TRUNG ĐẠO - TRUNG LUẬN VÀ TRUNG QUÁN (Trích dịch từ Chương IV của tác phẩmNghiên cứu về thuyết Tánh Không) Tác giả: Pháp sưẤn Thuận Người dịch: Thích Nhuận Thịnh
Phẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi (pratītya-samutpāda) tức là không (śūnyatā), cũng là giả danh (prajñāptiupādāya) về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo (madhyamā-pratipad). Ở đoạn trên đã từng nói đến: Duyên khởi của trung đạo là kinh A-hàm nói; đặc sắc của kinh Bát-nhã là chỉ có giả danh (không có thật), bổn tánh không (prakṛti-śūnyatā) và tự tánh không (svabhāva-śūnyatā). Tự tánh không là dựa theo tánh khôngthắng nghĩa để nói; đến giai đoạn cuối cùng của Trung bản Bát-nhã mới dùng ‘từ sự hòa hợp của nhân duyên sanh ra nên không có tự tánh’ để giải thích về tự tánh không. Trong tự tánh không đã có ý nghĩa không có tự tánh cho nên là không, do vậy Long thọxuất hiện, dùng một cái mà xuyên suốt hết cả, nên nói rằng: “Pháp mà do nhiều nhân duyên sanh ra, thì ta nói nó là không, cũng là giả danh, cũng là nghĩa của trung đạo’ – một bài kệvô cùngnổi tiếng trong Phật phápĐại thừa. Trung đạo là Phật pháp, cũng là nguyên tắc duy nhất mà hàng đệ tử của Phật tuân theo. Tất cả hành vi, tất cả nhận thức, tối chính xác mà lại tối thích hợp, chính là trung đạo, trung là không rơi vào hai bên (nhị biên - antadvaya) – thiên lệch về bên tà, cực đoan. Lấy sự thực hành để nói, thì kinh Câu-lâu-sấu vô tranh nói: đắm trước cái dục lạcthấp hèn là một bên, tự khổ hạnh không dùng lợi dưỡng là một bên, ‘lìa hai bên này, thời có trung đạo’, trung đạo là Con đường Thánh gồm 8 ngành [Bát chánh đạo].1 Lời dạy dỗ này là được nhiều Kinh, Luật nói đến. Như Phật dạy Tôn giảNhị thập ức nhĩ (Śrotraviṃśatikoṭī) rằng: Như ‘điều chỉnh dây của đàn cầm, không căng, không chùn, điều chỉnhthích hợp được khoảng giữa đó, thì có thể phối hợp ra âm thanh đáng yêu thích.’ Cho nên “tinh tấn quá mức thì khiến tâm loạn động (trạo cử); không nỗ lựctinh tấn thì khiến tâm sanh giải đãi. Vì vậy ngươi nên phân biệt vào lúc này thì nên quán sát tướng như thế này.”2 Tu hành cũng cần phảithích hợp cái trung ấy, là cần phảiquán sát thân và tâm của chính mình, khéo léo điều chỉnh. Giống như luyện vàng vậy, không thể ‘luôn luôn thổi lửa’, ‘luôn luôn rưới nước’, ‘luôn luôn ngừng cả hai’, mà phải hoặc chỉ, hoặc cử, hoặc xả,(a) tùy thờithích hợp mà xử lý, đây mới có thể ‘tâm ắt được chánh định, dứt sạch các hữu lậu.’3 Vì vậy, tu hànhthành tựuvô tướng tâm tam-muội (animitta-citta-samādhi) ấy, ‘là không vọt lên cũng không chìm xuống,’ tâm trụ nơi bình đẳng.4 Đây là một nguyên tắc, ứng dụng vào sự nhận thức, chính là duyên khởi do ‘ở nơi trung mà thuyết pháp’, pháp duyên khởi không rơi vào hai bên – đồng nhất và dị biệt, đoạn diệt và thường hằng, hữu và vô. Trung đạochính xác mà thích hợp, không phải là ‘tách ra để tìm cái giữa’ [chiết trung], không phải là lập lờ nước đôi, càng không phải là sự điều hòa của hai cực đoan, mà là thoát khỏi mọi kiến chấp, chấm dứt và diệt trừ tất cả hí luận (prapañca). Từ nguyên tắc này để quán sát, chỉ có tên gọi mà không có thật thể, tự tánh đều không của kinh Bát-nhã, chỉ là xiển minh đầy đủ về thuyết duyên khởitrung đạo. Vì sao pháp duyên khởi là trung? Pháp duyên khởi là không có tự tánh, cho nên chỉ có tên gọi giả (mà không có thật); pháp duyên khởi là không có tự tánh, cho nên tức là không. Không, cho nên không có tự tánh, là duyên khởi của giả danh; duyên khởi của giả danh, cho nên lìa các kiến chấp nên được vắng lặng [không tịch]. Lấy giả danh tức không – ‘tánh không duy danh’ để nói về trung đạo của duyên khởi, trung đạo là lìa hai bên [nhị biên], cũng chính là tám phủ định mà Trung luận đã nói. Dựa vàoTrung đạo – duyên khởi gồm tám phủ định (giả danh), có thể thành lập tất cả pháp thế, xuất thế trong thế tục đế; dựa vàotrung đạo – tám phủ định (không) của duyên khởi, có thể không rơi vào các kiến chấp, khế nhập vào nghĩa chân thật (thắng nghĩa). Cho nên bài tụng rất nổi tiếng của Trung luận, có thể giải thích theo biểu đồ như sau: Tự tánh không Pháp duyên khởi…....(vô tự tánh)………(bát bất) trung đạo
Có theo giả danh Phần sau của Hạ bản Bát-nhã nhiều lần nói đến hai loại sự thật [nhị đế], Trung luận cũng là dùng nhị đế để trình bày Phật pháp, như quyển 4* nói: “Chư Phật dựa vàonhị đế mà thuyết pháp cho chúng sanh. (Một là) thế tục đế, và (hai là) đệ nhất nghĩa đế.”(b) “Nếu không dựa vàotục đế thì không đắc được đệ nhất nghĩa đế. Không đắc được đệ nhất nghĩa đế thì không thể đắc được niết-bàn.”(c) Phật vì chúng sanh mà thuyết pháp, nên không thể không đặt để nên nhị đế; nếu như không có cái ‘hai – nhị’ tương đối thì tất cả đều đã không thể diễn tả được. Giống như sự hiểu biết của chúng sanh ở thế gian vậy, đúng như thế, thì gọi là thế tục đế (lokasaṃvṛti-satya – sự thật đúng theo thế gian), đế có nghĩa là không điên đảo. Đệ nhất nghĩa đế (paramārtha-satya) – thắng nghĩa đế, là nghĩa chân thật (tattva) được nhận biết bởi bậc Thánh. Cái được nhận biết bởi chúng sanh ở thế gian, dù đó là cái biết chung, cái thấy chung, đúng như thế, kỳ thật là mê hoặcđiên đảo, cho nên bị sanh tử không dừng. Tìm cầu Phật pháp theo thắng nghĩa, là phải ở trong tất cả pháp của thế gian, lìa điên đảomê hoặc để thông đạt được nghĩa chân thật, đây là mục đíchcăn bản của sự đặt để nên nhị đế. Nhưng đệ nhất nghĩa đế, thì danh, tướng, cái phân biệt bằng hư vọng của thế gian đều không thể biểu đạt được, cho nên nói rằng thắng nghĩa đế là như vầynhư vầy, vẫn là dựa vàothế tục đế, dùng phương tiện mà nói. Như kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mậtnói: “Các tướng như vậy (tánh không) là tướng của bát-nhã ba-la-mậtsâu xa. Phật vì chúng sanh, nên dùng pháp thế gian để nói, chẳng phải là đệ nhất nghĩa.”5 “Nếu danh tự và nhân duyênhòa hợp đều không có, thì ngữ ngôn và các sự việ của thế gian đều bị diệt; vì thế đế không có, nên đệ nhất nghĩa đế cũng không có.”6 Thế tục đế là cái nhận thức bằng sự mê lầm của chúng sanh, tuy là lầm lạc, nhưng lại là quan trọng, bọn phàm phuchúng ta chính là ở trong tình cảnh này vậy! Cho nên phải nương tựa vào thế tục đế mới có thể biểu thịđệ nhất nghĩa đế; mới có thể từ trong sự khám phá ra cái mê vọng của thế tục để thông đạtthắng nghĩa đế. Dựa vàonhị đế của Trung luận để xem xét một bài kệ rất nổi tiếng của Long thọ: Thế tục đế được nhận thức bằng sự mê vọng của chúng sanh, Phật nói là duyên khởi; dựa vàoduyên khởi nên lìa được biên kiến. Có thể lãnh hội và thấy được nghĩa chân thật một cách chính xác, thì đây chính là trung đạo. Nhưng người thông thường, những người theo các bộ phái Phật giáo đều không thể lý giải duyên khởi đúng như thật, cuối cùng thảy đều sa vào khuôn sáo cũ của ‘dựa vào thật mà lập nên giả’, không thể tự cứu mình được. Cho nên kinh Bát-nhã nói: tất cả pháp đều là giả danh, thông đạt được tự tánh vốn vắng lặng [không tịch] thì đây chính là thuyết nhị đế. Trung luậnlập luận dựa theo duyên khởi: pháp duyên khởi tức là tánh không, làm hiện rõ đệ nhất nghĩa; duyên khởi tức là giả danh, làm sáng tỏthế tục đế. Sự có theo giả danh như thế, tức là tánh không, tánh không (cũng là dựa vàogiả danh mà nói) không gây trở ngại cho giả hữu, chính là trung đạo của duyên khởi lìa hai bên. Nói duyên khởi tức là không, cũng là giả, cũng là trung (luận Hồi tránh nói rằng duyên khởi, không, trung đạo là cùng một nội dung(d)), nên chỉ là thuyết nhị đế. Thuyết tam đế gồm tức không, tức giả, tức trung, không phải là luận ý của Long thọ. Hướng dẫn cho người khác chuyển đổimê lầm đế hướng đến giác ngộ, dựa vàothế tục đế mà thuyết pháp: vì duyên khởi không có tự tánh cho nên là không, vì là không cho nên nhờ vào duyên khởi mà có – thuyết trung đạo, có thể khéo léo thiết lập nên mọi pháp, xa rời hết thảy kiến chấp, có thể nói là sự thuyết giáo vô cùngthiện xảo vậy! Chẳng qua danh ngôn của thế tục là ‘hai’, là không có tính quyết định; tánh tương đối vốn có của danh nghĩa, ở trong sự thích ứng với chúng sanh, tùy thời, tùy nơi mà lưu hành, thì sẽ không tránh khỏi dẫn đến sanh ra các lời bàn tán khác nhau, đó cũng là pháp thường tình của thếgian. Căn cứ vàođệ nhất nghĩa đế, không, vô sanh, v.v., thì đó chỉ là một loại phù hiệu, đều không ngang bằng với đệ nhất nghĩa. Như không là lấy sự lìa các kiến chấp làm tác dụng, mà chấp trước vào cái không ấy thì cũng chẳng phải là trung, cho nên nói: ‘không cũng lại không có’, ‘không cũng không thể nắm bắt được’. Vả lại, trong thực hànhsự quán về duyên khởi tức không, đúng như điều mà đoạn kinh dẫn ở trên đã nói, phải tùy thời mà thích hợp khéo léo với cái trung ấy, luận Đại trí độ nói như thế này:7 “1. Bát-nhã ba-la-mật lìa hai bên mà thuyết về trung đạo: tuy không mà không chấp trước vào không, cho nên nó là có tội, phước; tuy nói có tội, phước, nhưng chẳng sanh tà kiến chấp thường, cũng ở trong không mà không có chướng ngại.” “2. Bồ-tát trụ ở trong nhị đế mà thuyết pháp cho chúng sanh. Không chỉ nói về không, không chỉ nói về có, mà còn vì lòng thương xótchúng sanh cho nên nói là không, vì những chúng sanh đang chấp thủ về tướng của không cho nên nói là có, ở trong hai chỗ có và không nhưng không đắm nhiễm.” “3. Tướng có là một bên, tướng không là một bên, lìa hai bên mà đi trong trung đạo, là thật tướng của các pháp.” “4. Bát-nhã ba-la-mật ấy là thật tướng của tất cả pháp,… thường là một bên, đoạn diệt là một bên, lìa hai bên này mà đi trong trung đạo. … Đây là bát-nhã ba-la-mật, là một bên, đây chẳng phải là bát-nhã ba-la-mật là một bên, lìa hai bên này mà đi trong trung đạo, đó gọi là bát-nhã ba-la-mật.”1.2. là nói trung đạo cho chúng sanh. 1. là người nói nói về có mà không sanh ra các kiến chấp về thường, v.v., nói về không mà không dính mắc nơi không. 2. đối trị cái chấp thiên lệch của chúng sanh, vì những kẻ dính mắc vào không ấy nên nói là có, vì những kẻ dính mắc về có cho nên nói là không. Như vậy, đó mới là khéo thuyết trung đạo. 3.4. là ‘đi [thực hành] trong trung đạo’. Trong sự thực hành bát-nhã, tướng có là một bên, tướng vô – không cũng là một bên; phân chia ra đây đúng là bát-nhã và đây chẳng phải là bát-nhã cũng đều là một bên. Thực hành bát-nhã là lấy sự không chấp trước làm nguyên tắc, nếu như tâm có chấp trước liền khiến cho sự thực hành thiện, thực hành không này cũng đều là ở một bên mà chẳng phải trung. Kinh Bát-nhã gọi đó là ‘thuận đạo pháp ái sanh;(e)’8 thí dụ là ‘như ăn loại độc hỗn hợp’.9 Con đườnggiải thoát được Phật khai thị, như không, vô sở hữu (ākiṃcanya), vô tướng (animitta), kinh A-hàm sớm đã chỉ ra rồi: quán về vô ngã và vô ngã sở - vô sở hữu, có sự thực hành quán này thì nhờ huệ để được giải thoát, đắm nhiễm vào nó thì không giải thoát được, sẽ sanh vào vô sở hữu xứ (ākiñcanayāyatana); quán tất cả là không có tướng, có thực hành pháp quán này thì nhờ huệ để được giải thoát, nếu như đắm nhiễm thì không giải thoát được, sẽ sanh vào vô tưởng xứ - phi tưởng phi phi tưởng xứ (naivasaṃjñānāsaṃjñāyatana).10 Nguyên lý và phương pháp là có chuẩn mực, nhưng dù là thế tục, mà nếu có thể khéo léo thích ứng đúng với nó, thì đúng như câu nói của người Trung quốc: ‘muốn vận dụng nó được hoàn hảo, thì phải để hết tâm vào nó’ vậy. Các vị học giả nên chú ý đến tính thực tiễn của Phật pháp, không chỉ là ‘Trung luận’ mà phải thêm là ‘Trung quán’ mới được!
1 Trung A-hàm, (169) Câu-lâu-sấu vô tranh kinh, T. 1, tr. 701b-c. Trung bộ, (139) Vô tranhphân biệt kinh, Nam truyền 11 hạ, tr. 320-321. 2 Tạp A-hàm 9, T. 2, tr. 62c. Trung A-hàm, (123) Sa-môn nhị thập ức kinh, T. 1, tr. 612a-b. Tăng chi bộ, phẩm 6 pháp, Nam truyền 20, tr. 129. (a) “Chỉ tướng 止相, cử tướng 舉相, xả tướng 捨相. Pāli, A. i. 257: samādhinimittaṃ, định tướng, paggahanimittaṃ, cần (tinh tấn) tướng, upekkhānimittaṃ, xả tướng.” Tham khảo: Tạp A-hàm, tập 2, Thích Đức Thắng dịch Việt, Nxb Phương Đông, Sài gòn, 2010, tr. 694, chú thích 10. 3 Tạp A-hàm 47, T. 20, tr. 342a. Tăng chi bộ, phẩm 3 pháp, Nam truyền 17, tr. 422-423. 4 Tạp A-hàm 20, T. 2, tr. 145a-146a. Tăng chi bộ, phẩm 9 pháp, Nam truyền 22 thượng, tr. 126-127. * Trung luận 4, T. 30, tr. 32c-33a. (b) Skt: dve satye samupāśritya buddhānāṃ dharmadeśanā | lokasaṃvṛtisatyaṃ ca satyaṃ ca paramārthataḥ ||8|| (c) Skt: vyavahāram anāśritya paramārtho na deśyate | paramārtham anāgamya nirvāṇaṃ nādhigamyate ||10|| 5 Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 14, T. 8, tr. 325b. 6 Đại trí độ luận 42, T. 25, tr. 365a. (d) Skt: “yaḥ śūnyatāṁ pratītyasamutpādaṁ madhyamāṁ pratipadam-anekārthām.” Nāgārjuna, Vigrahavyāvartanī. 7 Đại trí độ luận: 1. Quyển 70, T. 25, tr. 551a; 2. Quyển 91, tr. 703b; 3. Quyển 61, t. 492c; 4. Quyển 43, tr. 370a-b. (e) Skt: “iyam āyuṣman śāriputra bodhisattvasya mahāsattvasya ānulomikī dharmatṛṣṇā āmaḥ.” Pañcaviṃśatisāhasrikā Prajñāpāramitā. Chữ sanh (生), Skt. āma (adj), có nghĩa là chưa chín, chưa được nấu, chưa được rèn giũa, bệnh tật, v.v. Như vậy, ‘thuận đạo pháp ái sanh - 順道法愛生’ được hiểu là, vị Bồ-tát ma-ha-tát mà học tập bát-nhã ba-la-mật chưa thuần thục, chưa thực hành đúng phương pháp của bát-nhã ba-la-mật (như đoạn kinh này đã diễn tả) thì sự thực hành của vị ấy là thực hành bằng tâm yêu thích của mình đối với Phật pháp mà chưa hiểu rõ được phương pháp đúng của bát-nhã ba-la-mật. 8 Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 3, T. 8, tr. 233b. 9 Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 11, T. 8, tr. 299c. 10 Trung A-hàm, (15) Bất động đạo kinh, T. 1, tr. 542c-543a. Trung bộ, (106) Bất độnglợi ích kinh, Nam truyền 11 thượng, tr. 342-345.
Kinh PHÁP CÚ là một bộ Kinh rất xưa, được xem là kinh Lời Vàng cho những ai có chí nguyệntu tâm, dưỡng tánh để tiến thân trên lộ trình hành đạogiải thoát... Thích Nữ Nguyệt Chiếu
La Sát là từ được phiên âm của Rakshasa/ Raksha (Sanskrit) là một sinh vật thần thoại có hình dáng, tính cách của loài người hoặc quỷ thầnbất thiện trong Hindu giáo và Phật giáo... Huỳnh Thanh Bình
Ở xứ ta, sinh vật thần thoạiKhẩn Na La, trong kinh văn Phật giáo là một trong “bát bộ chúng”. Trong mỹ thuật cổ, sinh vật thần thoại Kinnara này được giới nghiên cứu gọi là “Tiên nữ đầu người mình chim”... Huỳnh Thanh Bình
Lâu nay mỗi chúng ta theo đạo Phật nhưng có nhiều điểm nghi ngờ, thấy đạo Phật hình như tiêu cực, đa số chùa chiền đều ở trên núi, cách xa thành thị... HT Thích Thanh Từ
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặtđạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phầntâm linh và vật chấtcấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path” by Khenchen Konchog Gyaltshen, edited by Khenmo Trinlay Chödrön, Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18/9/2013 đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địaPhật Giáo Lâm-tì-ni ... Hoang Phong
Bất nhị là không phải hai hay nhiều, cũng không phải một, mà là vô lượng hay không có số lượng. Số lượng là số đếm chỉ có trong thế giớitương đối, nhị nguyên... Truyền Bình
Thầy Tuệ Sỹ viết: “Bởi vì con cá dưới lòng sông không làm sao hiểu nổi chuyện kể đầy tính hoang đường của con rùa sau những chuyến du hành trên đất liền..." Đặng Công Hanh
Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới... Nhụy Nguyên
Các khoa học gia đã tìm thấyThiền tậpđều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt động và hệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời giantrong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc cao minhtôn túcchỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là không thể nào tránh khỏi được.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diệncuộc đờisanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật... Đương Đạo
Trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu...
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
Lương Vũ Đế, tự Tiêu Diễn, lên ngôi vào năm 37 tuổi, tại vị 49 năm, thọ 86 tuổi. Là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lương (502-556) trong giai đoạn Nam Bắc triều (420-589) của Trung Hoa.
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật QuangVăn HóaThiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
Đại chúng bộ là bộ phái được xem là tiền thân của Phật giáoĐại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáoĐại thừa tại Ấn Độ... Thích Nguyên Lộc
Phật dạy 20 điều khó không mang một sắc thái bi quan hay chán chường, mà nhằm chỉ dạy chúng ta phải ý thức rằng sự sống này phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống trên nền tảng của nhân quả... Thích Đạt MaPhổ Giác
Đạo Phật là con đường dẫn đến an vui giải thoát. Đức Phật là bậc đạo sư, là người dẫn đường chứ không phải là vị thần linh có quyền ban phướcgiáng họa cho ai... Hoàng Nguyên
Mục đíchduy nhất và cuối cùng của con đường học Phật, tu Phật chính là thoát khỏisinh tử. Trên đường đi tới điểm đích ấy, nền tảng chủ yếu hướng dẫn người tu Phậtxuất gia lẫn tại gia không bị lạc lối được xem là sự nghiệptrí tuệ... Đoàn Ánh Loan
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
Hãy hướng tâm vào bên trong và cố gắng tìm niềm vui ở bên trong. Chỉ khi tâm đã được kiềm chế và dẫn dắt đúng hướng thì nó mới có ích cho chủ của nó và xã hội.
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.