Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tam Giới Duy Tâm, Vạn Pháp Duy Thức

09 Tháng Bảy 201418:19(Xem: 8135)
Tam Giới Duy Tâm, Vạn Pháp Duy Thức

Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức

Nguyễn Thế Đăng


1. Ba cõi duy tâm

“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.

Ở đây, tâm là gì? Kinh Hoa Nghiêm nói, “Tất cả ba cõi duy chỉ Nhất tâm” (phẩm Thập Địa)

Kinh lại nói:

Như tâm, Phật cũng vậy
Như Phật, chúng sanh đồng
Tâm, Phật, và chúng sanh
Cả ba không sai khác…
Nếu người muốn rõ biết
Tất cả Phật ba đời
Phải quán tánh pháp giới
Tất cả duy tâm tạo.
(Dạ-ma cung kệ tán)

Chúng sanh có thấp đến đâu cũng ở trong Tâm đó. Chư Phật có cao tới đâu cũng ở trong Tâm đó. Ba cõi có rộng đến đâu cũng ở trong Tâm đó. Đây là nghĩa “Tâm, Phật, và chúng sanh. Cả ba không sai khác”.

Ba cõi chỉ là Một Tâm. Tâm ấy tất cả chúng sanh đều có. Và Tâm ấy chính là Phật.

Tất cả những bậc chứng ngộ đều nói như thế, đều dạy như thế.

Thiền sư Mã Tổ nói:

“Các ngươi mỗi người phải tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâm Phật. Tổ Đạt-ma từ Ấn Độ sang Trung Hoa truyền pháp thượng thừa Nhất Tâm, khiến các ngươi khai ngộ”.

Rinpoche Karma Chagmé (Tây Tạng, thế kỷ 17) nói:

“Không có vị Phật nào và không có chúng sanh nào

Ở ngoài viên ngọc tâm”.

Kinh Quán Vô lượng thọ Phật nói:

“Chư Phật Như Laipháp giới thân, vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh. Thế nên, khi tâm các ngươi tưởng Phật thì tâm ấy là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi tướng phụ của Phật. Tâm tưởng niệm Phật, tâm quán tưởng Phật thì tâm ấy chính là Phật”.

Với người tin, thực hành thiền địnhthiền quán cùng các hạnh để thấy được và sống được tâm này thì toàn thể vũ trụ đều nằm trong tâm này. Như bóng nào cũng nằm trong gương. Như sóng nào cũng ở trong đại dương. Sự vật nào, phàm thánh nào cũng đều ở trong Nhất Tâm này và chính là Nhất Tâm này.

Thượng sĩ Huệ Trung nói:

Lặng! lặng! lặng!
Chìm! chìm! chìm!
Tâm của muôn pháp tức Phật tâm
Phật tâm lại cùng tâm ta hiệp
Pháp vốn như nhiên suốt cổ kim.

Thấy như vậy thì không gì không phải là Nó. Thấy gì cũng là Nó. Nghe gì cũng là Nó. Tràn đầy mắt tai mũi lưỡi thân ý và đối tượng của mắt tai mũi lưỡi thân ý là sắc thanh hương vị xúc pháp.

“Tất cả sắc tướng đều là sắc tướng Phật, tất cả âm thanh đều là âm thanh Phật, tất cả chúng sanh đều là các bậc giải thoát trong Tịnh độ của Phật”, điều này được bao gồm trong một mạn-đà-la của Mật tônghành giả cần quán tưởng để đạt được tâm mình chính là mạn-đà-la đó. Mạn-đà-la chính là pháp giới Nhất Tâm được thể hiện bằng hình vẽ.

Thiền sư Cảm Thành, đời thứ hai dòng thiền Vô Ngôn Thông Việt Nam, nhắc lại lời của Thiền sư Mã Tổ: “Xưa có người hỏi Mã Tổ: ‘Tâm tức là Phật, cái gì là Phật?’ Mã Tổ dạy: ‘Ông nghĩ cái nào không phải là Phật hãy chỉ ra xem?’”

Một lần có vị Tăng đến hỏi: “Thế nào là Phật?”

Thiền sư Cảm Thành trả lời: “Khắp tất cả chỗ”.

Lại hỏi: “Thế nào là tâm Phật?”

Sư đáp: “Chẳng từng che dấu”.

Cái “khắp tất cả chỗ, chẳng từng che dấu” này là Nhất Tâm hay Nhất Chân pháp giới. Thật tướngthật tánh của vũ trụchúng sanh chính là Nhất Tâm.

Ba cõi duy tâmba cõi duy chỉ là Nhất Tâm, trong đó “tất cả pháp đều là Phật pháp” (Kinh Kim Cương). Khi đạt đến tánh vàng của tất cả mọi sự (thật tướng của tất cả các pháp) thì tất cả sự vật, sinh thể của ba cõi này, đều là vàng.

Nhất Tâm hay Nhất Chân pháp giới này vốn như vậy (pháp nhĩ như thị), không vì có hay không có các bậc thánh ra đời khai thị, không vì chúng ta có thấy, có sống được Nó hay không, không vì chúng tathực hành hiệu quả hay không thực hành mà Nó có tăng có giảm, có nhiễm có tịnh, có sanh có diệt.

2. Vạn pháp duy thức

Trong Nhất Tâm thuần nhất, không cách hở mảy may, không có một khe hở chia cắt dầu bằng sợi tóc như vậy, tại sao lại có sự cách lìa giữa các sự vật, giữa người với người, giữa trời với đất?

Sự chia cắt thế giới Nhất Chân này thành không gian chia cách, thời gian phân đoạn này là do thức. Vì thức cho nên có sự khác biệt, tách lìa của vạn pháp: vạn pháp duy thức. Thức là vô minh đã hiển lộ nên có thể thấy được. Thức là cái thứ ba sau vô minh và hành trong mười hai nhân duyên sanh ra thế giới sanh tử luân hồi khổ đau.

Hơn thế nữa, sự phân biệt chia cắt của thức còn được tăng thêm sức mạnh bằng những thứ độc trong tâm: tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ, tà kiến… Sự phân biệt chia cắt càng mạnh thêm theo dòng sống, đến độ thế giới thành tranh giành, xung đột, chiến tranh. Thế giới sanh tử là môi trường trong đó mọi cái xung đột với nhau, phần tử xung đột với phần tử, phần tử xung đột với toàn thể. Sự hài hòa nguyên thủy của Nhất Tâm đã mất.

Thức đã chuyển hóa thế giới Nhất Tâm thành thế giới sanh tử khổ đau. Kinh Lăng Già nói:

Ví như sóng mặt biển
Do gió thổi mà sanh
Sóng to khởi biển rộng
Không khi nào ngưng dứt.
Biển tàng thức thường trụ
Gió cảnh giới nổi dậy
Lớp lớp các sóng thức
Liên miênchuyển sanh.

Biển Như Lai tạng, biển Nhất Tâm vốn một vị, thường trụ. Chỉ do các sóng thức lớp lớp sanh ra, tuy là sóng mà vẫn là nước biển, bèn có thế giới sóng lên xuống dập dồn. Thế giới sóng này nếu đứng riêng một mình thì không thật, vì sóng nào cũng là biển. Sóng chỉ là một dạng khác của biển.

Không thấy biển mà cho sóng ấy là khác với biển, tách lìa ngoài biển, thì sóng ấy là không thật, như huyễn. Vì thật ra sóng là biển, sắc tức là Không.

Hiện giờ chúng ta đang sống trong thế giới sóng do nghiệp thức của chúng ta tạo ra, chúng ta chẳng thấy biển tịch diệt vô sanh ở đâu cả. Chúng ta sống nơi những cái bóng, chúng ta chẳng thấy gương đâu cả. Chúng ta thất lạc trong một thế giới hiện tượng, chúng ta chẳng thấy bản thể “Như Lai tạng thường trụ” đâu cả. Thế giới ấy không thật, như huyễn, vì không có cơ sở, nền tảng nào cả ngoài nghiệp thức của mình, ngoài giấc mộng của mình.

Thế nên, nói theo tông Duy thức, chúng ta phải “chuyển thức thành Trí” , chuyển thế giới sai biệt xung đột này trở lại Nhất Tâm. Đó là con đường giải cứu cho thân tâmthế giới của chúng ta.

3. Chuyển thức thành trí

Chuyển thức tạo ra phân biệt hư vọng thành trí vô phân biệt, chuyển thức nhiễm ô thành trí thanh tịnh, tịnh hóa thức thành trí, là mục đích của tất cả mọi con đường, mọi tông phái Phật giáo.

Nói theo ngôn ngữ tông Duy thức thì chuyển thức thành trí là chuyển hóa tánh Biến kế sở chấp (bám chấp vào những thứ hư vọng như lông rùa, sừng thỏ) và tánh Y tha khởi (tính chất duyên sanh tạo ra sanh tử) thành tánh Viên thành thật (tính chất không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh của Niết-bàn).

Ở đây chúng ta chỉ nói đến một phần ý nghĩa của sự chuyển hóa ấy.

Có phải thức chuyển thành trí thì không còn gì cả, không có thân tâmthế giới này nữa không? Thức vẫn có, vẫn biết, nhưng nó đã chuyển thành trí; thành thử, đó là cái biết của trí. Nghĩa là thân tâmthế giới không còn là kết quả của thức phân biệt hư vọng, nhưng chúng là sự hiện hành của trí. Do đó mà nói, “toàn thức tức trí”.

Vì sóng vọng thức là từ biển trí sanh, không hai không khác, cho nên chuyển thức thành trí, tịnh hóa thức thành trí là thấy biết sóng là biển mà sóng vẫn là sóng. Thấy biết các bóng trong gương chính là gương mà không cần phá hoại bóng nào cả. “Sắc tức là Không, Không tức là sắc” cho nên không phải phá hoại sắc để có Không. Không phải phá hoại thức để có trí. Đó là điều Kinh, Luận thường nói.

Giải thoát không phải là xóa bỏ, triệt tiêu thức, mà đưa thức về bản tánh của nó là trí. Cũng thế, không phải dẹp hết sóng để thấy biển lớn. Chính nhờ có sóng mới thấy bản tánh của sóng là nước biển, nhờ có thức sanh tử mới thấy ra được trí Niết-bàn. Giải thoát là thấy thức tức là trí, sắc thọ tưởng hành thức tức là tánh Không, bóng tức là gương, sóng tức là nước biển, tất cả tướng là Nhất Tâm.

Thấy được thật tướng của thức tức là trí, bèn giải thoát. Từ đây chỉ có trí, sống trong cảnh giới của trí. Sự phân biệt của thức chính là sự sáng tỏ của trí. Như một người đã vào đến mỏ vàng, từ đây cái gì người ấy làm ra đều là vàng.

Những đoạn kệ được trích dẫn ở sau đều từ phẩm Dạ-ma cung kệ tán, Kinh Hoa Nghiêm.

Các pháp vô sai biệt
Không ai biết điều đó
Chỉ Phật cùng Phật biết
trí huệ rốt ráo.
Như vàng và màu vàng
Tánh chúng không sai biệt
Pháp, phi pháp cũng vậy
Thể tánh vốn chẳng khác.

Các pháp có phân biệt, có đến đi, có sanh diệt… đều là do thức. Luận Đại thừa khởi tín nói: “Tâm sanh thì thảy thảy pháp sanh; tâm diệt thì thảy thảy pháp diệt”. Biết được bản chất của thức là không sanh, tuy sanh mà thật ra là không sanh, đây là sự chuyển hóa thức thành trí.

Nghiệp thức vốn là không tịch, cho nên các pháp vốn là giải thoát.

Tánh nghiệp vốn không tịch
Chúng sanh nương nơi thức
Khắp làm các hình sắc
Nhưng thật không chỗ đến.
Những hình sắc như vậy
Nghiệp lực khó nghĩ bàn
Rõ đạt căn bản kia
Trong ấy không thấy có.

Thấy được thật tướng của thức cũng như của tất cả các pháp là không tịch, vô sanh, thì thấy biết tất cả sanh tửkhông tịch, vô sanh. Sanh tử vô sanh thì đó là Tịnh độ của chư Phật.

Các pháp không chỗ đến
Cũng không có tác giả
Cũng không từ đâu sanh
Chẳng thể phân biệt được.
Tất cả pháp không đến
Vì thế nên không sanh
Vì đã không có sanh
Nên cũng không có diệt.
Tất cả pháp vô sanh
Tất cả pháp vô diệt
Nếu biết được như thế
Người ấy thấy được Phật.

Cũng một ý với phẩm Dạ-ma cung kệ tán này, Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông nói lên bài kệ cuối cùng trước khi từ giã cõi đời:

Tất cả pháp chẳng sanh
Tất cả pháp chẳng diệt
Nếu biết được như thế
Chư Phật thường hiện tiền.

Khi một người đạt đến tâm Phật, cũng chính là bản tâm của mình, thì thấy cái gì cũng là Phật, nghe cái gì cũng là Phật. Người ấy đã ở trong Tịnh độ pháp giới của chư Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5826)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 5002)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4388)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4679)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4721)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5881)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3317)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5288)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2951)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4169)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5312)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4280)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3341)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6374)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5363)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4650)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6267)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6122)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3912)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6048)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4650)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4814)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3403)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6300)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4968)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3561)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3497)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5707)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4265)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 6022)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5268)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3704)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3791)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3720)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3547)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5389)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4043)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4397)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5844)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3145)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3086)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3900)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4880)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3591)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3072)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4607)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4762)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3474)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 4012)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4748)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3595)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3621)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5169)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4180)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3307)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 3012)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3052)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3129)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3130)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3502)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant