Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giới Không Trộm Cắp - Nhìn Từ Quan Điểm Đạo Đức Phật Giáo

27 Tháng Mười Hai 201514:00(Xem: 8095)
Giới Không Trộm Cắp - Nhìn Từ Quan Điểm Đạo Đức Phật Giáo
Giới Không Trộm Cắp
Nhìn Từ Quan Điểm Đạo Đức Phật Giáo

Thích Phước Đạt

Giới Không Trộm Cắp -  Nhìn Từ Quan Điểm Đạo Đức Phật Giáo


Năm giớimười điều thiện được xem là cơ sở thiết lập đạo đức Phật giáo thì giới thứ hai “Không trộm cắp” là nhằm đảm bảo tính công bình và hướng tâm con người đi đến sự vô tham, vô sân, vô si.

Một cá thể, một gia đình, một xã hội nếu không thực thi, giữ gìn giới này thì đừng có bao giờ đề cập đến việc thiết lập giá trị đạo đức, cao hơn là giá trị hạnh phúc thật sự. Trong một xã hội hiện đại, với một nền kinh tế thị trường, sự duy trìgìn giữ giới này không chỉ là động lực phát huy nhân cách đạo đức, bảo đảm trật tự xã hội, trên hết là kích thích sự sáng tạo vô bờ bến của trí tuệ con người.

Phật nói có ba loại thần thông. Thứ nhất là biến hóa thần thông, tức là thi thố những quyền năng siêu nhiên như bay trên không như chim, lội dưới nước như cá, đi ngang qua vật cản như là đi giữa hư không v.v… Hai là túc mạng thông, tức là biết rõ các kiếp sống trước của mình và của người khác. Và ba là giáo hóa thần thông tức là bố thí pháp, tức là giáo hóa người khác từ ác trở thành thiện, từ mê chuyển sang ngộ v.v…

Giới thứ hai từ Pali là Adinnadana veramani, nghĩa là Phật tử không được lấy của không cho. Ở các nước Phật giáo Nam tông như Campuchia, Lào, Miến Điện, Thái Lan, Tích Lan v.v… Tăng sĩ sống bằng khất thực, chỉ nhận những thức ăn và các vật dụng khác được Phật tử tại gia thành tâm cúng dường. Còn Phật tử tại gia thì được khuyến khích nuôi sống mình và gia đình mình bằng nghề nghiệp thiện lành, chính đáng. Chánh mạng là một trong tám mục của Bát Chánh đạo. Chánh mạng là sống bằng nghề nghiệp chính đáng, lương thiện.

Có thể phân biệt hai loại trộm cắp. Một loại là trộm cắp trực tiếp, nghĩa là chiếm đoạt một hay những cái gì thuộc quyền sở hữu của người khác, mà người ấy không bằng lòng. Loại trộm cắp thứ hai là gián tiếp bằng lừa đảo hay gian lận. Nói tóm lại, đạo đức Phật giáo lên án mọi hành vi thủ lợi, không trung thực, không lương thiện. Đối với Phật tử, cái gì đã không cho thì không lấy, đồng thời khuyến cáo mọi người cần thực thi hạnh bố thí nữa. Đó là phương châm bất di dịch, trong mọi giao dịch giữa Phật tử với nhau cũng như giữa Phật tử với người ngoài.

Đối lập với nghiệp trộm cắp, lấy của không cho là hạnh bố thí (Pali: dana). Bố thí đứng đầu trong mười hạnh Ba-la-mật của Phật giáo Nam tông. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề rất quan trọng này ở một đoạn sau. Một hành vi được xem là trộm cắp, là lấy của không cho khi có những điều kiện sau đây: 1. Của cải, đồ đạc, vật dụng của người khác. 2. Người lấy biết rõ, đó là của cải, đồ đạc, vật dụng của người khác. 3. Có ý chiếm đoạt. 4. Dùng thủ đoạn để chiếm đoạt. 5. Hành vi cụ thể chiếm đoạt. Dùng phương tiện hay phương pháp chiếm đoạt là như thế nào, một khi đã có sự chiếm đoạt mà người đương sự, có của bị chiếm đoạt không bằng lòng, thì đó là trộm cắp, là lấy của không cho, và người chiếm đoạt nhất định sẽ chịu quả báo tương ứng.

Người lấy của không cho bị quả báo xấu như thế nào? Kẻ ăn trộm, kẻ lấy của không cho chịu các quả báo như: 1. Sau khi mệnh chung, phải đọa vào các cõi ác, như địa ngục, quỷ đói, súc sanh. 2. Nếu may mắn được làm người, thì chịu cảnh nghèo khổ. 3. Không thể nào tích lũy được tài sản. 4. Nếu mà tích lũy được, thì lại bị vua quan, kẻ cướp, hỏa tai, thủy tai đoạt lại sạch sành sanh. 5. Không có khả năng thọ hưởng năm dục và bị mọi người khinh rẻ.

Bố thí là thế nào và nên bố thí như thế nào? Đạo đức Phật giáo không những răn dạy Phật tử cũng như mọi người không được trộm cắp, không được lấy của không cho mà còn khuyến giáo mọi người luôn luôn nghĩ tới bố thíthực hành bố thí. Phật giáo có một quan niệm hết sức rộng rãi về hạnh bố thí. Có thể nói, người nào, bất cứ lúc nào, trong hoàn cảnh nào cũng có thể thực hành bố thí.

Người có của cho của. Đó là tài thí. Có nhiều cho nhiều, có ít cho ít. Cho nhiều hay ít là không quan trọng, điều quan trọng là ở tấm lòng từ, lòng bi của người cho, thành tâm muốn đem vui và cứu khổ cho người khác. Người không có của, như Tăng Ni xuất gia không có của riêng, thì bố thí pháp, gọi là pháp thí. Nghĩa là chỉ dạy cho người khác đạo lý làm người và đạo lý giải thoát. Phật luôn luôn dạy rằng trong tất cả các loại bố thí thì pháp thí là đệ nhất, là đáng quý hơn cả. Dạy người tìm an lạc trong nếp sống thiện lành, dạy người con đường thoát khỏi luân hồi sanh tử, Đức Phật xem đó như là một loại thần thông, tức là giáo hóa thần thông.

Phật nói có ba loại thần thông. Thứ nhất là biến hóa thần thông, tức là thi thố những quyền năng siêu nhiên như bay trên không như chim, lội dưới nước như cá, đi ngang qua vật cản như là đi giữa hư không v.v… Hai là túc mạng thông, tức là biết rõ các kiếp sống trước của mình và của người khác. Và ba là giáo hóa thần thông tức là bố thí pháp, tức là giáo hóa người khác từ ác trở thành thiện, từ mê chuyển sang ngộ v.v…

Trong ba loại thần thông đó, Phật đánh giá cao nhất, đáng thực hành nhất là giáo hóa thần thông. Mà giáo hóa chính là pháp thí. Muốn pháp thí thì mọi người, xuất gia cũng như tại gia đều phải học tập Phật pháp, thực hành Phật pháp trong cuộc sống hàng ngày của mình, tức là phải sống đạo đức theo năm giới và mười thiện, và với một nhiệt tình cùng hạnh kiên nhẫn rất lớn, thuyết phục mọi người xung quanh mình đều sống theo năm giới, mười thiện. Nếu tất cả chúng ta, ai ai cũng làm như thế, thì xã hội này sẽ hướng thiện, mỗi người đều sống an lạc, cả xã hội này cũng được an lạc, cõi người sẽ biến thành cõi Phật.

Và như trong kinh Phật thường nói, ở những đất nước mà mọi người đều biết sống đạo đức, sống thiện, thì thiên nhiên cũng ưu đãi, mưa gió thuận hòa, thiên tai vắng bóng, mùa màng xanh tốt, thực phẩm dồi dào, nhân dân sống no đủ và an lạc. Hiện nay, khoa học vẫn chưa khám phá ra được mối liên hệ qua lại, biện chứng giữa cuộc sống đạo đức của xã hội với sự vận hành của môi trường thiên nhiên.

Đức Phật với con mắt trí tuệ của ngài, biết rõ, thấy rõ mối quan hệ đó và Ngài khuyên chúng ta sống đạo đức, sống thiện để tận hưởng mọi ưu đãi của thiên nhiên.

Có những người không giàu có, cũng không có pháp để pháp thí nhưng họ có thế lựcsức mạnh, họ có thể thực hành cái mà trong kinh Phật gọi là vô úy thí, nghĩa là bố thí sự không sợ hãi, bảo vệ cho mọi chúng sanh, mọi người khỏi phải sợ hãi, lo âu. Nếu phân tích kỹ, chúng ta sẽ thấy, giữ giới sát cũng là bố thí sự không sợ hãi cho chúng sanh không còn lo gì bị giết hại. Giữ giới không trộm cắp cũng là bố thí cho chúng sanh không còn lo sợ bị mất cắp, bị lừa đảo, bị gian lận v.v…

Giữ giới tà dâm, tức là bố thí cho mọi người khỏi phải sợ hãi cảnh vợ chồng bất hòa, gia đình ly tán. Giữ giới không nói dối tức là bố thí cho mọi người khỏi phải sợ bị dối trá, bị lừa gạt. Bố thí pháp cũng là một hình thức vô úy thí, vì người nghe pháp, sẽ được an tâm không lo sợ phải tái sanh xuống các cõi dữ, cõi ác, ngược lại được hướng dẫn trên con đường đạo, tiến tới giác ngộgiải thoát, tiến tới Niết-bàn là cảnh giới hạnh phúc tối thượng. Chia sẻ niềm vui với mọi người, trong tâm hồn không mảy mayý niệm ghen ghét đố kỵ, đó là tùy hỷ thí. Đem lại niềm vui cho mọi người, đó là lòng từ. Chia sẻ niềm vui với người khác, đó là lòng hỷ, là tùy hỷ.

Như chúng ta biết, và như đã nói ở đoạn trên, hạnh bố thí đứng đầu mười hạnh trong Ba-la-mật của Phật giáo Nam tông, đứng đầu sáu hạnh Ba-la-mật của Phật giáo Bắc tông, cũng đứng đầu bốn nhiếp hạnh, chung cho cả Nam và Bắc tông (bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự), cho nên tất cả chúng ta cần hiểu thấu rõ nội dung của bố thí, và những điều kiện để cho mỗi hành vi bố thí của chúng ta đạt được hiệu quả cao nhất, nhiều nhất.

Mọi người đều biết trong kinh Kim Cang, một bộ kinh Đại thừa rất quan trọng, thuộc văn hệ phái Bát-nhã, một bộ kinh rất quen thuộc với giới Phật giáo Việt Nam, xuất gia cũng như tại gia. Phật dạy rằng, bố thí mà không vướng mắc vào tướng, thì bố thí đó đem lại cho người bố thí công đức không lường. Mà tướng ở đây Phật giải thích là sắc, thanh hương vị xúc pháp, tức là sáu trần.

Vì sao như vậy? Vì khi tâm chúng ta vướng mắc vào sáu trần thì lập tức bị sáu trần hạn chế và làm ô nhiễm, công việc bố thí của chúng ta sẽ không còn thanh tịnh nữa, và hiệu quả của nó sẽ bị hạn chế. Bố thí với tâm vô lượng, thì công đức của bố thí đó cũng là vô lượng. Trong nhiều kinh luận, hiệu quả của bố thí cũng được nói đến, cụ thể hơn và dễ hiểu hơn. Qua những kinh luận đó, chúng ta sẽ hiểu được ý nghĩa của “bố thí không trú tướng” trong kinh Kim Cang.

Kinh Ưu-bà-tắc-giới, quyển 5, viết: Có ba tình huống khi bố thí không đem lại nhiều công đức: 1. Ban đầu, phát tâm bố thí rất nhiều, sau lại giảm bớt đi. 2. Lựa chọn những cái gì xấu, hư hỏng để bố thí. 3. Bố thí rồi sanh lòng tiếc rẻ, hối hận. Cũng kinh Ưu-bà-tắc-giới, quyển 5, phân biệt có 8 điều kiện hạn chế công đức của bố thí: 1. Sau khi bố thí, phát hiện thấy người được bố thí có vài lỗi và khuyết điểm. 2. Bố thí xong tự ca ngợi công đức bố thí của mình. 3. Lúc đầu nói không có gì mà cho, sau mới bố thí. 4. Bố thí xong, đòi hỏi người được bố thí thỏa mãn một số yêu cầu của mình. 5. Khi bố thí tâm không bình đẳng. 6. Bố thí xong nói lời bất nhã. 7. Bố thí xong, đòi trả ơn. 8. Bố thí xong, tâm sinh nghi ngờ. Rất rõ ràng, bố thí theo kiểu như trên là bố thí với tâm hạn hẹp, tâm ô nhiễm, không phải là bố thí thanh tịnh.

Việc chính trong lễ cầu siêu, cầu an không phải là mời Tăng sĩ đến làm lễ, tụng kinh niệm Phật mà tự bản thân người ốm hay là người sắp qua đời phải tụng kinh niệm Phật, nếu không đủ sức thì người thân phải tự mình tụng kinh niệm Phật, đem của cải bố thí, cúng dường Tam bảo, giúp đỡ cho người nghèo rồi hồi hướng công đức cho người ốm và người sắp quá cố hay là người đã quá cố. Tăng Ni cũng có thể mời, nhưng là để hộ niệm mà thôi. Tuyệt đối không được mời khách ăn uống linh đình, giết hại sinh vật.

Kinh Tăng nhất A-hàm, quyển 37, viết: “Khi bố thí tài vật cần chú ý 8 điều sau đây: 1. Bố thí phải đúng thời cơ. 2. Dùng loại tài vật mới, tinh khiếtbố thí, không bố thí những tài vật dơ bẩn, hư hỏng. 3. Cầm tài vật với hai tay để biếu tặng, không được sai người đem cho. 4. Thường phát nguyện bố thí, không được có tâm ngạo mạn. 5. Bố thí để cứu độ chúng sanh, chứ không đòi được trả ơn. 6. Cầu cảnh giới Niết-bàn vô thượngbố thí, chứ không cầu phước báo loài trời và loài người. 7. Ưu tiên bố thí những bậc thật sự là ruộng phước (như Tam bảo, cha mẹ, sư trưởng, v.v...) sau đó bố thí cho những đối tượng kém cõi hơn. 8. Hồi hướng công đức bố thí cho chúng sanh, không giữ công đức ấy riêng cho mình hưởng thọ”.

Du-già sư địa luận, cuốn 38, viết: “Bồ-tát khi bố thí không tính đến quả báo, không vì lợi dưỡngdanh vọng thế gian, không vì để được trả ơn, không vì để được kính trọngcúng dường, vị ấy không bố thí với tâm hạn hẹp, dù cho tài vật bố thí có ít, tâm của vị ấy vẫn rộng rãi. Huống hồ khi vị ấy có nhiều của cải đem bố thí, sao lại không phát đại tâm ư?”. Cũng Du-già sư địa luận, cuốn 39, viết: “Có năm đặc trưng của hành động bố thí của người thiện: 1. Bố thí với niềm tin thanh tịnh. 2. Bố thí với thái độ cung kính. 3. Bố thí với hai tay, và tự mình biếu. 4. Bố thí đúng thời. 5. Bố thí mà không gây phiền não cho người khác”.

Điều tối kỵ nhất là sát sanh hàng loạt để mời khách và cúng tế. Kinh Tạp A-hàm, quyển 4, chép truyện có một trưởng giả tên là Trưởng Thân chuẩn bị giết hàng trăm con bò, dê, để lập tế đàn lớn cầu phước báo. Phật thấy và dạy rằng: “Sát sanh để bố thí không những không được phước báo mà còn mang tội cả một đời”. Và nói: “Nếu cúng dường ba loại lửa thì được phước báoan lạc. Một là căn bổn hỏa, tức là lửa căn bổn. Cha mẹ sanh ra chúng ta, chính là căn bổn của chúng ta. Hãy phụng dưỡng và cúng dường cha mẹ là lửa căn bổn thì sẽ được phước báo lớn. Hai là cư gia hỏa, tức là bố thí cho vợ, chồng, con cái, thân thuộc. Ba là phước điền hỏa, tức là bố thí cúng dường Tam bảo, cúng dường cho người xuất gia, thầy dạy là những người dạy chúng ta đoạn trừ tham, sân, si”. Trưởng giả không những nghe theo lời Phật dạy, thả hết bò, dê dự định giết thịt mà còn xin làm lễ quy y Tam bảo, mời Phật và Tăng chúng dự trai tăng v.v…

Có thể nói đạo Phật có một quan niệm hết sức rộng rãi về hạnh bố thí, giúp cho bất cứ người nào có lòng từ, lòng bi đều có thể tu hạnh bố thí, và bố thí đúng theo pháp của Phật và Bồ-tát nên được phước đức vô lượng.

Cho nên, việc chính trong lễ cầu siêu, cầu an không phải là mời Tăng sĩ đến làm lễ, tụng kinh niệm Phật mà tự bản thân người ốm hay là người sắp qua đời phải tụng kinh niệm Phật, nếu không đủ sức thì người thân phải tự mình tụng kinh niệm Phật, đem của cải bố thí, cúng dường Tam bảo, giúp đỡ cho người nghèo rồi hồi hướng công đức cho người ốm và người sắp quá cố hay là người đã quá cố. Tăng Ni cũng có thể mời, nhưng là để hộ niệm mà thôi. Tuyệt đối không được mời khách ăn uống linh đình, giết hại sinh vật.

Nói chung lại, cách cầu an và cầu siêu đúng theo Chánh pháp của Phật là bố thí rộng rãi, và hồi hướng công đức cho người ốm và người sắp qua đời hay là vừa qua đời. Mọi lễ lạt chỉ có ý nghĩa hỗ trợ mà thôi.

Kinh Độ vô cực, quyển 3, kể chuyện ngày xưa có ông vua tên là Hòa Hắc, nhân thái hậu bệnh nặng, vua nghe theo ngoại đạo, tổ chức tế đàn lớn, dự định giết một em bé nhi đồng và 100 súc vật để tế thần, cầu cho thái hậu khỏi trọng bệnh. Phật dùng thiên nhãn, thấy sự việc như thế bèn đến ngay tại hiện trường mà bảo rằng: “Muốn có lương thực thì phải siêng năng cày cấy, muốn được giàu có thì phải bố thí rộng rãi, muốn sống thọ lâu thì phải nuôi dưỡng lòng từ bi, muốn có trí tuệ thì phải siêng năng học tập, làm điều thiện mới được quả báo an lạc. Cách nhà ngươi sát sanh để cầu sống thọtrái với luật nhân quả. Sát sanh là làm trái với đức hiếu sanh của trời, không những không tăng thọ mà còn làm giảm bớt thọ mạng. Phật bèn nói kệ:

Nếu một người sống trăm tuổi
Thờ phụng các vị thần trong thiên hạ
Giết voi, ngựa để cúng tế lễ
Không bằng tu hạnh từ bi.

Phật lại phóng hào quang làm cho mọi người có mặt đều sanh lòng hoan hỷ. Nhà vua nghe Phật giảng pháp, chứng được Sơ quả thánh. Thái hậu nghe pháp, tâm thấy vui vẻ, bệnh cũng giảm bớt dần dần. Hơn hai trăm Bà-la-môn ngoại đạo có mặt, là những người khuyên vua lập tế đàn, cũng sinh lòng hổ thẹn, cầu xin Phật thu nạp làm đệ tử. Từ đó về sau, nhà vua thi hành nhân chánh, yêu dân như con, trời thì mưa thuận gió hòa, mùa màng năm nào cũng tươi tốt. Nhân dân từ bỏ điều ác, nhờ đó, thọ mạng trung bình của dân chúng cũng tăng lên…”.

Suy cho cùng, giá trị đạo đức của con người là biết sống thiện, tức là sống đạo đức bằng sự nỗ lực tinh cần làm ra của cải vật chất bằng chính “do sức mạnh cánh tay, do mồ hôi đổ ra đúng pháp, do thâu hoạch đúng pháp” như Đức Phật từng dạy. Có như vậy, chúng ta mới bảo đảm sự công bằng về sở hữu trí tuệsở hữu vật chất của mỗi cá thể, của một cộng đồng. Có công bằng thì mới bảo đảm sự hạnh phúc cho mọi người.


Thích Phước Đạt (NS Gíác Ngộ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7994)
Thiều Chửu và Đoàn Trung Còn đều không giải thích được lý do tại sao chữ VẠN quay theo chiều này thì cát tường, quay theo chiều ngược lại thì nguy hại... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 7683)
Một trong những nền tảng quan trọng của đạo đức Phật giáotuân theo tinh thần bất bạo động... Tác giả: Charles K. Fink; Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 8803)
Đức Phật đã thuyết giảng như thế nào về sự đau đớn? Ngài bảo rằng sự bất an của chúng ta gồm có hai thể dạng khác nhau... Ajahn Brahmavamso, Hoang Phong dịch
(Xem: 7092)
Không là một khái niệm xuất hiện khá sớm trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, trải dài đến Phật giáo Đại thừa... Thích Nữ Nhuận Bình
(Xem: 9313)
Tác phẩm “Tuệ Sanh Định” là một trong số ít tác phẩm được viết bởi Bậc Thầy Maha Boowa (Bhikkhu Ñanasampanno)... Nhất Như dịch Việt
(Xem: 8752)
Nguyên tác tiếng Anh của Darwinism, Buddhism and Christanity được đăng trong tạp chí The Maha Bodhi, Sri Lanka, Tập 82 Dec 1974 Thích Nữ Liên Hòa dịch
(Xem: 10220)
Trong Kinh Duy-Ma-Cật, khi Phật bảo Ngài Duy-Ma-Cật thị hiện cõi nước Diệu-Hỷ có Vô-Động Như-Lai, các Bồ-Tát, và đại chúng nước ấy cho đại chúng xem... Toàn Không
(Xem: 8181)
Chân Nguyên kết luận: “Đức Phật Thích Ca đã tự chính mình đem thánh hiệu mà dạy cho hai người già, điều đó không còn có thể nghi ngờ gì nữa”... Thích Phước An
(Xem: 9518)
Một sự kết hợp thú vị giữa đạo đức chính trực, sự phục tùng, lòng khoan dung, cầu nguyện, khả năng tự lực, tự thanh lọc và tình yêu... Mai Thục
(Xem: 6927)
Mũi tên biểu trưng cho một sự đau đớn trên thân xác, nhưng cũng có thể là nguyên nhân gây ra một sự hoảng sợ trong tâm thần... Hoang Phong
(Xem: 7978)
Yết-ma, được phiên âm từ karmam[1] của tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự tác pháp”, được định nghĩa: “Vạn sự do tư thành biện cố”... Thích Minh Cảnh
(Xem: 8355)
Quảng bản kinh được Pháp Nguyệt dịch năm 732, rồi đến Bát NhãLợi Ngôn tái dịch năm 790. Cho đến Thi Hộ đời nhà Tống dịch lần chót là có tất cả 7 bản... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 8631)
Bồ tát hành đạo bắt đầu từ giữa lòng xã hội nên sự tiếp cận với mọi thống khổ nhân sinh là lẽ tất nhiên... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 8391)
Thiền sư Vĩnh Bình Đạo Nguyên, hoặc Đạo Nguyên Hy Huyền (1200-1253), là vị tổ sáng lập ra dòng Tào ĐộngNhật Bản... Ngọc Bảo dịch
(Xem: 8503)
Một cách vắn tắt, đó là vị trí của nữ giới trong Phật Giáo. Người phụ nữ xứng đáng có một chỗ đứng danh dự ngang hàng với nam giới... Piyadassi Mahathera; Dịch giả: Phạm Kim Khánh
(Xem: 11242)
Người vợ cần quán chiếu tâm mình thật cẩn thận trong một thời gian và từ đó đi đến quyết định đúng cho cuộc đời của mình... Mithra Wettimuny; Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
(Xem: 8551)
Đức Thế Tôn là người đầu tiên đòi quyền lợi cho giới nữ, đưa vị trí giới nữ ngang bằng nam giới... Thích Hạnh Bình
(Xem: 10681)
Hội Phật giáo Trung Quốc ước tính rằng hiện có khoảng 180,000 tăng niTrung Quốc... Nguyên tác: Tịnh Nhân; Thích Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 9443)
Ngài đã gọi dứt khoát, rõ ràng “tự phá thai mình” là một tội, phải chịu quả báo hết sức nặng nề và kéo dài... Chân Minh
(Xem: 9228)
Làm thế nào để những cha mẹ Phật tử có thể dạy tốt lời dạy của Phật giáo cho con em của họ?... Helmuth Kalr; Thích Minh Diệu
(Xem: 9544)
Rồi lần lượt không bao lâu, khi Ðức Phật đúng 80 tuổi đời, 45 tuổi đạo, Ngài cũng giã từ Tứ chúng để an hưởng quả vị Vô Dư Niết-bàn... Thích Thiện Minh
(Xem: 10319)
Con người không bao giờ ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên để mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình... Tuệ Sỹ
(Xem: 16175)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19154)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 8664)
Long Thọ (Nagarjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán mà ngài còn được coi là vị Phật thứ hai sau đức Thế Tôn trong lịch sử phát triển Phật giáo.... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 8016)
Như thế giải thoát cho vô số vô biên chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào được giải thoát... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 24133)
Cúng dườngbố thí vốn cùng một nghĩa "cho". Cái gì của mình mà có thể đem ra "cho" người khác, thì gọi là "cho"... TT Thích Nhất Chân
(Xem: 9378)
Lịch Sử Văn Học Phật Giáo Tiếng Sanskrit (Literary History of Sanskrit Buddhism - Nguyên tác: J. K. Nariman; Thích Nhuận Châu dịch Việt
(Xem: 7633)
Yết-ma là phiên âm từ karman của tiếng Phạn. Hán dịch là «biện sự tác pháp», và thường được các luật sư Trung quốc giải thích rằng «Vạn sự do tư thành biện cố.»... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 10532)
Chúng ta có thể thấy được đức tính của những khóm tre cây trúc, của những dòng sông, của cây mai, của đất, của áng mây... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17689)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 6932)
Giáo dục Phật giáo – nền giáo dục minh triết, vốn ở cao, ở trên triết học... Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Xem: 8858)
Đọc công trình của Francois Jullien những độc giả "Tây giả" (Á và Âu) có thể thấy được rằng người bà con nghèo của triết học có những sở đắc... Nguyên Ngọc dịch
(Xem: 12341)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 7695)
Chúng ta thường nghĩ là mình đã hiểu nhưng thật ra có lẽ ta chưa hiểu rõ thế nào là quy y Tam Bảo... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 14585)
Tăng đoànhình ảnh của Đức Phật, mang trọng trách thừa Như Lai sứ, hành Như Lai sự... Thích Phước Sơn
(Xem: 8241)
Ðại Tạng Kinh là một công trình tập thành tâm huyết của bao nhiêu thế hệ Tổ Sư, cổ đức Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Ly... Liên Hương kính ghi
(Xem: 7775)
Trong Phật giáo đại thừa nói rất rõ: Phiền não tức bồ đề, Niết bànsinh tử. Niết bànsinh tử là một cặp bài trùng, không có cái này thì không có cái kia...
(Xem: 8841)
Có thể nói “tâm” là cơ sở và động lực giải nghiệp, giải hạn khổ ách đối với con người trong mọi không giannăng lực chuyển nghiệp.
(Xem: 14788)
Tổ tiên ta đã Phật hóa gia đình, giáo dục con cháu phải biết chia sẻ hạnh phúc, ban rải tình thương đến mọi người, mọi loài... TT Thích Lệ Trang
(Xem: 9251)
"Khi cúng dường tứ sự đến cho một vị tỳ-khưu, hai vị tỳ-khưu, cận sự nam nữ đừng nghĩ đến cá nhân vị ấy mà cứ khởi tâm cúng dường Tăng..." Tâm Tịnh
(Xem: 12311)
Từ Trạch Pháp này rất quen thuộc trong Phật Giáo, nhưng đã có mấy người Phật tử chịu tìm hiểu tận tường... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 8490)
Theo Phật giáo, con người sinh ra từ vô thủy (thỉ) đến giờ đã trải qua vô lượng đời, và sẽ còn tiếp nối vô số đời nữa ở tương lai cho đến vô chung... Toàn Không
(Xem: 14492)
Hoa dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền-Trang; Việt dịch: HT Thích Trí-Quang; Anh dịch: Buddhist Text Translation Society
(Xem: 12456)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 8394)
Chúng tôi xin bàn về một số điểm liên hệ, nhất là làm rõ về niên đại Hán dịch của tác phẩm, từ đó chúng tôi xin ghi nhận một số từ ngữ, thuật ngữ Phật học đã được Hán dịch vào thời ấy... Đào Nguyên
(Xem: 10127)
Dù tâm mộ đạo, nhưng Phật tử còn theo nghi lễ xa xưa và kinh điển cổ ngữ, nên việc tu tập không còn phù hợp với nhu cầu của thời đại mới... Johan Galtung, Đỗ Kim Thêm
(Xem: 7740)
Trong việc quảng bá sự hiểu biết, vai trò của người Thầy thật hết sức cần thiết, thế nhưng người Thầy thì cũng phải có đầy đủ khả năng... Hoang Phong
(Xem: 16011)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý. ... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8199)
Nói đến văn hóa tức là nói đến tổ chức đời sống của một dân tộc, trong đó bao gồm các mặt kinh tế, xã hội, luật lệ, văn chương, mỹ thuật, tôn giáo, v.v... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8259)
Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt... Lâm Như Tạng
(Xem: 7851)
Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 11158)
“Bản Giác : Tâm thể của chúng sinh tự tánh thanh tịnh, lìa mọi vọng tưởng, sáng tỏ vằng vặc, có đức giác tri. Đó chẳng phải do tu thành mà như thế, mà chính là tính đức tự nhiên bản hửu, nên gọi là Bản Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 9122)
Thượng tọa Thích Thuyền Ấn trình bày tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào ngày 9-4-1967. Sau đó, bài diễn thuyết này được in trong tập Diễn Đàn Vạn Hạnh, số 1, do Ban Tu thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành năm 1967.
(Xem: 9260)
Bản Chất Của Tâm Thức - Tác giả: His Holiness the Fourteenth Dalai Lama, Anh dịch: Alexander Berzin, Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 8388)
Niết bàn, nirvana (S), nibbana (P), trong Sanskrit và Pali có nghĩa bóng là, một "thể trạng dập tắt". Hình ảnh của một ngọn lửa đã bị dập tắt qua việc không còn nhiên liệu nữa... Tác giả Alexander Berzin; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 7544)
Long Thọ nói, giáo pháp của Chư Phật y trên hai chân lý, tương đối hay thế tục đế, và tuyệt đối hay thắng nghĩa đế. Những ai không phân biệt được hai chân lý này, không thể hiểu thấu giáo pháp thâm sâu... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 7990)
Kinh Hoa nghiêm, nói một cách đơn giản, là bộ kinh nghiên cứu về Pháp giới và cách phát khởi trí tuệ để thể nhập Pháp giới. Trong Pháp giớilý sự vô ngạisự sự vô ngại... Hồng Dương
(Xem: 8789)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
(Xem: 9291)
Học Phật Nên Biết - Tác Giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm, Pháp Sư Ấn Thuận, Pháp Sư Kim Minh và Phương Khắc Minh; Dịch Việt: Thích Nguyên Thành
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant