Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vị Trí Của Thiền Quán Trong Tu Tập Phật Giáo

11 Tháng Sáu 201421:32(Xem: 12604)
Vị Trí Của Thiền Quán Trong Tu Tập Phật Giáo

VỊ TRÍ CỦA THIỀN QUÁN TRONG TU TẬP PHẬT GIÁO

(A Tool Among Many: The Place of Vipassana in Buddhist Practice )

Tác giả: Thanissaro Bhikkhu
Việt dịch: Trần Như Mai

ducphat_toa_thien-content

thanissaro_bhikkhuĐôi nét về tác giả : Tỷ Kheo Thanissaro ( Geoffrey Degraff, 1949 - ) là một nhà sư Phật giáo người Mỹ, theo truyền thống khổ hạnh Sơn Lâm của Thái Lan ( Thai Forest Tradition). Sau khi tốt nghiệp Đại học Oberlin College năm 1971 về ngành Lịch Sử Tri Thức Âu châu, sư du hành đến Thái Lan và học Thiền dưới sự hướng dẫn của Ajahn Fuang Jotiko, Sư Jotiko là đệ tử của ngài Ajahn Lee. Sư Thanissaro xuất gia năm 1976 và tu học tại chùa Wat Dammasathit, và vẫn ở lại chùa này sau khi sư phụ viên tịch vào năm 1986. Vào năm 1991, sư du hành đến các vùng đồi núi của San Diego County ( Hoa Kỳ), và giúp Ajahn Suwat Suwaco thành lập Chùa Wat Mettavanaram ( Metta Forest Monastery). Sư được chọn làm trụ trì của chùa này vào năm 1993. Sư Thanissaro đã xuất bản nhiều tác phẩm và dịch phẩm, gồm có các cuốn cẩm nang tu thiền của Ajahn Lee dịch từ tiếng Thái sang tiếng Anh : Handful of Leaves ( Một Nắm Lá , là một hợp tuyển kinh tạng Pali gồm 4 tập ); ( The Buddhist Monastic Code (Luật Lệ Tu Viện Phật Giáo, là cẩm nang tham khảo của tăng sĩ , gồm hai tập); Wings to Awakening ( Cánh Cửa Giải Thoát, là một hợp tuyển kinh tạng Pali); đồng tác giả của bộ sách giáo khoa trình độ đại họcBuddhist Religions: A Historical Introduction (Lịch Sử Phật Giáo Nhập Môn ); The Mind Like Fire Unbound ( Tâm Như Lửa Cháy Bùng ); The Paradox of Becoming ( Sự Mâu Thuẫn của Hữu); The Shape of Suffering (Sự Hình Thành của Khổ ); Dhammapada : A Translation ( Bản Dịch Kinh Pháp Cú ); Skill in Questions ( Kỹ Năng Đặt Câu Hỏi)… và Collections of Essays on Buddhist Practice (Tuyển Tập các Bài Luận về Tu Tập Phật Giáo) cũng như hằng trăm bài pháp thoại đã được phiên tả và xuất bản…Hiện nay Tỷ Kheo Thanissaro vẫn là Trụ trì Tu viện Metta Forest Monastery ( San Diego, Hoa Kỳ).

_____________________________

Thiền quán (Vipassana) chính xác nghĩa là gì ?

Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉ (samatha) và Thiền quán (vipassana). Thiền chỉ ( Samatha), nghĩa là định tĩnh, được xem là một phương pháp nuôi dưỡng những trạng thái hành thiền thâm sâu mạnh mẽ gọi là nhập định ( Jhana). Thiền quán (Vipassana) - nghĩa đen là “ thấy rõ ”( minh sát), nhưng thường vẫn được phiên dịchThiền quán – được xem là một phương pháp sử dụng một khoảng thời gian tĩnh lặng để nuôi dưỡng chánh niệm từng khoảnh khắc về tính bất định của các ý niệmhành giả trực tiếp cảm nghiệm trong giây phút hiện tại. Chánh niệm này tạo ra cảm giác không còn tham đắm trước mọi hiện tượng, như vậy đưa tâm đến chỗ giải thoát khỏi khổ đau. Chúng ta được cho biết rằng hai phương pháp này hoàn toàn tách biệt nhau, và trong hai phương pháp này, Thiền quán là sự đóng góp nổi bật của Phật giáo vào khoa học thiền định. Những hệ thống tu tập khác trước thời Đức Phật cũng đã dạy về Thiền chỉ, nhưng Đức Phật là vị thầy đầu tiên khám phá và giảng dạy Thiền quán. Mặc dù một số hành giả Phật giáo có thể thực tập Thiền chỉ trước khi chuyển qua Thiền quán, tu tập Thiền chỉ không thật sự cần thiết cho mục đích đạt đến giác ngộ. Là một công cụ hành thiền, phương pháp Thiền quán cũng đủ để đạt được mục tiêu giác ngộ. Chúng ta được cho biết như vậy.

Nhưng nếu bạn nhìn trực tiếp vào các văn bản kinh Pali – là nguồn giáo lý của Đức Phật thời cổ sơ vẫn còn tồn tại ngày nay – bạn sẽ thấy rằng mặc dù các kinh văn có dùng chữ Samatha với ý nghĩa là ‘định tĩnh’, và Vipassana với nghĩa là ‘ thấy rõ ’, tuy thế các kinh ấy không xác nhận phần trí tuệ mà các từ đó đã nhận được. Chỉ vài dịp hiếm hoi kinh có dùng chữ Vipassana – trái ngược hẳn với từ Jhana được kinh sử dụng thường xuyên. Khi kinh mô tả Đức Phật dạy bảo các đệ tử đi hành thiền, kinh chưa bao giờ ghi nhận Ngài nói rằng “Hãy đi tu tập thiền quán (Vipassana), nhưng luôn luôn kinh ghi rằng “ Hãy đi tu tập định” (Jhana).Và các kinh văn cũng chưa bao giờ dùng từ Vipassana để chỉ ý nghĩa tương đương với bất cứ một kỹ thuật thiền chánh niệm nào. Trong một vài trường hợp kinh có đề cập từ Thiền quán (Vipassana), kinh hầu như luôn luôn dùng từ này đi cùng với Thiền chỉ (Samatha) – không phải như là hai phương pháp thay thế nhau, nhưng là hai phẩm chất của tâm mà hành giả có thể ‘ hành trì để đạt được’ hay do ‘ thiên phú ’, và cả hai cần phải được tu tập với nhau. Chẳng hạn, một ví dụ (Tương Ưng bộ Kinh 35-204), so sánh Thiền chỉThiền quán như một cặp sứ giả cực nhanh đi vào thành trì của Thân qua Bát Chánh Đạo và dâng bản phúc trình chính xác của họ - giải thoát mọi trói buộc, hay là Niết Bàn - cho Thức đang hoạt động như vị tư lệnh của thành trì. Một đoạn kinh khác, ( Tăng Chi Bộ Kinh 10. 71) khuyến nghị rằng bất cứ ai muốn chấm dứt mọi phiền não thì hãy dấn thân thực hành Thiền chỉ và phát triển Thiền quán – ngoài việc nỗ lực hoàn thiện các qui định về giới luậttu tập hạnh viễn ly. Câu cuối này tự nó không có gì đáng chú ý, nhưng cũng bài kinh này đã đưa ra cùng lời khuyên như vậy cho bất cứ ai muốn đạt đến nhập định (jhanas) là : hãy dấn thân thực hành Thiền chỉ và phát triển Thiền quán. Điều này gợi ý rằng, trong mắt của những vị tập hợp kinh tạng Pali, Thiền chỉ, nhập định, và Thiền quán , tất cả chỉ là thành phần của một con đường mà thôi. Thiền chỉThiền quán được thực hành cùng với nhau để đạt đến nhập định, và rồi – dựa trên nhập định - tiếp tục phát triển xa hơn để tiến đến chấm dứt mọi cấu uế của tâm và đem lại giải thoát khỏi khổ đau. Điểm này có nhiều bằng chứng hổ trợ trong nhiều kinh khác nữa.

Chẳng hạn, có một đoạn kinh mô tả ba phương cáchThiền chỉThiền quán có thể cùng hoạt động với nhau để đưa đến tri kiến Giải Thoát: hoặc là Thiền chỉ phát triển trước Thiền quán, Thiền quán phát triển trước Thiền chỉ, hay là cả hai phát triển cùng một lần với nhau (Tăng Chi Bộ Kinh 4,170). Lời kinh gợi ý một hình ảnh ẩn dụ về hai con trâu kéo một cái xe cày : một con đi trước con kia hay cả hai con cùng được buộc vào cái cày song song với nhau. Một đoạn kinh khác ( Tăng Chi Bộ Kinh 4, 94) chỉ rõ rằng nếu Thiền chỉ phát triển trước Thiền quán - hay Thiền quán trước Thiền chỉ - thì việc hành thiền của hành giả ở trong trạng thái mất quân bìnhcần phải sửa chữa. Một hành giả đã đạt được một mức độ nào đó của Thiền chỉ, nhưng ‘ không có Thiền quán các hiện tượng dựa trên sự tăng cường chất vấn tìm hiểu, ‘ cần phải hỏi một hành giả đồng tu đã phát triển Thiền quán: “ Các hành / hiện tượng (sankhara) cần được xem xét như thế nào ? Chúng cần phải được quán sát như thế nào? Với tuệ giác, chúng phải được nhìn thấy như thế nào?” và rồi phát triển Thiền quán theo đúng như lời chỉ dẫn của vị ấy. Những động từ trong các câu hỏi này –‘ xem xét’, ‘ quán sát’ , ‘nhìn thấy’ – chỉ rõ rằng cần có nhiều việc phải làm trong quá trình phát triển Thiền quán chứ không phải chỉ là một kỹ thuật chánh niệm. Thật ra thay vào đó, như chúng ta sẽ thấy sau đây, những động từ ấy áp dụng cho một tiến trình tìm tòi học hỏi thiện xảo gọi là “ như lý tác ý’ ( yoniso manasikara = appropriate attention).

Trường hợp ngược lại – một hành giả đã phát triển một mức độ Thiền quán các hiện tượng dựa trên sự tăng cường chất vấn tìm hiểu, nhưng không có Thiền chỉ - cần phải hỏi một hành giả khác đã đạt được Thiền chỉ : “ Làm thế nào để tâm vững chải ? Làm thế nào để tâm an trú? Làm thế nào để hợp nhất tâm ? Làm thế nào để định tâm ? ” và rồi hãy làm theo lời chỉ dẫn của vị ấy để có thể phát triển được Thiền chỉ. Những động từ được sử dụng ở đây cho ta cảm tưởng rằng ‘ Thiền chỉ ’ trong văn cảnh này chính là nhập định (jhana). Cảm tưởng này được củng cố khi chúng ta ghi nhận rằng trong mọi trường hợp khi các bài kinh nói rõ ràng về các mức độ định cần thiết để tuệ giác có thể phát sinh, những mức độ ấy chính là nhập định / nhập các tầng thiền ( jhanas).

Một khi hành giả đã phát triển cả Thiền chỉ lẫn Thiền quán, vị ấy cần phảinỗ lực thiết lập những phẩm chất thiện xảo này tiến lên một mức độ cao hơn để đoạn trừ các lậu hoặc (asava). Điều này tương ứng với con đường Thiền chỉThiền quán cùng phát triển với nhau. Một đoạn trong Trung Bộ Kinh số 149 mô tả việc này xảy ra như thế nào. Hành giả nhận biết và thấy, đúng như thật tướng của chúng , sáu căn ( năm căn cọng với Thức là sáu), đối tượng của sáu căn ( là sáu trần), ý thức sinh khởi từ mỗi căn, sự tiếp xúc của mỗi căn, và bất cứ những gì được cảm nhận như là lạc, khổ, hay bất lạc bất khổ khởi sinh từ sự tiếp xúc đó. Hành giả duy trì sự tỉnh giác này bằng cách giữ tâm không bị lôi cuốn theo những cảm thọ ấy, không dính mắc, không hoang mang, chú tâm vào những điểm bất lợi của chúng, từ bỏ mọi khát ái đối với chúng: trạng thái này được xem nhưThiền quán. Cùng lúc đó – từ bỏ mọi phiền não về thân và tâm, những dằn vặt, sầu muộnhành giả cảm nhận được an lạc trong thân và tâm: trạng thái này được xem nhưThiền chỉ. Việc tu tập này không những chỉ phát triển Thiền chỉThiền quán cùng một lần với nhau, mà lại còn đưa 37 Cánh Cửa Giải Thoátbao gồm cả nhập định – đến mức phát triển tột đỉnh .

Như vậy, con đường đúng đắncon đường trong đó Thiền chỉThiền quán được quân bình, phẩm hạnh này này hổ trợ và hoạt động như người kiểm soát phẩm hạnh kia. Thiền quán giúp giữ gìn sự an tịnh khỏi trở trên trì trệ và buồn chán. Thiền chỉ giúp ngăn chận những biểu hiện của sân hận – như là buồn nôn, chóng mặt, mất phương hướng, và thậm chí hoàn toàn đờ đẫn – chúng có thể xảy ra khi tâm bị mắc kẹt trong một trạng thái ngược lại với ý muốn của nó trong giây phút hiện tại.

Từ sự mô tả này, rõ ràngThiền chỉThiền quán không phải là hai con đường tách rời nhau trong tu tập, nhưng là hai pháp môn liên hệ đến giây phút hiện tại mang tính chất bổ sung cho nhau: Thiền chỉ cho hành giả một cảm giác an lạc trong hiện tại: Thiền quán cho hành giả một cái nhìn sáng suốt về các hiện tượng đang xảy ra đúng như thực tướng của chúng. Điều này rõ ràng cho thấy tại sao hai pháp môn này cần phải hoạt động với nhau để đạt đến nhập định. Như những lời hướng dẫn tiêu chuẩn về pháp Quán Niệm Hơi Thở đã chỉ rõ (Trung Bộ Kinh 118), việc đạt đến nhập định liên hệ đến ba tiến trình: hỷ lạc, định tâm, và giải thoát tâm. Hỷ lạc nghĩa là có một cảm giác vui tươihài lòng trong hiện tại. Định tâm là giữ vững sự chú tâm vào đối tượng thiền quán, trong lúc giải thoát tâm nghĩa là giải phóng tâm khỏi các yếu tố thô thiển ở tầng định thấp hơn để có thể tiến lên tầng định cao hơn. Hai tiến trình đầu là chức năng của Thiền chỉ, trong lúc tiến trình cuối cùngchức năng của Thiền quán. Cả ba tiến trình phải hoạt động với nhau. Ví dụ, nếu có Thiền chỉhỷ lạc, nhưng không có buông xả, tâm sẽ không thể nào thanh lọc để đạt mức độ định cao hơn. Những yếu tố cần phải được buông bỏ để nâng cao định từ giai đoạn X đến giai đoạn Y thuộc về toàn bộ những yếu tố đã đưa tâm đến giai đoạn X trước đây ( Tăng Chi Bộ Kinh 9, 34). Không có khả năng thấy rõ những tâm hành trong hiện tại, hành giả sẽ không có cách nào giải thoát tâm một cách thiện xảo khỏi chính những chướng ngại đã trói buộc tâm vào trạng thái định thấp hơn và hoạt động như những cản trở tâm tiến lên một mức độ định cao hơn. Mặc khác, nếu hành giả chỉ buông bỏ những yếu tố đó, mà không có niềm hoan hỷ hay vững chải trong sự an tịnh hiện có, tâm sẽ hoàn toàn ra khỏi định. Như vậy, Thiền chỉThiền quán phải cùng nhau hoạt động để đưa tâm đến chánh định một cách thiện xảo.

Một câu hỏi được đặt ra: nếu Thiền quánchức năng đưa đến nhập định, và nhập định không phải là pháp môn đặc thù của Phật giáo, vậy thì cái gì trong Thiền quán là thuộc về Phật giáo ? Câu trả lờiThiền quán tự thân không phải là pháp môn đặc thù của Phật giáo. Điểm rõ ràng thuộc về Phật giáo là (1) phạm vi phát triển của cả Thiền chỉThiền quán ; và (2) phương cách hai pháp môn này phát triển – nghĩa là, cách đặt vấn đề để phát triển chúng; và (3) phương cách chúng được kết hợp với cả một kho phương tiện hành thiền để đưa tâm đến giải thoát hoàn toàn.

Trong Trung Bộ Kinh số 73, Đức Phật khuyên một vị tăng đã đạt được định nên tiến lên phát triển Thiền chỉThiền quán để có thể hoàn thiện sáu tuệ giác, tuệ giác quan trọng nhất trong số đó là “ qua sự chấm đứt các lậu hoặc, hành giả ở trong trạng thái ý thức về tâm đã đoạn trừ mọi lậu hoặc, đã được giải thoát, và đã quán chiếu về tâm giải thoát, đã nhận biết và biểu hiện chúng trong bản thân ngay bây giờ và ở đây”. Đây là sự mô tả về mục tiêu của Phật giáo. Một vài nhà luận giải đã khẳng định rằng sự giải thoát này hoàn toànchức năng của Thiền quán, nhưng có những bài kinh đã nói khác hẳn.

Cần ghi nhận rằng giải thoáthai mặt: ý thức về sự giải thoátquán chiếu về tâm đã giải thoát. Ý thức về sự giải thoát xảy ra khi hành giả trở nên hoàn toàn nhàm chán mọi ham muốn: đó là chức năng tối hậu của Thiền chỉ . Quán chiếu về tâm giải thoát xảy ra khi có sự xả ly đối với si mê: đây là chức năng tối hậu của Thiền quán (Tăng Chi Bộ Kinh 2 .30). Như vậy cả Thiền chỉThiền quán đều liên hệ đến bản chất hai mặt của sự giải thoát này.

Kinh Tất Cả Lậu Hoặc ( Sabbasava Sutta - Trung Bộ Kinh 2) nói rằng sự giải thoát của hành giả chỉ có thể “ dứt sạch các lậu hoặc” nếu hành giả nhận biết và thấy theo tinh thần “như lý tác ý ”( yoniso manasikara). Như bài kinh chỉ rõ, ‘ như lý tác ý ’ có nghĩa là đặt những câu hỏi đúng đắn về các hiện tượng, không xem chúng trong tinh thần phân biệt ta/người, hay hiện hữu / không hiện hữu, nhưng trong tinh thần của Tứ Diệu Đế. Nói cách khác, thay vì hỏi “Tôi có hiện hữu không ? Tôi không hiện hữu hay sao ? Tôi là cái gì ?”, hành giả hỏi về một trải nghiệm, “Đây có phải là khổ ? Đâu là nguồn gốc của khổ? Sự chấm dứt khổ ? Con đường đưa đến chấm dứt khổ ?”. Bởi vì mỗi phạm trù liên quan đến một nhiệm vụ, câu trả lời cho những câu hỏi đó xác định một phương hướng hành động: khổ cần phải được hiểu rõ, nguồn gốc của khổ cần phải từ bỏ, sự chấm dứt khổ cần được thực hiệncon đường đưa đến chấm dứt khổ cần được tu tập.

Thiền chỉThiền quán thuộc về phạm trù của con đường giải thoátcần phải được tu tập. Để tu tập, hành giả phải áp dụng ‘ như lý tác ý ’ trong nhiệm vụ hiểu rõ về khổ, vốn bao gồm sự dính mắc của năm uẩn – dính mắc về sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Áp dụng ‘như lý tác ý ’ đối với năm uẩn này có nghĩa là nhìn chúng qua những điểm bất lợi của chúng, như là “ vô thường, khổ, bệnh hoạn, là mũi tên độc, là niềm đau, là phiền não, là đáng kinh sợ, là sự hoại diệt, là trống không, là vô ngã ”.( Tương Ưng Bộ Kinh2. 122 ). Một lọat các câu hỏi, vốn là đặc điểm của Đức Phật, hổ trợ cho phương pháp này: “Uẩn này thường hay vô thường ?” và “ Những gì vô thường là lạc hay khổ ?...Và “ Có đúng không khi cho rằng những gì vô thường, khổ, luôn thay đổi, như là: Cái này là của ta, cái này là tự ngã của ta, cái này là ta ?” ( Tương Ưng Bộ Kinh 22. 59). Những câu hỏi này được áp dụng cho mọi mặt của năm uẩn, dù là “ quá khứ, tương lai hay hiện tại; nội tâm hay ngoại cảnh; thẳng thắn hay tế nhị, thông thường hay siêu phàm, xa hay gần”. Nói cách khác, hành giả đặt những câu hỏi đó đối với tất cả các trải nghiệm qua trung gian của sáu căn .

Cách đặt vấn đề này là một phần của phương pháp dẫn đến một mức độ tri kiến gọi là “ Biết và thấy các pháp đúng như thực tướng của chúng” ( yatha-bhuta- ñana-dassana), khi ấy các pháp được hiểu theo tầm nhìn từ năm góc độ khác nhau: sự sinh khởi, sự đoạn diệt, những điểm bất lợi, sự cám dỗ và sự vượt thoát – sự vượt thoát ở đây là ở chỗ xả ly chúng.

Một số các nhà luận giải đã gợi ý rằng, trong thực hành, tầm nhìn từ năm góc độ khác nhau này có thể đạt được đơn giản bằng cách chú tâm vào sự sinh khởiđoạn diệt của năm uẩn ngay trong giây phút hiện tại; nếu sự chú tâm của hành giả liên tục không ngừng nghỉ, sẽ tự nhiên dẫn đến tri kiến về những mặt bất lợi, sự cám dỗ, và sự vượt thoát, đủ để có thể giải thoát hoàn toàn. Tuy nhiên, các kinh văn không hổ trợ kiểu luận giải này, và kinh nghiệm thực tế lại có vẻ như ủng hộ điều này. Như Kinh Trung Bộ số 101 chỉ rõ, từng cá nhân hành giả sẽ khám phá ra rằng, trong một vài trường hợp, họ có thể phát triển sự nhàm chán đối với một vài loại khổ đặc biệt nào đó chỉ bằng các theo dõi chúng với tâm xả; nhưng trong những trường hợp khác, họ cần phải nỗ lựcý thức để phát triển sự nhàm chán đưa đến sự vượt thoát. Bài kinh còn mơ hồ - có lẽ cố ý như vậy – về phương pháp nào sẽ hoạt động hữu hiệu ở hoàn cảnh nào. Đây là điều mà mỗi hành giả phải tự mình thử nghiệm cho chính mình trong thực hành.

Kinh Tất Cả Lậu Hoặc còn mở rộng điểm này bắng cách liệt kê bảy phương pháp cần thực hành để phát triển tâm nhàm chán. Thiền quán, như một phẩm chất của tâm, có liên hệ đến cả bảy phương pháp, nhưng liên hệ trực tiếp nhất đến phương pháp đầu tiên, đó là ‘thấy’, nghĩa là thấy các hiện tượng theo tinh thần của Tứ Diệu Đế và những nhiệm vụ thích hợp đối với các hiện tượng ấy. Sáu phương pháp còn lại bao gồm cách thức thực hiện những nhiệm vụ ấy: chế ngự tâm để không tập trung vào các dữ kiện thuộc về giác quan vốn có thể gợi lên những tâm hành bất thiện; suy ngẫm về những lý do chính đáng để sử dụng những nhu cầu cần thiết như thực phẩm, y áo, chỗ ở và thuốc men; biết chịu đựng các cảm giác đau khổ ; tránh những nguy hiểm rõ ràng và những kẻ đồng hành không thích hợp; đoạn trừ các ý tưởng về ham muốn dục lạc, sân hận, những tâm hành tổn hại và những tâm hành bất thiện khác; và phát triển bảy chi phần của Giác ngộ ( Thất Giác Chi) là: niệm, trạch pháp, tinh tấn, khinh an, định và xả .

Mỗi phương pháp ấy lại bao gồm nhiều phương cách nhỏ . Ví dụ, dưới phương pháp ‘ đoạn trừ ’, hành giả có thể loại bỏ một tâm hành bất thiện bằng cách khởi lên một tâm hành thiện để thay thế, tập trung vào những điểm bất lợi của nó, không còn chú ý đến nó nữa, giải tỏa tiến trình vọng tưởng tạo ra nó, hay trấn áp nó với sức mạnh của ý chí hành giả ( Trung Bộ Kinh 20). Nhiều ví dụ tương tự có thể rút ra từ những bài kinh khác nữa. Điểm chung nhất là các phương cách vận hành của tâm là đa dạng và phức tạp. Những cấu uế khác nhau có thể hiện hình dưới nhiều dạng khác nhau và tương ứng với nhiều phương pháp khác nhau. Kỹ năng của môt hành giả là ở chỗ nắm vững nhiều phương pháp khác nhau và phát triển tính nhạy bén để biết phương pháp nào sẽ hoạt động tốt nhất trong hoàn cảnh nào.

Tuy nhiên, ở mức độ căn bản, trước tiên hành giả cần có động lực mạnh để nắm vững các kỹ năng đó. Bởi vì ‘ như lý tác ý ’ đòi hỏi từ bỏ sự so sánh đối đãi vốn là nền tảng trong khuôn mẫu suy nghĩ của mọi người – như là ‘hiện hữu/ không hiện hữu ’ và ‘tôi/ không phải tôi ’ – hành giả cần có lý lo vững mạnh để chấp nhận nó. Đó là lý do tại sao Kinh Tất Cả lậu Hoặc nhấn mạnh rằng bất cứ ai phát triển ‘như lý tác ýtrước tiên phải biết tôn kính các bậc thánh ( ở đây có nghĩa là Đức Phật và các vị thánh đệ tử đã giác ngộ của Ngài). Nói cách khác, hành giả phải thấy rằng những vị đã đi theo đạo lộ đích thực là những tấm gương mẫu mực. Hành giả cũng cần phải thông hiểu những lời dạy và giới luật của các ngài. Theo Trung Bộ Kinh số 117, “ thông hiểu những lời dạy của các ngài ” bắt đầu bằng lòng tin vào những lời giảng dạy của các ngài về nghiệp và tái sinh, vốn cung cấp bối cảnh tình cảm và tinh thần để chấp nhận Tứ Diệu Đế như là những phạm trù căn bản của kinh nghiệm. Thông hiểu giới luật của các bậc thánh sẽ bao gồm kỹ năng thực hành bảy phương pháp như đã đề cập trên đây để đoạn trừ các cấu uế của tâm, ngoài việc giữ gìn các giới luật.

Không có nền tảng căn bản này, hành giả có thể mang theo một thái độ và những câu hỏi sai lầm về việc thực tập quán sát sự sinh khởiđoạn diệt các pháp trong giây phút hiện tại. Ví dụ, hành giả có thể tìm kiếm cái ‘ chân ngã ’ và cuối cùng đi đến chỗ nhận diện nó – một cách có ý thức hay vô thức – với một cảm giác nhận biết mênh mông mở rộng bao trùm tất cả mọi đổi thay, mà hình như vạn pháp xuất phát từ đó và cũng quay trở về chỗ ấy. Hoặc họ có thể ao ước một cảm giác được kết nối với sự vận hành tương tác bao la của vũ trụ, tin tưởng rằng – vì vạn pháp đang thay đổi – bất cứ mong muốn không thay đổi nào cũng là một thứ bệnh thần kinh và mang tính chất phủ nhận cuộc sống. Với những hành giảkế hoạch hành động như thế này, trải nghiệm đơn giản về các pháp sinh khởiđoạn diệt trong giây phút hiện tại sẽ không đưa đến tri kiến về các pháp đúng như thực tướng của chúng nhìn từ năm góc độ khác nhau. Họ sẽ không công nhận những ý tưởng họ đang nắm giữ là những tri kiến sai lầm, hoặc những trải nghiệm về sự an định có vẻ như đã chứng nhận những ý tưởng của họ thật ra chỉ là một cấu uế của tâm trong hình dạng của một trạng thái hiện hữu. Kết quả là, họ không muốn áp dụng Tứ Diệu Đế đối với các ý tưởng và trải nghiệm ấy. Chỉ có người nào muốn thấy các cấu uế của tâm đúng như thật, và tin tưởng về nhu cầu cần vượt qua chúng , sẽ ở trong tư thế sẵn sàng áp dụng những nguyên tắc của ‘ như lý tác ý ’đối với chúng và như vậy sẽ vượt qua chúng.

Như vậy, trả lời câu hỏi mà chúng ta đã đặt ra lúc đầu : Thiền quán không phải là một kỹ thuật hành thiền. Đó là một phẩm chất của tâm – là khả năng nhìn rõ các pháp trong giây phút hiện tại. Mặc dù chánh niệm rất hữu ích để nuôi dưỡng Thiền quán, chánh niệm không đủ để phát triển Thiền quán đến mức độ giải thoát hoàn toàn. Cần phải có những kỹ thuật và phương pháp khác nữa. Đặc biệt, Thiền quán phải đi đôi với Thiền chỉ - là khả năng an định tâm thoải mái trong hiện tại – để có thể đạt được những trạng thái định thâm sâu, hay nhập định. Dựa tên nền tảng này, Thiền chỉThiền quán được áp dụng vào một kế hoặch tìm hiểu thiện xảo, gọi là ‘ như lý tác ý ’, hướng đến tất cả các trải nghiệm: khám phá các pháp không phải theo kiểu so sánh tôi/ không phải tôi, hoặc hiện hữu/không hiện hữu, nhưng theo phạm trù của Tứ Diệu Đế. Hành giả theo đuổi kế hoạch này cho đến lúc đạt được sự hiểu biết về vạn pháp từ năm góc độ khác nhau: sự sinh khởi, sự đoạn diệt, những điểm bất lợi của chúng, sự cám dỗ và sự vượt thoát khỏi chúng. Chỉ đến lúc đó tâm mới có thể nếm được hương vị giải thoát.

Chương trình phát triển Thiền quánThiền chỉ này, lần lượt sẽ cần đến sự hổ trợ của nhiều động thái khác nhau, nhiều phẩm chất tinh thần và kỹ thuật tu tập thực hành. Đó là lý do tại sao Đức Phật giảng dạy pháp môn này như một phần của một chương trình rộng lớn hơn, bao gồm tôn kính các bậc thánh, thấu triệt tất cả bảy phương pháp để đoạn trừ các lậu hoặc, và tất cả tám chi phần của Bát Chánh Đạo. Áp dụng một phương pháp giảm thiểu việc tu tập thực hành chỉ có thể đưa đến những kết quả sút giảm, vì hành thiền cũng giống như hành nghề thợ mộc, đòi hỏi nhiều dụng cụ khác nhau cho nhiều nhu cầu khác nhau. Tự giới hạn mình vào một phương pháp thiền tập mà thôi sẽ giống như cố gắng xây một ngôi nhà khi động cơ của hành giả còn mơ hồ và hộp dụng cụ của hành giả không có gì ngoài mấy cái búa.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8465)
Bản Chất của Hạnh Phúc được trích từ tác phẩm Nghệ Thuật Sống Hạnh Phúc: Cẩm Nang cho Đời Sống, một quyển sách căn cứ trên sự mở rộng những đối thoại giửa Đức Đạt Lai Lạt MaBác sĩ Howard C. Cutter, một nhà tâm lý trị liệu phương Tây.
(Xem: 8003)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7735)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6949)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13819)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7548)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9308)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7843)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7760)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7335)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7730)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7465)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8665)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 11071)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15420)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19199)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14884)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8826)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8830)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14649)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15274)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8527)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 10970)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11325)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8716)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9074)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19753)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24662)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8806)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9137)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10798)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 9010)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7913)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8804)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8296)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7304)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 11127)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7375)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8278)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17636)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44205)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45485)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 45048)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10615)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8552)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7563)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7581)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7373)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12103)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 7919)
Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa?
(Xem: 8420)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9170)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 8104)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8898)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 7996)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8180)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8684)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16342)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
(Xem: 7146)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
(Xem: 6929)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant