Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Lý Học Trong Giáo Lý Nguyên Thủy

11 Tháng Sáu 201410:03(Xem: 7776)
Tâm Lý Học Trong Giáo Lý Nguyên Thủy

TÂM LÝ HỌC
TRONG GIÁO LÝ NGUYÊN THỦY


Thích Viên Giác

I. DẪN NHẬP:

Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng. Đạo Phật chú trọng vào yếu tố tâm thức của con người bởi lẻ: một là con người là chủ nhân của chính nó, chứ nó không phải là sản phẩm sáng tạo của thượng đế. Hai là tâm thứctác dụng chi phối rất lớn đối với đời sống con ngườixã hội, vì tâm thứcđộng lực của ngôn ngữhành vi.

Triết học phương Tây thường đưa ra những lập luận như tâm có trước hay vật có trước, tinh thần là trên hết hay vật chấtquyết định.v..v.. Đó là những vấn đề của sự tranh luận, mà Đạo Phật không màng đến. Chú trọng khảo sát tâm lý, Đạo Phật nhận thức rằng tâm thức con người đóng vai trò chính trong việc kiến tạo đời sống hạnh phúc hay khổ đau, như tronh kinh Pháp Cú Đức Phật dạy:" Trong các pháp,tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm ô nhiễm để nói năng hay hành động thì quả báo đau khổ sẽ đi theo như bánh xe lăn theo con vật kéo xe. Ngược lại nếu đem tâm thanh tịnh để nói năng hay hành động thì quả tốt đẹp đi theo như bóng theo hình". Nói tâm dẫn đầu, tâm làm chủ không có nghĩa là chủ trương tâm có trước vật hay là tinh thần quyết định vật chất, như trong triết học phương Tây quan niệm, Đức Phật muốn nói đến động cơ của hiện tượng khổ đau hay hạnh phúc, tức là cái điều kiện chính của hiện tượng khổ vui. Đây là một kinh nghiệm thực tiển chứ không phải là một hệ thống triết lý.

Sự khác nhau của Tâm lý học Phật giáoTâm lý học phương Tây ở chổ phương Tây phân tích các hiện tượng tâm lý chứ không đi sâu vào bản chất của tâm lý, nhận thức giá trị của tâm lý, củng cố phát triển chúng, mục đíchthỏa mãn các nhu cầu tâm lý như là một phương thức thể hiện sự hạnh phúc.

Tâm lý học Phật giáo cũng phân tích các hiện tượng tâm lý nhưng đánh giá phân loại rồi định hướng chúng và vấn đề quan trọng là chuyển hóa tâm lý trở thành trong sạch để đạt đến mục đích hạnh phúc chân thật. Hạnh phúc chân thật ấy phải là từ bỏ các tâm lý ô nhiễm, vốn thuộc về bản năng và gây đau khổ cho con người vàtha nhân . Như vậy Tâm lý học Phật giáo không thuần tuý là vấn đề tâm lý mà còn là vấn đề của luân lý học,đạo đức học và giải thoát học.

II. TÍNH THỰC TIỂN CỦA TÂM LÝ HỌC PHẬT GIÁO

Trong kinh Pháp Cú Phât dạy:

" Đừng làm các điều ác

Hãy làm các điều lành

Giữ tâm ý trong sạch

Là lời chư Phật dạy"

Lời Phật có 3 điều : một là không làm các điều ác, tức là không thực hiện các hành động về thân thể hay ngôn ngữ làm tổn hại đến mình và tha nhân, nghĩa là không làm tổn thương về thân thể, về tâm lý hay tình cảm… của con người . Mới nhìn qua ta thấy đây là vấn đề của luân lý nhưng nếu nhìn sâu ta sẽ thấy đây là vấn đề cơ bản của giải thoát .Làm điều ác xuất phát từ tâm lý ô nhiểm như tham, sân si… khi đình chỉ được điều ác thì có nghiã là sự ô nhiểm của tâm đã được kiểm soát.Chế ngự được tâm ác là bước đầu của lộ trình thoát khổ. Hai làlàm các điều lành ,xuất phát từ tâmtích cựcthanh tịnh,làm lành là vấn đề đạo đức, đạo đức cũng là cơ sở của giải thoát hay của hạnh phúc.Điều ác không được đoạn trừ,điều lành không được phát triển thì vấn đề thanh lọc tâm thức không thể thành tựu.

Tính thực tiển của Tâm lý học Phật giáo rất rõ qua phát biểu của điều thứ 3 là giữ tâm ý trong sạch, nguyên lý thứ 3 là hệ quả của hai nguyên lý : đình chỉ các điều ác và làm các điều lành. Không có hành vi ổn định con người không có tâm lý ổn định, ngược lại tâm lý không ổn định thì hành vi tiếp tục không ổn định. Như vậy Đức Phật không cho rằng tâm lý là tất cả mà tâm lý là nhân tố chính trong quá trình xây dựng hạnh phúc. Sự ức chế về mặt tâm lýđộng lực sản sinh khổ đau, ngược lại sự giải phóng áp lực của tâm là nguồn sống vui tươi giải thoát. Giữ tâm ý trong sạchkiểm soát các động lực ô nhiễm đừng để chúng tự do tàn phá và gây rối loạn và cũng là thiết lập một cơ chế cho hành vingôn ngữ được chuẩn mực. Một khi tâm lý được thanh tịnh hoàn toàn thì mọi áp lực của tâm lý sẽ hoàn toàn bị triệt tiêu, đó là sự giải thoát. Như vậy Tâm lý học Phật giáo không thuần lý,không tách biệt với những kinh nghiệm sống của con người.

III. TÂM LÝ HỌC TRONG GIÁO LÝ CƠ BẢN

1 . Tứ Diệu Đế

Tâm lý học Phật giáoTâm lý học ứng dụng, nhất là Tâm lý học được trình bày trong Kinh Tạng và qua các giáo lý căn bản. Giáo lý Tứ diệu đế được coi là giáo lý nền tảng của hệ thống tư tưởng Phật học, phân tích về tâm lý đã nói lên tính hai mặt của tâm lý : Một là tính ô nhiễm. Hai là tính thanh tịnh. Sau này các luận thư về tâm lý đều nêu bật hai tính nhiễm và tịnh của tâm lý một cách chi tiết. Tâm lý ô nhiễm là những hoạt động tâm lý đưa đến đau khổ phiền muộn, ngược lại tâm lý thanh tịnh thì đưa dến đời sống hạnh phúc an vui.

Khổ là một thực trạng của đời sống nhưng nổi khổ ấy không phải do tự nhiên mà có, không phải do ngẫu nhiên, không phải do thượng đế áp đặt như là một sự trừng phạt con người, mà khổ là kết quả của tâm lý ô nhiễm, nghĩa là sự khổ do con người tạo nên và phải gánh lấy .Năng lực tâm lý ô nhiễm được biểu hiện qua tâm lý tham lam, sân hậnsi mê, sự khổ hiện hữu do 3 loại tâm lý ô nhiễm này hiện hữu ; lập luận kế tiếp là sự khổ sẽ không có mặt nếu 3 loại tâm lý này không tồn tại. Vì vậy phân tích tâm lý qua giáo lý Tứ diệu đế để đưa đến một thái độ : đoạn trừ các tâm lý bất thiện và phát triển những tâm lý thiện. Ở đây cái không nên làm và cái nên làm được nêu rõ : mười điều ác là không nên làm và Bát chánh đạo là điều nên làm. Vậy Tâm lý học Phật giáo có sắc thái đạo đức học và giãi thoát học.

Tính hai mặt của tâm lý, đối ứng với hai mặt khổ đau và hạnh phúc của đời người, vì vậy Tứ diệu đế chú trọng đến đoạn trừ tâm ô nhiễm, tịnh hoá tâm thức, không đi sâu vào tâm lý mang tính trừu tượng như các luận thư về sau. Các trạng thái tâm lý thiền định được khảo sát là những kinh nghiệm thực tiển chứ không phải là các trạng thái tâm lý nằm ngoài khả năng của con người.

2 . Thập Nhị Nhân Duyên

Tâm lý được phân tích qua giáo lý 12 nhân duyên, nói đến quá trình tâm lý ô nhiễm, tức là khảo sát một cách sâu hơn bản chất của tâm ô nhiễm và đưa đến nhận định rằng cơ cấu của tâm thức con ngườiô nhiễm, nhận thức của con người phần lớn là sai lầm . Tâm lý được vận hành bởi động lựcvô minh, một trạng thái mê muội bản năng, nó chi phối mọi hoạt động của tâm lý ô nhiễm, nó như là nền tảng của nhận thức, hay nói cách khác nhận thứcvô minh.

Khổ là một cảm giác, cảm giác ấy bao gồm nhiều điều kiện, vô minh là một điều kiện trong những điều kiện. Vô minhđiều kiện nguồn của dòng sông tâm lý. Nói Vô minh sinh ra Hành là chưa đủ và dễ hiểu lầm rằng chu trình 12 nhân duyên chỉ diễn ra theo chiều thời gian, chiều dọc. Về mặt tâm lý, cảm thọ khổ không phải là kết quả của một quá trình tâm lý đơn giản mà là một sự tổng hợp đồng thời của các điều kiện khác nhau. Do vậy, Tâm lý trong 12 nhân duyên phải được phân tích theo chiều ngang, là chiều của không gian. Vô minhđiều kiện của Hành. Hành là lực vận động của tâm lývật lý ( thân hành, khẩu hành, ý hành ) nếu khôngđộng lực thì không có sự tồn tại, động lực tồn tại của chúng sinh được coi là Vô minh. Hành là biểu hiện của Vô minh, Vô minh nuôi dưỡng Hành và Hành làm cho Vô minh tăng sức mạnh. Tâm lý tồn tại nhờ có động lựcđộng lực ấy là động lực ô nhiễm, cho nên dòng sông tâm lýô nhiễm.

Thức là khả năng phản ánh thế giới hiện tượng, là khả năng phân biệt, là cái biết, và cái biết ấy cũng là biểu hiện của Vô minh. Cho nên các luận thư về sau đồng nhất Thức với Vô minh, và khi đề cập đến cái biết không bị Vô minh tác động thì dùng từ Trí ( Trí tuệ ) như nói :" Chuyển thức thành Trí" ( Chuyển 8 thức thành 4 trí ). Bản chất của thức là Vô minh và lực vận động của Hành làm cho Thức trở thành mê lầm. Vì vậy dưới sự biểu hiện của thức trở thành 2, đó là thế giới của chủ thể và đối tượng, diễn tiến tâm lý bao giờ cũng phải có chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức, do vậy thế giới hiện tượngthế giới của tâm lý chứ không là thế giới khách quan. Chủ thể ở đây là Danh ( tinh thần ). Đối tượng ở đây là Sắc ( vật chất ), tinh thầnvật chất là biểu hiện của thức.Luận thư Duy Thức về sau dựa trên cơ sở này mà xây dựng học thuyết Duy Thức của mình. Cơ sở của chủ thể và đối tượng sinh khởi là 6 giác quan ( lục nhập ) tiếp xúc với đối tượng của chúng (xúc ), sự tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng mới nhìn như là một sự tiếp xúc thuần vật lý, nhưng thực ra đây còn là một kích thích của tâm lý nữa.

Thọ là cảm giác, đây là một yếu tố tâm lý quan trọng vì cảm giác là sự biểu hiện rõ nét của tiến trình tâm lý mà ai cũng tự cảm nhận được. Thọ được trình bày trong Kinh Tạng có 3 loại : cảm thọ khó chịu, cảm thọ dễ chịu, và cảm thọ trung tính.Tuy nhiên Thọ trong tiến trình 12 nhân duyên nghiêng về khía cạnh dễ chịu ( lạc thọ, hỷ thọ ) có lẽ muốn nói đến bản năng hưởng thụ hay bản năng hướng đến hạnh phúc của đời sống con người. Hạnh phúc là nhu cầu tối hậu của con người, hạnh phúccon người tìm kiếm là sự cảm xúc dễ chịu của tâm lý thọ. Như đã nói, sự vận động của dòng sông tâm thức xuất phát từ động lực Vô minh nên mọi diễn biến đều nhuộm màu đen tối, ước vọng hạnh phúc hay cái được coi là hạnh phúc thực chất là mặt khác của khổ đau. Tiếp theo sau cảm giác vui sướng là sự hài lòng, sự thỏa mãn gọi là ái. Đối với tiến trình tâm lý thì ái là tâm lý biểu hiện mạnh mẽ và kết thúc chu trình của tâm thức, nó trở thành một năng lực tổng hợp để tạo thành một tác dụng trong tâm thức hay trong hành động của con người và tất nhiên Vô minh được biểu hiện trong ái là mạnh nhất .Trong 12 nhân duyên A? được coi là then chốt cho vòng tròn sinh tử .

Thủ là sự vướng mắc, sự nắm bắt, sự giữ gìn bảo thủ hay sự ghi nhận một kinh nghiệm, tâm lý này chỉ là một hệ quả của A? mà thôi . Phân tích các yếu tố tâm lý trong 12 nhân duyên có vẻ như là một diễn biến tâm lý theo thứ tự và có thời gian nhưng trên thực tế thì chúng diễn ra rất nhanh gần như đồng thời, có thể nói trong một ý niệm là có đủ 12 nhân duyên . Tâm lý chấp thủ là sự biểu hiện của A? hay là của sự thỏa mãn, đây là yếu tố tâm lý mang tính ích kỷ mà về sau luận thư Duy Thức phân tích sâu hơn căn nguyên của chúng và thức Mạt na là cội nguồn của sự chấp thủ này. Sự chấp thủ, về mặt nổi là hệ quả của A? nhưng nó cũng là biểu hiện của động lực Vô minh, nó hình thành một bản năng sinh tồnbản năng hưởng thụ, bảo vệ cái hạnh phúc từ chối cái khổ đau.

Tóm lại, xuất phát từ sự không thấy, không biết rõ (Vô minh) về chính mình, về tha nhân và về thế giới mà trong đó mình sống. Trên cơ sở không thấy rõ, và thái độ tự vệ con người nhận thức thế giới chung quanh như là đối tượng tách rời với chính mình. Do tự vệ con người xô đẩy các đối tượng bất lợi, không vừa ý càng xa càng tốt và nắm bắt các đối tượng có lợi và vừa ý càng chặt càng hay. Do vậy con người liên tục xô đẩy và nắm bắt suốt cuộc đời của mình một cách khốn khổ, thế giới như vậy như là một biển khổ mênh mông.Khi thương một người thì bạn luôn cố gắng tạo mọi điều kiện để tiếp cận người ấy, dụ dỗchinh phục người ấy. Vì bạn cho rằng đây là đối tượng đem đến cho mình niềm vui và hạnh phúc, bạn không muốn ai chia xẻ tình thương của người ấy, người ấy là của bạn, bạn phải giữ gìn bảo vệ cái của bạn. Như vậy có hai vấn đề xảy ra: Một là bạn phải đấu tranh, xô đẩy những ai và những gì có khả năng cướp mất đối tượng của bạn,do vậy bạn có thể chống cả thế giới. Hai là bạn phải đấu tranh với tính khí của người ấy vốn luôn luôn muốn thoát ra ngoài sự trói buộc của bạn. Ba là bạn phải đấu tranh với chính bản thân của mình, nghiã là về tâm lý bạn vẫn bị những cảm giác mất mác, chán chường làm cho niềm vui của bạn bị pha loảng, chúng ta sẽ phải tiếp tục chịu đựng sự rối loạn bất an còn niềm hạnh phúc thì vẫn chập chờn phía trước, như vậy tâm lý luôn bị khủng hoảng, luôn bị áp lực. Sự giãi phóng áp lực tâm lýđiều kiện của hạnh phúc hoàn toàn, là mục tiêu của mọi đường lối tu tập.

3. Ngũ Uẩn

Phân tích tâm lý theo giáo lý 5 uẩn, chúng ta nhận thấy con người được phân tích thành năm lĩnh vực, hay nói cách khác con người là hợp thể của 5 yếu tố: yếu tố vật lýyếu tố tâm lý. Yếu tố tâm lý có 4 khía cạnh : cảm giác, tri giác, ý chínhận thức. Có nhiều cách phân tích về 4 yếu tố tâm lý này, tuỳ theo cái nhìn của các trường phái tư tưởng Phật giáo, có nơi phân tích tâm lý theo chiều dọc thời gian như cảm giác đến trước rồi tri giác, rồi các xử lý của ý chí, rồi đến sự ghi nhậngiữ gìn trong tâm thức chiều sâu. Có nơi phân tích theo chiều không gian cảm giác phần cạn, tri giác sâu hơn ý chí và thức đi vào vi tế sâu sắc hơn nó ẩn kín bên trong.

Trước hết chúng ta thấy rằng tâm lývật lý là mối quan hệ bất khả phân, điều này xuyên suốt lịch sử Tâm lý học Phật giáo bất cứ thời kỳ và trường phái nào, sắc pháp bao giờ cũng hiện hữu bên cạnh tâm pháp. Sắc uẩn bao gồm mọi yếu tố vật lý thân thể và môi trường sống. Diễn biến tâm lý được phân tích là những nhóm tâm lý cùng tính chất: nhóm cảm giác bao gồm những cảm xúc bởi thế giới bên ngoài và thế giới bên trong, nếu nhìn riêng lẽ thì cảm giác thuần tuý không đưa đến một tác dụng tích cực nào, chỉ đơn giản là một phản ứngđiều kiện, nhưng nếu nhìn cảm giác trong mối quan hệ chung thì trong cảm giác có đầy đủ 4 yếu tố vật lý, tri giác, ý chí, và nhận thức. Nếu như vậy thì cảm giác có một tác dụng tích cực đối với dòng sông tâm thức con người, thậm chí nó đóng vai trò chủ yếu trong đời sống con người, vì con người sống với mục đích hướng đến cảm giác hạnh phúc.

Nhóm Tri giác bao gồm những nhận biết các đối tượng bên ngoài hay bên trong chính là những kinh nghiệm, nếu khôngkinh nghiệm con người sẽ không nhận ra được cái gì cả. Nhận biết là sự đối chiếu những tướng trạng đã có với cái đang có, nếu đặt Tri giác trong mối quan hệ chung thì có lúc Tri giác có mặt trước cảm giác, và có lúc thì sau cảm giác. Ví dụ, như khi thấy ấm nước bốc hơi biết là nước sôi một cảm giác hài lòng vì sẽ có tách trà nóng, đó gọi là Tri giác đến trước; còn nếu như ta sờ tay ấm nước cảm giác nóng và động của ấm nước làm ta khó chịu và ta biết nước sắp sôi, đây là trường hợp cảm giác có trước. Nếu chỉ là tri giác thuần tuý thì chúng không đưa đến một tác dụng tích cực nào, nếu chúng liên hệ với các yếu tố tâm lý khác thì mới đủ khả năng tạo nên một tác dụng (tạo nghiệp).

Trong Tâm lý học phổ thông cảm giáctri giác được gọi là nhận thức cảm tính và cho rằng Tri giácnhận thức cao hơn cảm giác. Giáo lý 5 uẩn cho rằng trong mối quan hệ của chúng, cảm giáctri giác dựa vào nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể mà chúng có tác dụng mạnh hay yếu.

Yếu tố tâm lý thứ 3 là Hành, tức là hoạt động của tư duy, bao gồm các hoạt động tâm lý mạnh mẽ, xác định,có tính chủ ý, tính quyết định như các tâm lý ham muốn, giận dữ, thương yêu, ghét bỏ... những tâm lý này có năng lực để tạo ra hậu quả, tức là tạo nghiệp. Hành là loại tâm lýtác dụng thúc đẩy tạo nên hành vingôn ngữ, do vậy trong kinh Phật dạy Hành có tâm hành, khẩu hành, và thân hành. Nếu nói một cách dễ hiểu thì hành là những tâm lý tính toán, quyết địnhtính cách ý chí, nghĩa là vẫn ở phạm vi mặt nổi của tâm lý. Tuy nhiên nếu nói một cách tế nhị thì Hành là động lực sâu kín, là sự vận động của hệ thống tâm thức theo xu hướngtính chất đã được tích luỹ. Do sự vận động của tâm Hành sâu kín mà ta có những biểu hiện nằm ngoài kiểm soát của ý thức, chúng thuộc bản năng và tự phát. Tuỳ thuộc vào tính chất của Hành mà con người có những biểu hiện khác nhau; mỗi người là mỗi thế giới, chúng ta rất khó phán đoán động cơ của hành vi con người, ví dụ như một người có một nghĩa cử cao đẹp như cứu giúp một người khốn khổ động cơ mà anh ta làm điều tốt ấy đôi khi chỉ là do xúc động bởi một ánh mắt của đối tượng. Tại sao có sự xúc động ấy ? Đó là tác dụng sâu kín của Hành.

Yếu tố tâm lý thứ 4 là thức. Thúc là khả năng phản ánh mọi đối tượng bên ngoài hay bên trong, chức năng của thức là nhận ra sự có mặt của đối tượn, là nền tảng chung cho mọi hoạt động tâm lý. Những tâm lý thuộc về cảm giác, tri giác, ý chí đều nương vào nền tảng là thức. Nói cách khác Thúc là bản thể tâm lý còn cảm giác , tri giác, ý chí... là hiện tượng tâm lý . Sau này các luận thư tâm lý học Phật giáo gọi thức là Tâm vương và các hiện tượng tâm lýtâm sở . Thức phải có mặt thì các tâm lý khác mới có cở hoạt động, mối quan hệ giữa thức và những hiện tượng tâm lý khác là bất khả phân ly. Chức năng của thức tương tự như một tấm kiếng phản ánh tất cả những đối tượng đi ngang qua nó, tuy vậy không nên hiểu thức là một thực thể cứng đơ như tấm kiếng, mà thức thì rất sinh động vì mối tương tác giữa các diễn biến tâm lý.

Phần tâm lý được phân tích thành 4 phần là một cách chia để dễ khảo sát, rất gượng ép và dễ hiểu lầm rằng mỗi phần có một ranh giới riêng. Thực ra khi một đối tượng được nhận thức thì mọi tâm lý đều sinh khởi, tuỳ theo sự kích thích của đối tượng mạnh hay yếu và tuỳ theo sự nhạy cảm của các quan năng mà nhận thứcnhận thức thuần tuý hay là nhận thứctác dụng thúc đẩy hành vi.

Phân tích tâm lý của con người dựa trên nền tảng, một năng lực Thức phổ quát, là một phát hiện độc đáo trong lịch sử tâm lý học, đó là cơ sở để các luận thư tâm lý học Phật giáo về sau phát triển và giải quyết các vấn đề nhu yếu của tâm thức.

Tóm lại phân tích tâm lý qua giáo lý 5 uẩn cho thấy 2 mặt của tâm lý: bản thểhiện tượng. Thấy rõ các mối quan hệ bất khả phân của các hiện tượng tâm lý. Mặt khác sự bất khả phân giữa tâm lývật lý, nội dung hoạt động tâm lý không có một chủ thể độc lập, cố định, giá trị riêng tư nào. Do vậy con người là một tổng hợp vủa các hiện tượng tâm lý , vật lý. Không phải tồn tại như một đối tượng của tư duy, khái niệm mà là của thực tại vô thường , khổ, vô ngã.

IV. KẾT LUẬN

Tâm lý học Phật giáo qua giáo lý Nguyên thuỷ là tâm lý học ứng dụng vào thực tiển của đời sống chứ không phải là những lý luận khô khan,siêu hình, mục đích là:

- Cung cấp phương pháp nhận thức về con người chính mình.

- Tìm cách thay đổi tình trạng đau khổ do rối loạn tâm lý .

- Giúp con người định hướng tư duy và hành động để đem đến sự chân thiện cho đời sống .

- Giúp con người đi sâu vào đời sống nội tâm để giãi phóng những ức chế tâm lý, những kết tụ của các năng lượng khổ đau và vô minh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7994)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7711)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6927)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13802)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7515)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9297)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7836)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7751)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7327)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7716)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7455)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8654)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 11057)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15398)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19169)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14865)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8806)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8822)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14628)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15259)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8522)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 10964)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11314)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8704)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9064)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19727)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24639)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8786)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9131)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10787)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 9005)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7907)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8796)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8270)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7287)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 11093)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7367)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8259)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17614)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44190)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45468)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 45029)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10599)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8534)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7547)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7568)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7365)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12083)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 7911)
Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa?
(Xem: 8416)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9156)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 8082)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8875)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 7988)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8166)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8663)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16337)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
(Xem: 7133)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
(Xem: 6924)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
(Xem: 9624)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant