Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hình Tượng Bồ Tát Quan ÂmVấn Đề Bình Đẳng Giới

20 Tháng Ba 201400:00(Xem: 8579)
Hình Tượng Bồ Tát Quan Âm Và Vấn Đề Bình Đẳng Giới


Hình Tượng Bồ Tát Quan ÂmVấn Đề Bình Đẳng Giới

Thích Hạnh Bình 

 

Một thanh niên hỏi tôi: “Có người nói Bồ tát Quan Âm không có thật, là tín ngưỡng của Bà La Môn phải không thưa thầy?”. Tôi cười đáp: “Bồ tát Quan Âm có thật hay không tùy thuộc vào hai điều kiện: 1.Niềm tin. 2.Tự mình nghiên cứu tìm hiểu. Tôi không đủ thời gian dài dòng giải thích, chỉ xin lưu ý một vài điểm: Danh xưng Bồ tát Quan Âm không thấy trong các kinh điển của Phật giáo Nam truyền, chỉ xuất hiện trong kinh điển Đại thừa, cụ thể là “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa’’ - ‘Phẩm Phổ Môn’ thứ 25. Như vậy, Bồ tát Quan Âm có thật hay không, phải tự thân nghiêm túc tìm hiểu, nếu không thì chỉ dựa vào niềm tin (linh tại ngã bất linh tại ngã) mà thôi, do vậy tôi nhường câu trả lời này cho anh”.

Với câu trả lời cho anh thanh niên, tôi muốn nhấn mạnh rằng: nếu không đứng từ góc độ Phật giáo Đại thừa, người ta có thể cho là Bồ tát Quan Âm không có thật. Tuy nhiên hạnh Bồ tát (làm lợi ích cho mọi người, cho tất cả chúng sinh) trong Phật giáo là điều có thật. Ý nghĩa này được rút ra từ các kinh điển của Phật giáo Nam truyền, cụ thể là “Jātaka” (tiền thân) trong “Khuddaka” (Tiểu Bộ), là một trong 5 bộ Nikāya. Tư tưởng Bồ tát là có thật, hạnh nguyện cứu độ chúng sinh giúp đỡ mọi người của Bồ tát là có thật, do vậy nếu Bồ tát không có danh xưng Quan Âm thì cũng có danh xưng khác. Phật giáo Đại thừa không quan trọng danh xưng, mà chú trọng ở tư tưởnggiá trị thực tế - hạnh nguyện tốt đẹp, ích mình lợi người. (Hoa hồng hương ấy sá gì tên chi).

Với tư tưởng đó, Phật giáo Đại thừa triệt để triển khai tinh thần Bồ tát đạo. Tùy theo hạnh nguyện của mình, Bồ tát xuất hiện dưới nhiều thân tướng khác nhau, nhằm hóa độ nhiều đối tượng khác nhau, như Bồ tát Địa Tạng với hạnh nguyện vào địa ngục để cứu độ những chúng sinh ở đây; Bồ tát Văn Thù với đại trí tuệ hàng phục những tà ma ngoại đạo; Bồ tát Quan Âm dưới thân tướng trang nghiêm là người nữ, với lòng đại bi Ngài lại phân thân xuất hiện dưới nhiều thân tướng khác nhau, không chỉ là người xuất gia mà cả hình thức người tại gia, có thể là nam hay nữ, quan hay dân…và ở bất cứ nơi đâu miễn nơi ấy có chúng sanh đau khổ thì Ngài xuất hiện, giống như người mẹ hiền che chở đàn con thơ.

Hình ảnh Bồ tát Quan Âm xuất hiện dưới thân tướng là người nữ, ngoài ý nghĩa tôn giáo, còn có ý nghĩa về mặt xã hội nếu xét đến bối cảnh “trọng nam khinh nữ” của xã hội Ấn Độ thời bấy giờ.

Ấn ĐộTrung Quốc là hai lục địa lớn nhất ở Châu Á, cũng là hai cái nôi văn hóa không riêng Châu Á mà của cả thế giới. Hai quốc gia này đều có chung truyền thống “trọng nam khinh nữ”, từ đó lan rộng và ảnh hưởng đến các nước phụ cận thuộc Châu Á, trong đó có Việt Nam. Ở những xã hộitruyền thống văn hóa này, hầu như trong ý thức của mọi người đều cho rằng, người nữ như là điều xui xẻo, tai họa, bất hạnh. Họ bị hành hạ, chà đạp nhân phẩm, đem bán, thậm chí bị tước quyền được sống[1], như những nước ở Trung Đông.

Xã hội ngày nay còn có tiếng nói của nhân quyền và các tổ chức xã hội lên tiếng can thiệp đối với việc hành hạ nhục mạ nhân phẩm người nữ, nhưng với thời xa xưa cách đây 2500 năm, người ta xem như là chuyện bình thườngtự nhiên, không ai lên tiếng phản đối. Tuy nhiên, Thế Tôn không chấp nhận sự bất bình đẳng giới này, có thể nói Ngài là người đầu tiên lên tiếng phản đối truyền thống xấu xa này. Ngài không những chỉ phản đối chế độ giai cấp của Bà La Môn, mà còn phản đối tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của xã hội Ấn Độ. Lời khuyên của Ngài đối với vua Pasenadi nước Kosala trong “Kinh Tương Ưng” là một minh chứng cụ thể. Câu chuyện ghi rằng, trong lúc nhà vua cùng đức Phật trò chuyện thì có tin truyền đến Hoàng hậu đã sinh một người con gái. Nhà vua không giấu được nỗi buồn trên mặt, do đó đức Phật đã nói bài kệ khuyên vua:

Này Nhân chủ, ở đời,
Có một số thiếu nữ,
Có thể tốt đẹp hơn,
So sánh với con trai,
trí tuệ, giới đức,
Khiến nhạc mẫu thán phục.
Rồi sinh được con trai,
anh hùng, quốc chủ,
Người con trai như vậy,
Của người vợ hiền đức,
Thật xứng là Ðạo sư,
Giáo giới cho toàn quốc.[2]

Nội dung và ý nghĩa của bài kệ này gồm hai ý chính: 1. Xác định Ấn Độ là xã hộitruyền thống tư tưởng “trọng nam khinh nữ”; 2. Đức Phật không đồng tình quan điểm ấy, Ngài khẳng định có những người nữ có trí tuệ đức hạnh hơn cả người nam, chớ có khinh thường người nữ. Ở bối cảnh xã hội Tây phương ngày nay thì quan điểm bênh vực cho nữ giới là việc được thực hiện rất bình thườnghiển nhiên, nhưng trong bối cảnh nước Ấn Độ cách đây hơn 2.500 năm, dưới thời đại quân chủ chuyên chế, và nặng nề tư tưởng trọng nam khinh nữ, đức Phật đã ngang nhiên trình bày quan điểm của mình trước nhà vua, đó mới là chuyện bất bình thường hy hữu; có thể nói đó là tiếng nói đầu tiên bênh vực, bảo vệ giới nữ, đưa vị trí người nữ ngang bằng với nam giới. Không những chỉ có nói, Ngài thể hiện quan điểm này bằng hành động cụ thể, tức là cho giới nữ xuất gia; khẳng định người nữ cũng có thể chứng quả vị tối caoA la hán[3] (Thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy chỉ có 4 quả, A la hánquả vị cao nhất), trên thực tế cũng đã có nhiều vị Tỷ kheo ni đã thành tựu quả vị này.

Việc cho người nữ xuất gia là ngược lại quan điểm truyền thống Ấn Độ, nên quá trình hợp thức hóa Ni giới trong Tăng đoàn không dễ dàng, không những bị sức ép từ xã hội, mà ngay trong Tăng già cũng kịch liệt phản đối, điển hình là ngài Ca Diếp[4]. Có nhiều ý kiến khác nhau về lý do vì sao ngài Ca Diếp không đồng tình với đức Phậttôn giả A Nan, nhưng đến nay vẫn chưa được làm sáng tỏ, vấn đề này cũng cần được nghiên cứu. Trước tình hình đó, dĩ nhiên đức Thế Tôn phải cân nhắc, và phải chuẩn bị những điều kiện sống cần thiết (cư trú) trước khi cho người nữ xuất gia. Cuối cùng, người nữ cũng được xuất gia trong Tăng đoàn, hình thành Ni giới. Điều đó chứng tỏ quan điểm và sự quyết tâm của đức PhậtA Nan cho người nữ xuất giahợp lý, không những tạo điều kiện cho giới nữ có cơ hội học Phật pháp, tu tập để thành tựu giác ngộgiải thoát mà còn mang ý nghĩa kêu gọi xã hội bình đẳng về giới tính, xóa bỏ thái độ “trọng nam khinh nữ”, giải phóng biết bao người phụ nữ thoát khỏi nỗi đau khổ tủi nhục do quan niệm sai lầm này gây ra.

Phật giáo Đại thừa đã kế thừa tư tưởng này và có công rất lớn trong sự nghiệp cải cách, xóa bỏ sự bất bình đẳng về giới. Hình tượng Bồ Tát Quán Âm xuất hiện dưới thân hình người nữ, bằng tình thương vô biên, được mô tả như là người có ngàn tay ngàn mắt, thần thông quảng đại, xuất hiện khắp hang cùng ngõ hẻm, mọi lúc mọi nơi, thực thi tinh thần cứu độ chúng sinh, với lời nguyện: “Nơi đâu có tiếng than khổ thì nơi ấy có Ngài” (Kinh Pháp Hoa- Phẩm Phổ Môn). Đó là tình thươngbản chất của người mẹ, chỉ có người mẹ mới làm được việc ấy. Trong thế gian không có tình thương nào bằng tình thương của mẹ, không có lòng bao dung, chịu đựng nào bằng lòng bao dung chịu đựng của người mẹ, nếu con có ngỗ nghịch, bất hiếu như thế nào đi nữa, khi gặp nạn cần sự giúp đỡ thì mẹ sẵn lòng tha thứ và chìa tay nâng đỡ con. Bồ tát Quan Âm cũng thế, Ngài xuất hiện như người mẹ, thương chúng sanh như con ruột, luôn cận kề vỗ về an ủi xoa dịu nỗi đau của đàn con.

Bồ tát Quan Âmhạnh nguyện như thế nên bất cứ ai dù là nam hay nữ, dân hay quan, kẻ ác hay người thiện...đều có thể đến với Ngài, cầu Ngài cứu độ. Có lẽ chính vì lòng hiền từbao dung ấy, mà người dân Việt Nam gọi Ngài bằng cái tên thân thiết là “Mẹ Hiền Quan Ấm” hay “Phật Bà Quan Âm”, vì Ngài hiền từdễ thương như người mẹ. Từ đó hình tượng của Ngài được dựng ở khắp mọi nơi, từ thị thành đến thôn quê, từ non cao đến biển cả, nhất là những nơi thường xuất hiện bất trắc hiểm nguy.

Hình ảnh Bồ tát Quan Âm xuất hiện dưới thân hình người nữ, có tình thương bao la, dễ thương gần gũi như người mẹ và hạnh nguyện của Ngài là biện pháp hữu hiệu nhất để phá vỡ quan niệm phi đạo lý: “trọng nam khinh nữ” của truyền thống dân tộc Ấn Độ nói riêng và loài người nói chung, trong đó có cả Việt Nam.

Hình ảnh Ni giới được tu được học và được thành tựu đạo quả trong đạo Phật cho thấy Phật giáo là một tôn giáo đi đầu trong việc đề xướng bình đẳng giới, đả phá quan điểm “trọng nam khinh nữ”. Đức Thế Tôn là người đầu tiên đòi quyền lợi cho giới nữ, đưa vị trí giới nữ ngang bằng nam giới.

Hy vọng rằng qua bài viết này chúng ta thấy được quan điểm tiến bộthực tế của đạo Phật, lời đức Phật luôn luôn đi cùng với con người, với sự thậtlẽ phải. Chúng tathể không tin tưởng Bồ tát Quan Âm là có thật, nhưng hạnh nguyệntinh thần từ bi cứu độ chúng sinh, và giá trị xóa bỏ truyền thống tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của xã hội thì không thể phủ nhận.

 

Vạn Hạnh, rằm tháng Giêng năm Kỷ Sửu

 



[1] Nhiều phụ nữ theo đạo Hindu ở một số vùng tại Ấn Độ sẽ tự thiêu sống mình nếu như chồng họ không may bị chết vì bất cứ lý do gì. 

[2] HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng Bộ” tập 1, Viện NCPHVN ấn hành, 1993, trang 194.

[3] HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tăng Chi Bộ”, tập 3, Viện NCPHVN ấn hành, 1996, trang 653 (Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn: Nữ nhân sau khi xuất gia…có thể chứng quả gì? Này Ananda, sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, trong pháp và luật do Như Lai thuyết giảng, nữ nhân có thể chứng được Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Lai hay A La Hán quả.)

[4] “Tỳ Ni Mẫu Kinh”(毘尼母經), (CBETA, T24, no. 1463, p. 818, b16-c6). Trong kinh này, Tôn giả Ca Diếp quở trách A Nan: vì A Nan xin Phật cho người nữ xuất gia, nên Phật pháp gặp phải 10 việc không may, như vì người nữ xuất gia cho nên Phật pháp bị hoại diệt trước 500 năm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7158)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
(Xem: 6951)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
(Xem: 9681)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
(Xem: 23208)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
(Xem: 8157)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20613)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19597)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18480)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16321)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15982)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19159)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14387)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9685)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8782)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8243)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8951)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 11035)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9177)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8948)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 8004)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9137)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35703)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8605)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15164)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8740)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15353)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9210)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8881)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9404)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8516)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10353)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7707)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9595)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7560)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17295)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15079)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9554)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20937)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9252)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7204)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17772)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17703)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25894)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7861)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9954)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7303)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9691)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8174)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9140)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7448)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8825)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7956)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8391)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7571)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8771)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8200)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8925)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7330)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 14051)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7154)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant