Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phép Thiền Định Và Các Học Phái

19 Tháng Sáu 201421:42(Xem: 14142)
Phép Thiền Định Và Các Học Phái

PHÉP THIỀN ĐỊNH VÀ CÁC HỌC PHÁI

Hoang Phong chuyển ngữ

Lời giới thiệu của người dịch

Trên bình diện tổng quát thì tất cả các tôn giáo - kể cả Phật Giáo dưới một vài hình thức biến dạng mang tính cách đại chúng - đều hướng vào chủ đích tạo ra một đối tượng nào đó cho con người bám víu. Ngược lại Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình, nhờ vào sức mạnh mang lại từ lòng quyết tâm tự biến cải chính mình. Sự biến cải đó gọi là thiền định.

Một tập san Phật giáo vừa được ra mắt ở Pháp vào tháng 9 năm 2013 và trong số đầu tiên đã đặc biệt nêu lên chủ đề thiền định. Bài mở đầu do một học giả Pháp rất lỗi lạc là Philippe Cornu viết (đã được chuyển ngữ), nêu lên một vài nét chính yếu của phép luyện tập này, và tiếp theo đó là một loạt các bài viết khác xoay quanh cùng chủ đề. Tập san mang tựa là Regard Bouddhiste, có thể tạm dịch là Hướng nhìn Phật Giáo.

Trong số các hướng nhìn khác nhau về thiền định nêu lên trong tập san, chúng tôi xin chọn ra ba bài đại diện cho Phật Giáo Tây Tạng, thiền học Zen và Phật Giáo Theravada. Tất nhiên là nội dung trong các bài báo ngắn không thể so sánh với những gì thật sâu sắc và chi tiết trong kinh sách và các bài khảo cứu, thế nhưng cũng có thể mang lại cho chúng ta một ý niệm nào đó về một phép luyện tập chủ yếu và không thể thiếu sót đối với những người tu hành chân chính. Ba bài này sẽ được lần lượt chuyển ngữ dưới đây:

bài 1: Phỏng vấn nhà sư Ringou Tulkou Rinpoché (Lạt-ma Tây Tạng)
bài 2: Zazen hay tư thế ngồi thiền (Thiền sư Pierre Dôkan Crépon)
bài 3: Như một dòng nước yên lặng đang luân lưu (Tỳ-kheo Khất Sĩ Ajahn Chah)

regard_bouddhiste

Hình bìa tập san Regard Bouddhiste

(số tháng 9 và 10 / 2013)

Bài 1

Phỏng vấn nhà sư

Ringou Tulkou Rinpoché

ringou_tulkou_rinpoche

Ringou Tulkou Rinpoché (1952-)

Ringou Tulkou Rinpoché sinh năm 1952 tại tỉnh Kham Tây Tạng, và sau khi Trung Quốc đánh chiếm Tây Tạng thì ông và cả gia đình vượt biên sang tị nạn ở Ấn Độ. Vừa năm tuổi ông đã được vị lãnh đạo học phái Ca Nhĩ Cư là Karmapa XVI thừa nhận là người tái sinh của một vị đại sư quá cố của tu viện Rigoul. Ông đỗ tiến sĩ triết học Phật Giáo và được đào tạo theo cả bốn học phái Phật Giáo Tây Tạng. Hiện nay cứ mỗi năm ông giảng dạy khoảng sáu tháng tại Pháp.

Phỏng vấn nhà sư Ringou Tulkou Rinpoché

Phải luôn ghi nhớ là thiền định gồm có ba phép luyện tập

Tập san Regard Bouddhiste: Kính chào vị Đáng kính, xin Ngài vui lòng giải thích ngắn gọn phép thiền định là gì.

Ringo Tulkou Rinpoché: Tôi xin nói ngay đấy là một phép luyện tập, một phương pháp tập luyện nhằm biến cải chính mình bằng cách cải thiện những kinh nghiệm cảm nhận về con người của chính mình, và nhờ đó mình sẽ trở nên cao đẹp và nhân từ hơn, ích lợi cho người khác hơn: như thế gọi là thiền định. Thiền định không phải là một sự suy tư (meditation) mà gồm có ba phép luyện tập khác nhau, và chúng ta luôn phải ghi nhớ điều này.

Phép luyện tập thứ nhất nhắm vào trí tuệ. Đấy là cách tập nhìn vào mọi sự vật và tìm hiểu mọi sự vật. Biết nhìn vào mọi sự vật một cách minh bạchđúng đắn là một điều vô cùng quan trọng. Tóm lại phép luyện tập này dựa vào chủ đích tìm hiểu mọi sự vật là gì.

Phép luyện tập thứ hai là cách phải tiếp cận với sự sống như thế nào? Tức là cách phải giữ một thái độ hành xử ra sao trên phương diện thân xác, ngôn từtâm thức của mình? Nhiều người gọi đấy là việc giữ gìn giới luật, thế nhưng thật ra thì không hẳn đúng như thế mà đơn giản chỉ là cách phải hành động như thế nào cho thật đúng đắn, tất cả đều nhờ vào trí tuệ: khi nào quý vị phân biệt được hành động nào mang lại hậu quả tích cực và hành động nào mang lại hậu quả tiêu cực, thì tất quý vị cũng sẽ hiểu rằng mình phải hành xử ra sao để mang lại hậu quả tích cực cho mình và cho kẻ khác.

Phép luyện tập thứ ba là thiền định. Thiền định là một phép luyện tập tâm thức. Dù cảm thấy việc thiền định thật hữu ích và nên làm, thế nhưng lắm khi chúng ta lại không làm, chẳng qua chỉ vì một vài xúc cảm, thói quen hay xu hướng nào đó ngăn cản không cho chúng ta làm. Vì thế phải cải biến tâm thức mình khiến nó trở nên mềm dẻodễ bảo hơn. Dễ bảo có nghĩa là nếu quý vị bảo tâm thức "làm việc này" thì nó làm việc này, "không nên suy nghĩ quá nhiều" thì nó không suy nghĩ quá nhiều, "hãy suy nghĩ đi" thì nó suy nghĩ, "hãy tập trung tư tưởng" thì nó tập trung tư tưởng (tức là không phóng tưởng ra mọi hướng, chẳng hạn như không quay về quá khứ cũng không hướng vào tương lai, không nghĩ đến chuyện này, cũng không bắt sang chuyện kia), "hãy suy nghĩ một cách đúng đắn" thì nó suy nghĩ một cách đúng đắn (không suy nghĩ hay tưởng tượng xằng bậy). Sự dễ dạy của tâm thức thật vô cùng quan trọng đối với việc tu tập Phật Giáo, nếu không giữ được tâm thức dễ dạy thì nó sẽ trở nên bất trị, tương tự như một con khỉ phá phách hay một con voi đang lồng lộn. Muốn cho tâm thức dễ dạy thì phải để cho nó được yên và thư giãn. Tóm lại việc luyện tập thiền định là cách mang lại cho tâm thức sự thư giãn hầu giúp nó tìm về với thể dạng tự nhiên của nó.

Tập san RB: Vậy làm thế nào để thực hiện việc ấy?

R.T.R.: Có một giai thoại về bài thuyết giảng đầu tiên về thiền định của Đức Phật như sau: Ngài ngồi giảng bên bờ sông Hằng, các đệ tử bao quanh và lắng nghe. Thế nhưng bỗng dưng Ngài ngưng giảng và sai một đệ tử xuống sông múc một chậu nước mang lên. Đức Phật hỏi người đệ tử rằng: "Nước ấy có uống được không? Có sạch không?" Người đệ tử trả lời: "Bạch Thế Tôn, nước không uống được vì đầy bùn đất và mọi thứ cáu bẩn, thật không sạch tí nào". Đức Phật lại bảo như sau: "Tốt lắm, vậy cứ đậy chậu nước lại và để yên đấy, không nên chạm vào nữa". Đức Phật lại tiếp tục thuyết giảng. Một lúc thật lâu sau đó Đức Phật mới bảo với các đệ tử rằng: "Vậy hãy xem chậu nước bây giờ ra sao". Nhìn vào chậu nước một đệ tử thốt lên: "Ồ! chậu nước có vẻ sạch và có thể uống được rồi". Đức Phật bèn bảo rằng: "Trước đây nước không sạch, không uống được, bây giờ thì có thể uống được". Người đệ tử lại nói tiếp: "Trước đây nước xao động nên đục vì hòa lẫn với đủ mọi thứ. Nhờ để yên nên các thứ này lắng xuống, phẩm tính hay bản chất tự nhiên của nước nhờ đó đã hiện ra. Bản chất tự nhiên của nước mang tính cách tinh khiết và uống được".

Đức Phật lại giải thích thêm: " Cũng tương tự như thế, tâm thức chúng ta trong lúc này đang xao động khiến nó bị rối loạn, hoang mang và vướng vào mọi thứ xúc cảm, lo tính cũng như tình trạng căng thẳng (stress). Nếu chúng ta để nó thư giãn, giúp nó giữ được trạng thái tự nhiên, tức để yên không quấy rầy nó, thì phẩm tính đích thật của nó tất sẽ hiện ra. Một khi phẩm tính ấy hiện ra thì tâm thức cũng sẽ trở nên an bình, hân hoan, thân thiện và cởi mở hơn". Nếu muốn thực hiện được điều ấy thì phải giữ tâm thức thư giãn, không quấy rầy nó, không để nó rơi vào sự xao lãng (suy nghĩ hết chuyện này lại bắt sang chuyện khác), ngầy ngật hay mơ màng, có nghĩa là phải giữ tâm thức tỉnh táo và thư giãn (tuy nhiên trên thực tế việc ấy không phải dễ thực hiện. Khó khăn thứ nhất là không mấy ai trong chúng ta tự nhận mình đang sống trong tình trạng lo nghĩ, hoang mang và sợ sệt, trái lại luôn tự xem mình là sáng suốt, bình tĩnh và có lý..., và đấy cũng là lý do mang lại khó khăn và đớn đau cho mình và cho kẻ khác mà mình không ý thức được. Chỉ khi nào ngồi xuống trong yên lặng, chăm chú nhìn vào tâm thức mình để phân tích các xúc cảm đang hiện ra trong tâm thức thì mới nhận thấy tình trạng bấn loạn ấy đang chi phối mình thật nặng nề. Chỉ khi nào ý thức được thể dạng bị chi phối ấy thì mình mới hiểu rằng phải làm mọi cách để giữ cho tâm thức bình tĩnh, thư giãn và trong sáng. Tạo ra cho mình thể dạng bình lặng đó là khó khăn thứ hai: lúc đầu thể dạng đó cũng chỉ là một sự "tưởng tượng", sau đó và nếu cố gắng thì dần dần chúng ta sẽ "hé thấy" được nó, nếu tiếp tục "tập cho quen dần" (tiếng Tây Tạng gọi là gompa) với sự "hé thấy" ấy thì nó cũng sẽ hiện ra rõ ràng và thăng bằng hơn). Nếu quý vị giữ được thể dạng ấy trong một khoảng thời gian nào đó, thì tâm thức cũng sẽ trở nên mềm dẻo, dễ dạy và mình cũng sẽ dễ sống với nó hơn. Tóm lại thiền định cũng chỉ là như thế.

Sự chú tâm và một tâm linh luôn tỉnh thức là hai công cụ giúp chúng ta hành thiền

Thiền định cũng chỉ cần đến hai công cụ ấy!

Tập san RB: Thưa vị Tôn kính, kinh sách thường nói đến hai thể dạng tâm thức thật chủ yếu là nepa và gyurwa. Vậy hai thể dạng ấy giữ vai trò như thế nào đối với việc hành thiền?

R.T.R.: Nepa có nghĩa là tâm thức yên tĩnh, gyurwa có nghĩ là tâm thức đang vận hành, tức là đang trong thể dạng hoạt động. Tóm lạitâm thức hoặc ở trong tình trạng yên tĩnh hoặc ở trong tình trạng năng động. Yên tĩnh có nghĩa là thư giãn, bình lặng, không suy nghĩ quá đáng và cũng không quá xao động, thể dạng này gọi là nepa. Gyurwa có nghĩa là tâm thức trong tình trạng năng hoạt, nói cách khác là nó đang làm việc, tư duy nổi lên, xúc cảm hiện ra, tâm thức tìm hiểu hết chuyện này đến chuyện kia... Những gì trên đây cho thấy sự khác biệt giữa hai thể dạng nepagyurwa. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể sử dụng thiền định khiến cho tâm thức phải trở nên dễ dạy hơn dù là đang trong thể dạng bình lặng nepa hay thể dạng năng động gyurwa cũng thế. Phải cố gắng thực hiện được điều đó. Chúng ta không thể lúc nào cũng ở trong tình trạng tĩnh lặng được, chuyện đó không thể thực hiện được. Vì thế mỗi khi tâm thức bình lặng thì cứ để yên cho nó trong thể dạng thư giãn ấy, và hãy cảm nhận sự an bìnhhân hoan hiện ra với mình. Dầu sao cũng không thể giữ mãi được sự bình lặng ấy, do đó chúng ta cũng phải cố gắng tạo ra cho mình một sự thăng bằng nào đó cho tâm thức mỗi khi nó rơi vào tình trạng năng động. Chúng ta có thể tạo ra thể dạng thăng bằng trên đây bằng cách ý thức được là tâm thức mình đang làm việc. Mặc dù nó đang bận rộn và đang làm đủ mọi thứ chuyện thế nhưng chúng ta vẫn có thể giữ được sự tỉnh thức (pleine conscience / mindfulness / sự trầm tĩnhcảnh giác không cho những sự suy nghĩ của tâm thức lôi kéo mình vào các thể dạng xúc cảm bấn loạn), chúng ta vẫn giữ được một chút chú tâm nào đó về những gì đang xảy ra, tương tự như mình vẫn kiểm soát được tâm thức dù chỉ được một chút nào đó (dù chỉ kiểm soát tâm thức được "một chút", thế nhưng "một chút" ấy chính là điểm khởi đầu giúp mình "tập luyện thêm cho quen dần", bởi vì đến một lúc nào đó "một chút" ấy sẽ trở thành quan trọng hơn và mình sẽ kiểm soát và canh chừng được việc làm của tâm thức hiệu quả hơn). Thật hết sức quan trọng là phải biết lợi dụng cả hai thể dạng bình lặng và năng động trên đây trong mục đích biến cải tri thức mình và giúp mình tiếp tục tiến bước trên con đường tu tập (nếu tâm thức trong tình trạng bình lặng thì thật tốt, nên lợi dụng ngay những lúc ấy để tận hưởng sự an vui và hân hoan trong lòng, nếu nó đang cật lực làm việc thì nên canh chừng xem nó làm những việc gì, sự canh chừng đó sẽ giúp mình "quen dần" trong việc kiểm soát nó. Sự canh chừng và quen dần ấy chính là phép hành thiền, và hành thiền cũng có nghĩa là mình đang bước trên con đường đưa đến Giác Ngộ. Tu tập với cờ quạt phất phới, chuông mõ vang rền chỉ là cách dừng lại trên con đường để giải trívui chơi mà thôi).

Tập san RB: Vậy vai trò của sheshin và drenpa (tiếng Tây Tạng) là gì đối với sự chuyển đổi giữa hai thể dạng bình lặng và năng động?

R.T.R.: Drenpa có nghĩa là tâm linh tỉnh thức (pleine conscience / mindfulness), sheshin là sự chú tâm. Sự chú tâmtâm linh tỉnh thức là hai công cụ giúp chúng ta hành thiền. Thật ra chúng ta cũng chỉ có hai công cụ ấy thôi (nhà sư Ringou Tulkou mỉm cười).

Bures-Sur-Yvette, 30.10.13

Hoang Phong chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6105)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9983)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7085)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7333)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6987)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9349)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5833)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7099)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6519)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6093)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7160)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14378)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20424)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9465)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7865)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8180)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7447)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9369)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7443)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7478)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7663)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9468)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8773)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7364)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7956)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7008)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7663)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9853)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8281)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8830)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7665)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8824)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8627)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 7998)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9007)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9423)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8724)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8879)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7221)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9178)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8596)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7888)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9615)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10163)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8756)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8360)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7620)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9323)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7471)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15347)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7295)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8473)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12225)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7297)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11492)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8309)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8032)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7902)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8917)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7405)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant