đi...

 

Nương tánh “thẩm” của Ý,

làm động lực mạnh mẽ,

sai khiến thân và miệng

tạo các nghiệp dẫn, mãn.

 

Dùng chánh niệm quán sát

hoạt động của Ý thức,

có thể biết dễ dàng

quả báo trong ba cõi.

 

Ý thức thường hiện khởi,

trừ ở trời Vô-tưởng,

trong hai định vô-tâm,

ngủ say, và bất tỉnh.

 

Khi lên Hoan-hỉ địa,

Bồ-tát chỉ đoạn trừ

phân-biệt ngã pháp chấp;

nhưng câu-sinh vẫn còn.

 

Bước lên Bất-động địa,

Ý thức thuần vô lậu,

thành trí “Diệu-quán-sát”,

sáng soi cõi đại-thiên.

 

4b. NĂM THỨC TRƯỚC (tiền ngũ thức)

 

Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt, Thân,

gọi chung “năm thức trước”,

cũng gọi “năm thức thân”,

năm thức cảm giác.

 

Do năm căn phù-trần

đối trước năm trần cảnh,

chủng tử từ Tàng thức

nương nơi tịnh-sắc-căn

phát hiện ra năm thức;

hoặc chung, hoặc không chung.

Người thường khó phân biệt

thứccăn khác nhau.

 

Khi hoạt động độc lập:

hiện lượng; duyên tánh cảnh;

đầy đủ cả ba tánh;

năm tâm sở biến-hành.

 

Thời thường hoạt động chung

cùng ý thức ngũ-câu:

về lượng, cũng như cảnh,

đều tùy thuộc Ý thức;

 

ba mươi bốn tâm sở:

biến-hành, biệt-cảnh, thiện,

hai trung, tám đại-tùy,

cùng với tham, sân, si.

 

Nhãn thức chín duyên sinh;

Nhĩ thức tám duyên sinh;

Tị, Thiệt và Thân thức

chỉ cần bảy duyên sinh.

 

Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt, Thân:

hai trước căn cảnh lìa,

ba sau căn cảnh hợp,

để nhận rõ trần thế.

 

Ngũ-thú-tạp-cư địa:

đủ năm thức hiện hành;

Sơ-thiền: Nhãn, Nhĩ, Thân;

từ Nhị-thiền: không hiện.

 

Khi được trí Hậu-đắc,

năm thức duyên chân như

qua thế giới hiện tượng,

nhận rõ sanh, pháp không.

 

Trí Đại-viên phát sinh,

năm thức thuần vô lậu,

chuyển trí “Thành-sở-tác”,

độ sinh thoát khổ luân.

 

5. DUY THỨC

 

Các thức ấy chuyển biến,

phân biệt (kiến phần),

bị phân biệt (tướng phần),

đó là Ngã và Pháp.

 

Ngã và Pháp nếu lìa

sự biến hiện của thức,

thì đều không hiện hữu;

nên tất cả là THỨC.

 

Do thức Nhất-thiết-chủng

hằng chuyển biến trùng trùng,

nhờ năng lực triển chuyển,

mọi thứ phân biệt sinh.

 

Do tập khí các nghiệp,

tập khí hai thủ,

dị thục trước vừa hết,

liền sinh dị thục sau.

 

6. BA TỰ TÁNH và BA VÔ TÁNH của VẠN PHÁP

 

Do tánh biến-kế-chấp

biến kế tất cả vật,

“biến-kế-sở-chấp” này,

vốn không có tự tánh.

 

Vạn pháp đều nương nhau,

phát sinh và hiện hữu;

nên tự tánh của chúng

gọi là: “y-tha-khởi”.

 

Do quán chiếu thấy rõ

vạn pháp “y tha khởi”,

xa lìa tánh biến kế,

hiện tánh “viên-thành-thật”.

 

Tự tánh viên-thành-thật

cùng tánh y-tha-khởi

không khác, không không khác;

cả hai không tách rời.

 

Không thấy tánh vô-thường,

không đạt cảnh niết-bàn;

không thấy tánh y-tha,

không đạt viên-thành-thật.

 

Từ ba tự-tánh này

lập nên ba “vô-tánh”;

mật ý Phật dạy rằng:

vạn pháp không tự tánh.

 

Trước hết “tướng vô tánh”:

Tướng biến-kế-sở-chấp

hư vọng không thật có,

nên không có tự tánh.

 

Kế, “vô tự nhiên tánh”:

Các pháp do duyên sinh,

không phải tự nhiên có,

nên không có tự tánh.

 

Sau, “thắng-nghĩa vô tánh”:

Do lìa biến-kế chấp,

viên-thành-thật hiện tiền,

nên không có tự tánh.

 

Thắng nghĩa của vạn pháp

cũng tức là Chân-như,

(tánh nó là như thế),

tức Thật tánh Duy-thức.

 

7. NĂM ĐỊA VỊ TU CHỨNG

 

Khi phát tâm bồ đề,

nhưng còn chưa an trú

trong thể tánh Duy-thức,

thuộc địa vị Tư-lương;

kiến chấp Ngã và Pháp

tạm ngưng trên Ý thức,

còn tùy-miên của chúng

chưa điều phục diệt trừ.

 

Do tu duy-thức-quán,

vừa an trụ phần nhỏ

trong thể tánh Duy-thức,

đó là Gia-hạnh vị;

nhưng vì thấy “có trụ”

(tức thấy có “sở đắc”),

nên chưa thật an trụ

trong thể tánh Duy-thức.

 

Khi đối cảnh sở-duyên,

trí không thấy sở đắc,

đã dứt trừ hai thủ

(ngã chấppháp chấp),

địa vị Thông-đạt;

năng, sở như huyễn hóa,

bấy giờ mới thực sự

an trụ Duy-thức tánh.

 

Cảnh giới “vô-sở-đắc”

thật không thể nghĩ bàn,

là trí xuất-thế-gian

(tức trí vô-phân-biệt).

Đó là Tu-tập vị,

dứt sạch sở-tri chướng,

tuyệt trừ phiền-não chướng,

thành tựu quả Chuyển-y.

 

Đây cảnh giới Vô-lậu,

địa vị Cứu-cánh,

cảnh giới không nghĩ bàn,

cảnh giới cực thuần thiện,

cõi thanh tịnh chân thường,

an lạc, giải thoát thân,

đại tịch mặc, pháp thân,

vô thượng chánh đẳng giác.

 

 

HẠNH CƠ

Miền Tây Gia-nã-đại, 2010

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11943)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12838)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26704)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13096)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27089)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32922)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31728)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32625)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13051)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12189)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17558)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18786)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12597)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11802)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13153)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12263)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12529)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11682)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 12028)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10646)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10953)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28381)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11195)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11410)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13618)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11066)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11464)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10934)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11223)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26418)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12426)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14921)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11093)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20398)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12388)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11522)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10802)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23995)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11898)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12356)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12877)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11101)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38784)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10594)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12251)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17766)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25141)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10583)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10812)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12083)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11372)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11644)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14764)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21478)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9947)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11295)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27435)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11207)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11881)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11053)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant