Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 3: Cơ Hội

24 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 11234)
Chương 3: Cơ Hội


CƠ HỘI

Hãy thử tưởng tượng một gông trâu màu vàng trôi nổi trên mặt đại dương rộng lớn. Dưới đáy bể sâu có một con rùa mù đơn độc bơi lội.,cứ cách trăm năm thì trồi lên mặt nước một lần để thở.Cơ hội như vậy có hy hữu chăng để con rùa có thể chui đầu trúng ngay lỗ gông trâu khi trồi lên cao. Đức Phật từng dạy,muốn tái sinh thân người,việc đó lại càng hy hữu hơn thế nữa.

Theo như kinh dạy, ngay cả chư thiên còn ganh ghét với thân người của chúng ta vì đấy là hình tướng hiện hữu tốt nhất để tu học.Giống như năm tỷ chúng sanh trên thế giới tất cả đều mang thân người.Tay,não,tứ chithân thể họ đều y hệt nhau.Nhưng nếu khảo sát,phải chăng mọi người đều có được cơ hội tu hành Phật pháp giống nhau? Chúng ta sẽ thấy có sự khác biệt rất lớn.Chúng ta đang thoát được những hoàn cảnh nghiệt ngã làm trở ngại đường tu như sanh nhằm nơi tà kiến, đầu thai làm súc sanh,làm ma,làm ngạ quỷ hoặc làm thiên nhân tham đắm dục lạc, hoặc tuy có được thân người,lại khó nghe được giáo pháp hoặc sanh nơi không có giáo pháp.Những hoàn cảnh bất lợi khác cũng có thể là sanh nhằm nơi biên địa nên mọi ý tưởng sinh tồn của con người đã bị hoàn toàn tiêu hủy hoặc sanh nhằm thời đại không có Phật trụ thế.

Nhìn theo khía cạnh tích cực,chúng ta lại cũng có nhiều đặc ân để có thể tu trì giáo pháp.Ví dụ:ta được sanh nơi có giáo pháp truyền bá và được sanh làm thân người có khả năng tiếp nhận được Phật pháp.Ta không phạm vào những tội trạng cùng hung cực ác mà lại có nhằm thời đức Phật tại thế nhưng ta gặp được các bậc đạo sư có thể tiếp tục truyền thừa những giáo pháp mà các vị ấy đã tiếp thị từ thời Đức Phật trụ thế.Chánh pháp vẫn trường tồn và hưng thịnh là nhờ có những vị hành giả biết bao thí chủ công đức nhân từ đã ân trợ những nhu cầu thiết yếu cho tăng ni tu hành như thực phẩm, áo quần,nhà cửa v.v…

Nhìn theo khía cạnh tích cực,chúng ta lại cũng có nhiều đặc ân để có thể tu trì giáo pháp.Vị dụ:ta được sanh ở nơi có giáo pháp truyền bá và được sanh làm thân người có khả năng tiếp nhận được Phật pháp.Ta không phạm vào những tội trạng cùng hung cực ác mà lại có trình độ hiểu biếttin tưởng Phật pháp.Tuy không sanh nhằm thời đức Phật tại thế nhưng ta gặp được các bậc đạo sư có thể tiếp tục truyền thừa những giáo pháp mà các vị đấy đã tiếp thị từ thời Đức Phật trụ thế.Chánh Pháp vẫn trường tồn và hưng thịnh là nhờ có những vị hành giả đã nối gót theo Phật pháp.Ta cũng sống vào thời đại có biết bao thí chủ công đức nhân từ đã ân trợ những nhu cầu thiết yếu cho tăng ni tu hành như thực phẩm, áo quần,nhà cửa v.v…

Giáo pháp Phật Đà đã mang ích lợi đến cho vô số người do nhờ vào công hạnh tu tập mà họ đã đại ngộnội tâm của họ cũng tuyệt diệt được mọi phiền não.Nhưng nếu đầu thai làm súc sanh,làm chúng sanhđịa ngục hoặc làm ma đói (sẽ tường thuật ở chương thứ 5) thì sự xuất hiện của Phật pháp trên thế gian này cũng chẳng giúp ích gì được cho ta.Ví dụ: Đức Thích Ca MÂu Ni Phật sanh tại Ấn Độ,chứng đắc quả vị rốt ráo,chuyển pháp luân ba lần.Vào thời gian đó, nếu chúng ta mang được thân người quý giá như vầy,lại còn được Đức Phật che chở đùm bọc thì có lẽ vận mệnh chúng ta giờ đây hoàn toàn khác hẳn.Có lẽ chúng ta đã thoát khỏi vòng luân hồi tái sinh rồi.Nhưng,thực tế không phải như thế, ngay trước mắt,giáo pháp của ngài cũng chẳng giúp ích được gì cho chúng ta nếu chúng ta không chịu nỗ lực tu học.Nhưng,may mắn thay,chúng ta đã không sanh vào một hình thức tồn hữu thấp hơn (chỉ cho cảnh giới thấp hơn cảnh giới làm người); tuy nhiên chỉ thuần túy sanh ra làm người và thoát khỏi được tình trạng hiện hữu phi nhân [1] không cũng chưa đủ.Giá như sanh vào nơi Phật pháp được hưng thịnh nhưng bẩm sinh khôngtrí năng vẹn toàn thì Phật pháp cũng chẳng trợ ích gì cho ta được.Những khuyết tật thể xác chưa đủ trở ngại việc tu hành nhưng quả thậtvô phương nếu bạn không thể vận dụng đến trí óc.Cho dù không có khuyết tật nào đi nữa,nhưng nếu sống trong một đoàn thể mà luật nhân quả bị phủ nhận thì tâm trí chúng ta cũng dẫy đầy tà kiến.Nhưng đó cũng chưa phải là trường hợp muốn nói.Nếu tái sinh vào những thời đại chẳng hề có Phật pháp thì chúng ta cũng không thể bước vào chánh đạo nhằm chuyển hóa tâm linh để chấm dứt khổ đau. Và trường hợp đó lại cũng không hẳn đúng.Chúng ta nên nhận diện vận may mắn của mình, đó là được sanh vào thời kỳPhật pháp đang hiển hiện.Ta nên suy nghĩ về chuyện này,và hoan hỷ với niềm vui là đã tránh thoát được mọi bất lợi như trên.Tu duy theo những chiều hướng như vậy,cuối cùng rồi ta sẽ ý thức tường tận rằng mang được hình tướng loài người quả là độc nhất vô nhị. Nếu thẩm định việc trên đây một cách tỉ mỉ,chúng ta sẽ hoát nhiên đại ngộ về ý nghĩa chân thật của sự tồn tại nhân dạng.Và vì thế, ta sẽ quyết định phát nguyện thực tập giáo pháp một cách tinh tấn dõng mãnh và kiên định.

Giáo pháp của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật theo kinh chép, sẽ trụ thế 5000 năm.Ta sẽ không hưởng thọ được gì nếu tái sanh làm người sau thời gian ấy.May thay ta lại được sanh ra đúng ngay khoảng thời gian dài bất tận với ánh sáng quang minh rực rỡ của Phật pháp.Vì thế,muốn chuyển hóa tâm thức ta cần phải vững tin để vận dụng cả đời mình khi mang được một thân người hãn hữu như thế nầy.

Cho đến giờ khắc này, ta đã từng sinh sống,từng ăn uống,từng trú mưa đụt nắng,từng mặc áo,mặc quần.Nếu cứ tiếp tục cùng một thể thức như vậy, ăn uống chỉ thuần đơn giản để sống thì cuộc đời ta có ý nghĩa gì?Chúng ta đã có được thân người quí giá như thế,nhưng chỉ thuần túy mang thân người thôi thì chẳng đáng kể được hãnh diện một chút nào cả.Còn có vô vàn vô số hình thái sinh mạng khác hiện diện trên quả địa cầu này;nhưng,chẳng có loài nào tàn phá hủy hoại nhiều như loài người cả.Con người đã gieo rắc hiểm họa cho muôn loài trên mặt đất.Nếu chúng ta dùng đại bi tâm và lòng lợi tha hướng dẫn đời sống,ta có thể thành tựu được một số đại sự-những sự việc mà các loài chúng sanh khác không thể làm nổi.Nếu có khả năng sử dụng thân người quý giá này theo hướng tích cực, điều đó sẽ mang lại những giá trị rất lâu dài.Và sự tồn tại của kiếp nhân sinh sẽ trở thành thật sự đáng quí.Tuy nhiên,nếu ta vận dụng tiềm lực của con người,khả năng của trí óc một cách tiêu cực để hành hạ tra tấn, bóc lột, ức chế, bức hại kẻ khác thì sự hiện hữu của ta sẽ tức khắc trở thành mối hiểm họa cho tha nhân và cho cả chúng ta trong đời vị lai nữa.Sự hiện hữu của kiếp người,nếu sử dụng để tàn phá,có khả năng tận diệt mọi thứ mà ta biết được.Nhưng sự hiện hữu của kiếp người cũng có thể là một khơi nguồn để thành Phật.

Mãi đến giờ đây ,ta cũng chưa thật sự dấn bước trong việc thăng hoa đời sống tâm linh.Hãy tự vấn lòng mình: “Ta đã thực hiện được những công đức thù thắng nào rồi; đã thật sự hạ thủ công phu để điều phục tâm thức,và giúp ta quả cảm trong tương lai chưa?” Nếu chưa tìm ra điều gì có thể giúp bạn vững tin vào vận số tương lai của mình;thế thì cho đến nay,mọi dinh dưỡng để duy trì tánh mạng chỉ là hoài công uổng phí.Giống như thi sĩ Shantideva [2] của Ấn Độ vào thế kỷ thứ 8 đã nói: “Sự ra đời của ta chỉ thuần túy cống hiến những khổ đau và dày vò cho mẹ ta, đâu còn mục đích gì khác nữa”.

Ngài Shantideva dạy: Đã mang được hình hài quí giá của thân người mà không tu thiền và tích lập phước đức thì quả là ngu xuẩn! Nếu vì lười biếng mà trì hoãn việc tu,e rằng đến lúc chết ta sẽ đại hối và sẽ hiểu thấm thía nỗi bàng hoàng lo sợ vì phải thọ khổ khi chuyển sanh vào cảnh giới thấp hơn.

Nếu đã mang được thân người quí giá mà lại lãng phí thì chẳng khác nào đi đến núi báu nhưng lại trở về với hai bàn tay trắng.Hãy nghiệm xét lại tất cả những bậc tôn sư của thời quá khứ đã từng chứng ngộ rốt ráo ngay trong một đời-như Ngài Nagarjuna[3],ngài Asanga [4] và những đại sư Tây Tạng như Ngài Milarepa chẳng hạn-các vị ấy cũng chỉ mang kiếp làm người như ta ngày nay.Sai biệt duy nhất giữa ta và họ là vì ta thiếu mất lòng tiến thủ tinh tiến của họ. Bằng cách trầm tư suy xét về sự thù thắng hiếm có của hoàn cảnh chúng ta hiện giờ;ta có thể tô bồi được một động lực tương tự.

Một con chó không thật sự được lợi lạc gì cả dù nó sinh sống ở một nơi Phật pháp đang hưng thịnh. Động vật còn thậm chí bị các lỗi lầm sai quấy sai sử mạnh bạo hơn nữa là vị chúng không sao có khả năng như chúng ta để biết tuyển chọn giữa các loại hành vi khác nhau.Chúng dễ dàng sa vào các ý nghĩ và hành động xấu ác hơn chẳng hạn như;sân hậntham dục.Chúng lại càng có nhiều trở ngại hơn nữa đối với những hành vi thánh thiện.Nếu bị chuyển sanh làm cầm thú hoặc rơi vào một cảnh giới hạ đẳng hơn thì làm sao ta có được cơ hội để hành trì giáo pháp?Quả tình rất khó tô bồi phước đức nếu tôi không biết đình chỉ việc tích tạo thêm những hành vi bất thiện, để rồi sau khi mạng chung,tôi sẽ quay cuồng trong chuỗi dài quả báo bị chuyển sanh vào những hình thái thấp hơn.Nếu trong trường hợp chỉ cần một thoáng chốc hành động xấu ác thôi,cũng đủ dẫn đến việc chuyển sinh vào cảnh giới hạ đẳng trong vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp rồi;vậy thì,do kết quả của hằng hà sa số hành vi bất thiện tích lũy từ lâu xa,làm sao có thể hoài nghi gì việc ta sẽ đầu thai thành hình thái thấp kém hơn chứ?Một khi đã thác sanh vào cảnh giới hạ đẳng này rồi;thật khó lòng hy vọng thoát khỏi dẫu rằng nghiệp báo thác sinh này đã tận chung vì bạn phải chịu trả qua biết bao khổ sở đau đớn.Bởi vì trong vòng luân hồi ác xấu, bạn sẽ bị cuốn hút theo biết bao hành vi bất thiện để rồi lại tạo ra một cảnh chuyển sanh thấp kém khác nữa.Hồi quang tỉnh ngộ rằng: thân người khó được và thay vì si mê lãng phí nó, bạn hãy nhất tâm quyết ý để khéo dùng thân người của mình nhằm hành trì Phật pháp.

Các tín đồ Phật giáo thường nói, có một thân người đòi hỏi một nhân duyên tối sơ là sự trì giới thanh tịnh từ đời trước.Thêm vào đấy,có được thân người rồi lại còn đặc biệt có khả năng tu hành Phật pháp nữa thì điều tối quan trọng là mỗi giới luật phải được bổ khuyết bằng những hành vi như bố thí và nguyện cầu một sự gia trì từ đời quá khứ.Nếu suy xét điều này, bạn sẽ khám phá rằng rất hiếm người hội đủ tất cả nhân tố trên đây.Nghĩ đến sự hạn hữu của căn nguyên, bạn sẽ thấu triệt rằng thân người quí giá quả rất khó có. Và nếu so sánh nhân mạng với nhiều chủng loại khác,như các loài súc sanh chẳng hạn, số lượng động vật và côn trùng nhiều hơn nhân mạng bội phần.Thậm chí ngay trong loài người,rất hiếm người được ưu đãi, sống nhàn hạ và có cơ duyên tu học.Nếu bạn hiểu được tầm mức quan trọng của thân người quí giá này,thì mọi liễu ngộ khác sẽ tự nhiên khởi phát.Nếu kẻ nào vứt đi khối vàng trong tay mình, sau đó cầu khẩn cho ngày mai có thêm nhiều vàng nữa, hắn sẽ trở thành trò cười.Cùng thế ấy,tuy chúng ta đã già và thân thể yếu đuối ta vẫn hơn xa nhiều hữu tình chúng sanh khác trong khả năng tu hành theo giáo pháp Phật. Ít ra,chúng ta cũng có thể trì tụng tâm chú của Đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát-Om Mani Padme Hum.Thậm chí đối với một người sắp chết, họ vẫn còn năng lực tư duyvun trồng những tư tưởng đạo đức.

Sự nghiệp công đức của Đức Phật-từ ban sơ với bản nguyện vun trồng để giúp đỡ muôn loài cho đến sự tích tập công đức,và sau rốt là sự thành tựu giác ngộ-tất cả đều nhằm đến sự phúc lợi của mọi loài hữu tình chúng sanh.Sự an lạc của mọi loài hữu tình chúng sanh có thể chia định ra thành hai phần:

1/nhất thời an lạc-đó là thành tựu việc chuyển sinh vào cảnh giới Nhất Thiết Trí.

2/cứu cánh an lạc đó là sự chứng đắc giải thoátđạt được cảnh giới Nhất Thiết Trí.

Tất cả những giáo pháp liên quan đến việc thành tựu lai sanh hậu thế được xem như thuộc về phạm trù Tiểu Tri Kiến[5].Vì mục đích này, hành giả Trung Tri Kiến dấn thân trì thủ giới luật,tu tập thiền định,trí huệ Bát Nhã và rồi đoạn trừ phiền não để thành tựu mục tiêu giải thoát mọi khổ đau và giải thoát khỏi luân hồi sanh tử.

Tất cả những giáo pháp trình bày về những kỹ thuật chứng đắc cảnh giới Nhất Thiết Trí để đạt được Phật quả, bao gồm cả Hiển và mật, đều là giáo pháp của những hành giả Đại Tri Kiến[6].Nội tâm của Thượng Sĩ Đạo hành giả (Đại Tri Kiến) được hun đúc bằng lòng đại từ đại bi đối với mọi loài hữu tình chúng sanh và vì phúc lạc của muôn loại hàm linhchứng ngộ Phật quả.Vì thế có nhóm người chỉ nghĩ đến kiếp sau;những người này thuộc về Hạ Sĩ, đó là người có Tiểu Tri Kiến.Nhóm người thứ hai,không chỉ quanh quẩn bận tâm đến kiếp sống vị lai không thôi mà họ còn có tầm nghĩ xa hơn-sự giải thoát luân hồi chuyển thế-đó là những hạng người Trung Sĩ Đạo,là người có Trung Tri Kiến.Còn bậc không chỉ bận tâm đến niềm phúc lạc của mọi hữu tình chúng sanh khác, đó chính là những bậc Thượng Sĩ Đạo, là những bậc có Đại Tri Kiến.Ngài Tsong-kha-pa dạy rằng:tuy chúng ta phân chia tiến trình tu hành ra làm ba loại:Hạ Sĩ Đạo,Trung Sĩ Đạo và Thượng Sĩ Đạo nhưng hai loại đầu tự nó đã bao hàm trong tiến trình tu Thượng Sĩ Đạo rồi vì hai loại tu này giống như những chuẩn bị cho Thượng Sĩ Đạo vậy.Khi huấn luyện nội tâm của chúng ta đến một trình độ có thể thấu triệt tầm mức quan trọng của thân người quí và hiếm này, ắt hẳn ta sẽ nhất tâm để khéo léo xử dụng nó.

Thân thể ta gồm có thịt,máu,xương; nó hệt như một cây chuối bọng ruột,nhưng lại là nguồn gốc của tất cả khổ đau vật chất.Vì thế,không nên quá chú ý đến thân xác của ta. Ngược lại,nên nối gót theo khuôn thước của các bậc Đại Bồ Tát;hãy làm cho thân mạng ta đượm nhiều ý nghĩa và dùng xác thân này phụng sự mọi loài chúng sanh.

Nói cách khác,ta cần biết nhận thức được chân giá trị của những cơ hội quí giá hy hữu chung quanh ta. Đã mang được thân người vô cùng hiếm quý lại còn được phú cho những đặc tính thù thắng nữa. Nếu lãng phí chúng và thuần túy chìu lụy theo những âu lo xoàng xỉnh và những hành vi thiển cẩn thì quả là đáng buồn. Sau khi tri nhận một cách rõ ràng giá trị của kiếp nhân sinh,trọng yếu là hãy quyết chí lợi dụngsử dụng thân người theo tiến trình tu hành Phật pháp. Nếu không, trong sinh hoạt của một kiếp người, đời sống của chúng ta sẽ chẳng khác nào như đời sống của các loài cầm thú.

 



 
[1] Hiện hữu của loài phi nhân: Nonhuman existence

[2] Shantideva:Tịch thiên

[3] Nagajuna:Long Thọ

[4] Asanga:Vô Trước

[5] Tiểu Tri Kiến/Hạ Sĩ Đạo: Category of small scope

[6] Đại Tri Kiến/Thượng Sĩ Đạo: Category of great scope.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5260)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5825)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7434)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6371)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5965)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4743)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5682)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5853)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6118)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6596)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5946)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7057)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6668)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4782)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4929)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7710)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9819)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7515)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5327)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6428)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5412)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5832)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6391)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5699)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6438)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7063)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6273)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10653)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6669)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6161)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6718)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6117)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6484)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5517)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8238)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5732)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7558)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6250)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9661)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4066)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6396)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4168)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4305)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4759)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5310)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5283)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5818)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6775)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5550)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4492)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5333)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 4992)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4357)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6871)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4611)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8410)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7218)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8369)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7497)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7569)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant