Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa Bố ThíCúng Dường

03 Tháng Ba 201400:00(Xem: 24173)
Ý Nghĩa Bố Thí và Cúng Dường


Ý Nghĩa Bố ThíCúng Dường

Thượng Tọa Thích Nhất Chân

---o0o---

 

cung_duong_va_bo_thiCúng dườngbố thí vốn cùng một nghĩa "cho". Cái gì của mình mà có thể đem ra "cho" người khác, thì gọi là "cho".

Cũng cùng một nghĩa, song tùy theo trường hợp hay hoàn cảnh mà nghĩa "cho" này có những tên gọi khác nhau. Thông thường thì chỉ gọi là "cho", trường hợp khác thì gọi là "tặng", đôi khi gọi là "biếu". Riêng danh từ "bố thí" được dùng để chỉ trường hợp "cho" những người bần cùng nghèo khổ, ăn xin ăn mày. Và trường hợp khi một người Phật tử đem những gì của mình ra "cho" Tam Bảo, vốn là nơi nương tựa của mình, thì gọi là "cúng dường".

Thế gian thường nhìn nghĩa "cho" này theo chiều hướng "kẻ cả", nghĩa là người cho bao giờ cũng ở bên trên người nhận. Người cho là người ban ân, người nhận là người thọ ân. Do đó mà người cho luôn luôn có uy thế đối với người nhận. Ðây đúng là trường hợp của "cho" và "bố thí". Song trong các trường hợp ngược lại, người cho ở vị thế thấp hơn người nhận, thì thông thường gọi là "biếu". Nếu vị thế người cho càng thấp hơn nữa so với người nhận, và người nhận lại hoàn toàn có uy thế đối với người cho, thì lúc ấy "cho" được gọi là "dâng lên". Còn nghĩa "tặng" là "cho" giữa những người ngang hàng với nhau, "cho" để kết tình thân hay cốt để gây một ấn tượng tình cảm tốt đẹp mà thôi, thì gọi là "tặng".

Trong thế gian không có nghĩa "cúng dường", song có nghĩa "bố thí". Tuy nhiên nghĩa "bố thí" trong Ðạo không giống với nghĩa "bố thí" của thế gian.

Ðạo pháp nhìn "bố thí" không theo chiều hướng "kẻ cả" hay "ra ân" mà theo một chiều hướng tâm linh rất thâm sâu, bao gồm nhiều ý nghĩa của Ðạo. Chúng ta hãy khảo sát một cách tổng quát về nghĩa Ðạo của bố thí như sau :

Bố thí gồm có ba thành phần chính : một là người cho, hai là vật để cho và ba là người nhận. Thiếu một trong ba thành phần này thì pháp bố thí sẽ không thành lập được. Trong ấy, vật để cho là mối liên kết giữa người cho và kẻ nhận. Vật này trước tiên hết phải thuộc về người cho sở hữu, nghĩa là nó là vật của người cho. Cho một vật không phải của mình thời không thành nghĩa bố thí được. Sau khi cho, vật ấy trở thành vật của người nhận, và người cho không còn quyền hạn gì đối với vật ấy nữa.

Cho như thế có nghĩa là "xả bỏ" các sở hữu của mình, xả bỏ những gì mà mình có. Tại sao lại phải xả bỏ các sở hữu của mình ?

Con đường giải thoát trong Ðạo Phật cho thấy rằng sự hiện hữu của mỗi hữu tình chúng ta là một sự ràng buộc trói chặt chằng chịt vào nhau. Cái tâm thức mà là chúng ta một khi đã trói dính vào thân này, thời phải trói dính vào quần áo, nhà cửa, đồ ăn thức uống v.v... để nuôi dưỡngduy trì thân này. Một khi tâm thức ấy đã trói chặt vào thân ấy cho đó là Tôi, thì nó sẽ trói chặt luôn vào vợ tôi, con tôi, nhà cửa gia sản của tôi, bạn bè thân quyến của tôi... Khi Ðạo pháp nói rằng chúng ta bị trói dính vào luân hồi biến chuyển đau khổ, chúng ta không được giải thoát, tức có nghĩa là chúng ta, hay đúng hơn cái tâm thức mà là chúng ta, bị trói chặt vào thân này và các sở hữu khác của nó. Thế nên giải thoát có nghĩa là cởi tâm thức ra khỏi các trói chặt của thân và các sở hữu. Tâm thức tự trói mình vào các thứ ấy bằng tâm ái luyến, nên chính tâm thức cũng phải tự cởi mình ra bằng tâm thoát ly hay tâm xả bỏ các pháp sở hữu ấy.

Con đường giải thoát khuyến khích mạnh mẽ tâm thoát ly cho đến mức viên mãn thoát ly thì thành ra là giải thoát Niết Bàn.

Tâm xả bỏ có một chiều hướng khác và bao gồm nhiều ý nghĩa thâm sâu hơn là tâm thoát ly. Ý nghĩa thoát ly, theo con đường Giải thoát chỉ là xả bỏ tâm ái luyến đối với các vật sở hữu, đồng thời phát khởi một tâm đối trị tâm ái luyến này, tức tâm chán ghét lìa xa. Do đó nên tâm thoát ly phải đón nhận và thâm nhập sâu xa vào ý nghĩa vô thường, khổ, vô ngã của thân mình và các pháp sở hữu. Trong khi tâm xả bỏ ở đây không phải chỉ thuần túy là lìa xa ở bên trong đối với các pháp sở hữu, mà chính yếu lại là tâm "chiếu cố" đến người khác, đến sự cầu mong của người khác nên xả bỏ sở hữu của mình để ban cho họ được thỏa mãn lòng mong cầu.

Như vậy, trong khi tâm thoát ly chỉ nhìn vào tính chất vô thường khổ của các vật sở hữu để tự mình phát khởi sự chán ghét mà lìa xa các pháp ấy đi, để rồi chính nơi mình tự thành tựu được sự thoát ly vĩnh viễn cứu cánh gọi là Niết Bàn, thì tâm xả bỏ lại nhìn vào sự khao khát mong cầu của các người khác, để phát khởi lên một tính chất thương xót ngay nơi chính mình, để rồi mạnh mẽ "nhường lại" hay xả bỏ các vật sở hữu của mình để đưa ra cho họ. Tâm thoát ly để mặc sự vật ở yên đó với tính chất vô thường biến hóa của nó, trong khi tâm xả bỏ ở đây sử dụng sự vật như một phương tiện để thỏa mãn người khác.

Như thế tâm xả bỏ ở đây không hề có nghĩa là do vì chán ghét không thích nên mới xả bỏ, mà xả bỏ là vì quan tâm chiếu cố đến sự đòi hỏi của người khác, đáp ứng theo sự cầu xin của họ, mà xả bỏ ra cho họ. Xả bỏ ở đây cũng không phải là để thoát ly các đối tượng bị trói buộcchính yếu là để thoát ly chính tâm tham ái trói buộc nhằm tự chứng lấy cứu cánh giải thoát ; mà xả bỏ ở đây là để xoa dịu các khao khát của người khác và chính yếu là để thành lập tâm Ðại bi nhiếp hộ người khác nhằm đưa họ đến chỗ giải thoát cứu cánh vĩnh viễn thỏa mãn.

Xả bỏ theo nghĩa ấy mới được gọi là "bố thí". Bố thí ở đây do đó không hề có nghĩa bố thí của thế gian, như một "kẻ cả" ở bên trên, ra ân thí cho các kẻ nghèo cùng khốn khổ ở bên dưới. Chính yếu, Bố thí ở đây có nghĩa là đáp ứng lại vô điều kiện và không lưỡng lự đối với sự cầu xin của bất cứ ai, trên mình hay dưới mình, khổ hơn mình hay sướng hơn mình, cho đến bất kể là loài hữu tình nào đi nữa. Hễ có xin là có cho, và đã xin gì là cho nấy, dù là gia sản, vợ con, cho đến chính thân thể mình. Tại sao lại phải cho một cách "quá đáng" như vậy ?

Bởi vì Bố thí ở đây thuộc về con đường thành Phật, một hành giả đi theo con đường thành Phật này bị đòi hỏi cần phải có một bản thể hay một tư cách Bố thí như thế. Bố thí là nền tảng hay cơ sở cho con đường thành Phật vậy. Do bởi Bố thí bao hàm các tính chất chính yếu của một vị Phật như sau :

1- Bố thí buông xả tất cả các pháp sở hữu cho đến buông xả luôn cả chính chủ thể sở hữu. Ðây chính là tính chất trí huệ vô ngã vô ngã sở.

2- Bố thí buông xả không phải do ghét bỏ muốn lìa xa các pháp sở hữu, mà bố thí buông xả để biến mọi pháp sở hữu chuyển thành phương tiện để nhiếp hộ chúng sinh. Ðây là tính chất phương tiện thiện xảo.

3- Bố thí buông xả không phải để cho chính tự mình được hưởng sự giải thoát, mà Bố thí buông xả là để cho mọi người khác được toại nguyệnan lạc. Ðây là tính chất từ bi lợi tha.

Chưa hết, Bố thí như thế là một sự thực hành thiết thực cụ thể, nhằm siêu việt ranh giới ta người, để phát hiện rathâm nhập vào lãnh vực vô phân biệt, bình đẳng, nhất như, vốn là cảnh giới chân thật nhất, là bản thể tột cùng của tất cả các pháp.

Trong khi một hành giả giải thoát lìa bỏ tất cả mọi thứ của thế gian này, lẻ loi một mình trong rừng sâu, dồn hết bao nhiêu năng lực để cắt đứt mình đi khỏi mọi trói buộc với thế gian, mong tự mình thành tựu lấy cảnh giới chân thật vô phân biệt này, gọi là giải thoát hay Niết Bàn, thì một hành giả thành Phật ôm trọn mọi pháp của thế gian, sống giữa muôn loài chúng sinh, thực hành pháp Bố thí, để cụ thể thiết thực hòa mình vào với thế gian hữu tình cũng như vô tình, để chứng thực ra giữa thế gian với vô vàn liên hệ chằng chịt này một cảnh giới "bất nhị" bình đẳng vô phân biệt. Chân lý ngay tại đây, ngay nơi thân mình, ngay nơi vật để cho, ngay nơi người nhận, chứ không phải chỉ nằm trong rừng sâu hay trong cô đơn tĩnh lặng.

Do đó, nếu đã sống giữa thế gian này, giữa muôn loài, mà không cho ra, không Bố thí, thời thế gian này sẽ không bao giờ được chuyển hóa. Mà đã cho, thời phải cho tất cả những gì là mình và của mình, thời ranh giới phân hai giữa ta và người mới bị tan biến và toàn thể thế gian mới bộc lộ ra được toàn thân chân thật của nó. Lúc ấy sự thực hành Bố thí sẽ chuyển hóa toàn thể thế gian này sang một lãnh vực không còn phân biệt là có ta cho, có người nhận, có vật để cho, cả ba đều không còn hiệu hữu nữa, bởi đối cực chủ thể khách thể ta và người không còn phân hai nữa. Sự liên hệ giữa ta một bên, thế giới và người khác một bên, do sự thực hành Bố thí này mà đều được thể nhập vào cảnh giới bình đẳng nhất như, tất cả đều thoát hết ra khỏi lãnh vực duyên khởi tương đối ràng buộc chằng chịt, hoàn toàn viên mãn đến "bờ bên kia", bờ hợp nhất giải thoát. Thế nên Bố thí đến đây được gọi là Bố Thí Ba La Mật Ða (tức "bố thí đến bờ bên kia").

Bố thí như thế không dễ gì thực hiện. Thế nên một hành giả muốn thực hành Bố Thí Ba La Mật Ða cần phải có một tiến trình tuần tự tu tập Bố thí từ từ : trước tiên hết, người thực hành Bố thí bắt buộc phải khởi tâm nguyện dứt khoát đi theo con đường thành Phật để cứu độ chúng sinh. Tâm nguyện dứt khoát này thường gọi là Bồ Ðề tâm. Sau đó người ấy phải tạo tất cả công đức của thế gian như Bố thí cho người nghèo khổ, làm tất cả mọi điều tốt hữu ích cho mọi người, thực hành trì giới nhằm bảo vệ cho chúng sinh được an ổn và không còn sợ hãi. Các công đức này thật sự cần thiết chứ không phải chỉ là phước đức hữu lậu hưởng thụ thuộc ngũ dục như chúng ta thường lầm tưởng. Do nhờ có công đức này thì người thực hành mới có phương tiện để xả bỏ ban cho chúng sinh mà hành Bố Thí Ba La Mật Ða.

Song để cho tâm nguyện Bồ Ðề được dứt khoátkiên cố, cũng như để cho khi thực hành các công đức thế gian, người thực hành không đi lạc ra khỏi con đường thành Phật, thời bắt buộc người ấy phải thực hành cho vẹn toàn một công đức nền tảng nhất, đó là công đức "cúng dường".

Cúng dường giản dị có nghĩa là "bố thí" cho Tam Bảo. Khi một hành giả thực hành Bố Thí Ba La Mật Ða thời đối tượng để Bố thí phải là tất cả mọi loài chúng sinh và phải là tất cả mọi cấp bậc hữu tình từ địa ngục lên cho đến Phật. Khi Bố thí cho các loài hữu tình khác ngoài Phật, các bậc thánh Nhị thừa hay các đại Bồ Tát, thì Bố thí ấy thuộc về tính chất Ðại Bi. Song khi Bố thí cho Phật, các Thánh và đại Bồ Tát, thì Bố thí này thuộc về tính chất Trí Huệ. Do đó mục tiêu của Cúng dường chính là để thành tựu Trí Huệ vậy.

Chúng ta đã biết, Bố thítác dụng chính yếu là để hợp nhất hay để xóa tan ranh giới phân hai giữa chủ thể và khách thể, qua động cơ "tình cảm" là thương xótquan tâm hoàn toàn vào tha nhân (tức Ðại bi tâm), với phương tiện là đưa ra cho hết toàn thể mọi sở hữu của mình, khi ấy tâm thức của hành giả được đặt để vào trong một trạng thái không còn phân biệt ta người nữa. Và đó chính là trạng thái chân thật nhất, nguyên thủy nhất, và cứu cánh nhất của tâm thức hữu tình. Trạng thái này là cảnh giới chân lýmọi người tu hành mong đạt đến.

Cúng dường cũng thế, cũng có tác dụng hợp nhất chủ thể và khách thể, đồng thời cũng nhằm đạt đến trạng thái cứu cánh như nhất vô phân biệt của Tâm thức. Song vì đối tượng của Cúng dườngTam Bảo, thế nên sự thực hành Cúng dường có khác ít nhiều với sự thực hành Bố thí.

Sự thực hành Cúng dường vẫn được khởi động từ một động cơ tình cảm. Song tình cảm ở đây không phải là tâm thương xót mà là tâm cung kính. Cung kính đây không phải là một cung kính sợ hãi lòn cúi, một thứ cung kính không dám đến gần, mà nếu phải đến gần thì khớp sợ và mất tự chủ. Cung kính ở đây trái lại là một tâm "khao khát hâm mộ" mong được gần gũi, như kẻ ái mộ mong được gần gũi người mình thần tượng. Gần gũi không phải để sở hữu lấy đối tượng cung kính, mà để chính đối tượng cung kính ấy sở hữu lấy mình. Cung kính như thế bao gồm các tính chất khao khát gần gũi để mà phụng sự, nghe theo và vâng lời.

Khi Bố thíhành giả chìu theo sự đòi hỏi mong cầu của chúng sinh, nhằm làm cho chúng sinh được thoả nguyện mà nhiếp độ họ. Khi Cúng dườnghành giả tuân phụng theo "chỉ thị" của Tam Bảo, nhằm chuyển mình theo chân lý để được thoả nguyện giác ngộ mà độ chính mình. Tự độ và độ tha hoặc tự giácgiác tha chính là kết quả tối hậu của hai pháp môn Cúng dườngBố thí này.

Cũng như Bố thí, các pháp sở hữu của hành giảphương tiện chính yếu để thực hành Cúng dường. Xả bỏ tất cả những gì mình có, cho đến xả chính thân mình mà cúng dường, là nhằm dứt khoát hòa hợp làm một với Tam Bảo. Cúng dường đến mức tuyệt đối vẹn toàn như thế, thời tâm thức của hành giả sẽ được đặt để vào một trạng thái không còn phân hai nữa giữa mình là người thực hành và Phật là kết quả để thành. Do mình cũng không còn có, Phật, Pháp, Tăng cũng không còn có, thế nên tâm thức của hành giả thật sự đạt đến trạng thái Bát Nhã Ba La Mật Ða, một trạng thái siêu việt lên bờ bên kia, bờ hợp nhất, tránh xa hai cực đối đãi giữa chủ thể tìm chân lý và chính chân lý là khách thể được tìm.

Cúng dường đến mức viên mãn như thế cũng không dễ gì mà thực hiện. Song hành giả không hề bị ép buộc làm quá khả năng mình bao giờ. Ðiều cần thiết nhất là động cơ thúc đẩy hành giả Cúng dường phải là động cơ chân chính, tức tâm thức cần cầu trí huệ giác ngộ, thành tựu Phật quả, để độ chúng sinh. Ðó chính là Bồ Ðề tâm. Kế đến hành giả cần phảibàn thờ với hình tượng Phật để mà cúng dường. Phẩm vật Cúng dường là tất cả các pháp như mầu sắc : ánh sáng, đèn, hoa, quả, âm thanh : thỉnh chuông, xướng lên tán thán hay ngay cả âm nhạc như cõi trời thường cúng dường Phật như vậy, hương : hương đủ loại, ngay cả hương của hoa quả nữa, vị : trái cây, đồ ăn thức uống, cảm xúc : như mát, ấm, quần áo, sự tô điểm đẹp đẽ trang nghiêm của bàn thờ, cho đến giữ gìn bàn thờ cho sạch sẽ thanh khiết, tô điểm bàn thờ cho thật trang nghiêm, chiêm ngưỡng bàn thờ cho thật thiết tha, đảnh lễ bàn thờ cho thật chân thành. Tất cả mọi hành vi của hành giả đối với bàn thờ Phật, nhất cử nhất động, cùng với tất cả các pháp xung quanh, đều được nhiếp vào tâm niệm cung kính cúng dường.

Tâm thức Cúng dường phải hết sức bén nhậy, ngay khi thiết lập bàn thờ, đó chính là đang Cúng dường rồi, cho đến quét lau bàn thờ, đều là các thực hành cúng dường. Do đó, để ra một phòng làm phòng thờ cũng là Cúng dường phòng, nên quét lau phòng thờ cũng là thực hành cúng dường, cho đến bước chân ra chợ mua hương hoa để cúng dường, thì bước chân đi ấy cũng là thực hành Cúng dường vậy.

Dần dà người thực hành Cúng dường sẽ cảm nhận ra rằng cả một phần đời sống của mình là đời sống cúng dường. Nếu người ấy phát triển sự Cúng dường rộng rãi hơn nữa, như công quả ủng hộ chùa chiền, in kinh ấn tống, Cúng dường gần gũi phụng sự chư Tăng, thì người ấy sẽ cảm thấy rõ ràng là cả một nửa cuộc đời mình là cuộc đời cúng dường. Và nếu nửa đời kia liên hệ với xã hội là để thực hành Bố thí thì người ấy sẽ hoàn toàn thấy rõ trọn cuộc sống mình là cuộc sống Bố thícúng dường. Từ BiTrí Huệtrọn vẹn cuộc sống của mình và được thực hành ngay trong đời sống của mình với phương tiện là chính thân mình và các vật sở hữu của mình đang được sử dụng để nối kết mình vào làm một với chúng sinhTam Bảo, để chuyển hóa toàn thể cuộc sống của mình trở thành một hiện thân của chân lý bất nhị siêu việt tối thượng.

Ðể đạt đến mục tiêu ấy, tâm thức Cúng dường không chỉ càng ngày càng bén nhậy, mà càng ngày càng phải rộng mở ra hơn nữa. Hành giả từ tâm thức tạo dựng chùa chiền để cúng dường, in kinh để cúng dường, tiến thêm nữa sẽ thành tâm nguyện xây dựng chùa tháp, trùng tu già lam khắp nơi... cho đến thành đại nguyện của Bồ Tátxây dựng chùa tháp khắp cõi Diêm phù, hoằng dương chính pháp khắp nơi khắp xứ... cho đến cuối cùng thành lập Tịnh Ðộ đầy đủ trang nghiêm để lợi độ chúng sinh viên mãn bất tận...

Ðể cho tâm thức hành giả được thiết thực mở toát ra hết đối với Tam Bảo như vậy, nơi tâm niệm cung kính Cúng dường bao giờ cũng kèm theo tâm nguyện khát khao gặp Phật, khát khao sinh về cõi Phật, khát khao cúng dường vô lượng tất cả chư Phật, khát khao gần gũi phụng sự vô biên tất cả chư Phật. Tâm khát khao gặp Phật này phải cấp thiết chân thành, như con thơ đi lạc mong gặp mẹ, phải chuyên nhất một mối như người gặp nạn hiểm chết đến nơi chỉ một lòng cầu thần lực cứu thoát, phải tràn ngập hân hoan như kẻ đi tìm châu báu đang tiến đến trước cửa kho tàng.

Với tâm niệm cúng dường như thế, dần dà mọi tâm nguyện hoằng pháp lợi sinh sẽ đều hội tụ về một mối và phát sinh tăng trưởng mạnh mẽ. Ðiều thiết yếu là tất cả mọi tâm nguyện này khởi động đều thuộc về bản chất cúng dường, tức đều hướng về một mối là chuyển hết các công đức ấy về kết quả cuối cùngthành Phật, chính là khi hành giả và Phật không còn phân hai nữa. Cúng dường trong giai đoạn này còn gọi là "hồi hướng về vô thượng Bồ Ðề".

Tóm lại, Bố thícúng dường đều là các pháp môn được thực hành ngay trong lòng chúng sinh, ở giữa trần gian này, bằng chính tình cảm của chúng sinh, bằng tâm phân biệt ta người của hữu tình, song mục tiêu vẫn là để đưa đến chỗ chân lý cứu cánh cũng như thành Phậtgiải thoát.

Ðiều quan trọng sau cùng mà chúng ta cần lưu ý là : chân lý thật sự giản dị chỉ là bàn thể thường hằng xưa nay của tâm thức chúng sinh, nên bản thể này có thể được nhìn ra và thật chứng bởi rất nhiều cách thức ngoài đạo Phật cũng như trong đạo Phật, khác với Bố thíCúng dường (nếu nói rộng thì gồm đủ cả sáu Ba La Mật Ða). Nhưng các cách thức khác ngoài đạo Phật sẽ không hề đưa lại được sự giải thoát chân thật chứ đừng nói là thành Phật. Còn các cách thức khác ở trong đạo Phật là thuộc về các pháp môn tự lợi của nhị thừa, thời có thể đưa tới một giải thoát chân thật, song lại không thể thành Phật được. Do đó, chỉ có các pháp môn Bố thíCúng dường thuộc sáu Ba La Mật Ða này mới là con đường đưa đến kết quả thành Phật. Thế nên, các vị Bồ Tát sẽ thường xuyên thực hành Bố thícúng dường (cũng như cả sáu Ba La Mật Ða), trải qua rất nhiều kiếp mà không chịu chứng Thật Tế (tức chân lý) và giải thoát Niết Bàn, cho đến bao giờ thực hành viên mãn hết Bố thíCúng dường, và gồm cả các Ba La Mật Ða khác, thời bấy giờ Bồ Tát mới chịu chứng Thật Tế và Niết Bàn. Khi ấy Bồ Tát được gọi là Phật hay Chính Ðẳng Chính Giác. Nói cách khác là phải bao giờ thành tựu đầy đủ viên mãn các công đức của một vị Phật (tức sáu Ba La Mật Ða), lúc ấy một Bồ Tát mới chịu chứng đạo và chứng giải thoát Niết Bàn. Thế nên sự tu hành theo con đường đại thừa Bồ Tát Ðạo là một tiến trình lâu dài trong rất nhiều kiếp và giữa lòng thế gian này, chứ không phải chỉ là một kỷ luật tu tập ngắn hạn nào đó trong vòng một đời sống này để đưa đến cứu cánh giác ngộ và giải thoát. Ðó là điều một hành giả thực hành Bố thícúng dường cần phải ý thức và ghi nhớ vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6991)
Trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, tạo ác nghiệp nhất định chiêu quả khổ.
(Xem: 8787)
Sinh thuận, tử an là một phước báo lớn của con người. Một khi chưa biết nghiệp duyên của mình sẽ chết bình an hay bất an thì hãy cố gắng tu tập các thiện pháp.
(Xem: 8485)
Bản Chất của Hạnh Phúc được trích từ tác phẩm Nghệ Thuật Sống Hạnh Phúc: Cẩm Nang cho Đời Sống, một quyển sách căn cứ trên sự mở rộng những đối thoại giửa Đức Đạt Lai Lạt MaBác sĩ Howard C. Cutter, một nhà tâm lý trị liệu phương Tây.
(Xem: 8020)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7777)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6976)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13843)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7578)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9340)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7868)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7811)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7366)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7756)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7482)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8688)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 11098)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15473)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19261)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14950)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8852)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8855)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14712)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15307)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8551)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 11017)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11362)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8744)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9113)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19824)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24726)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8837)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9155)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10825)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 9030)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7933)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8825)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8312)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7331)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 11159)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7417)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8301)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17723)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44244)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45517)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 45096)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10659)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8590)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7596)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7610)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7400)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12142)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 7962)
Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa?
(Xem: 8449)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9207)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 8139)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8924)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 8044)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8210)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8712)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16375)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant